Tài liệu Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp đến khám bệnh ngoại trú tại trung tâm y tế huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh năm 2016: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 190
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP ĐẾN KHÁM BỆNH NGOẠI TRÚ
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH NĂM 2016
Lê Trường Vĩnh Phúc*, Nguyễn Thái Hà**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) là bệnh mạn tính không lây gây ra gánh nặng bệnh tật lớn, là yếu tố
nguy cơ quan trọng của các bệnh tim mạch khác. Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự suy giảm về chất lượng cuộc
sống (CLCS) ở bệnh nhân THA, chỉ đạt khoảng 50% - 70% so với người hoàn toàn khỏe mạnh.
Mục tiêu: Xác định điểm số CLCS trung bình và các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS ở bệnh nhân THA đến
khám bệnh ngoại trú tại Trung tâm Y tế huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh năm 2016
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 163 bệnh nhân đến khám bệnh ngoại trú tại Trung
tâm Y tế huyện Bến Cầu năm 2016 được chẩn đoán mắc bệnh THA. Thông tin được thu thập bằng bộ câ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp đến khám bệnh ngoại trú tại trung tâm y tế huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh năm 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 190
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP ĐẾN KHÁM BỆNH NGOẠI TRÚ
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH NĂM 2016
Lê Trường Vĩnh Phúc*, Nguyễn Thái Hà**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) là bệnh mạn tính không lây gây ra gánh nặng bệnh tật lớn, là yếu tố
nguy cơ quan trọng của các bệnh tim mạch khác. Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự suy giảm về chất lượng cuộc
sống (CLCS) ở bệnh nhân THA, chỉ đạt khoảng 50% - 70% so với người hoàn toàn khỏe mạnh.
Mục tiêu: Xác định điểm số CLCS trung bình và các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS ở bệnh nhân THA đến
khám bệnh ngoại trú tại Trung tâm Y tế huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh năm 2016
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 163 bệnh nhân đến khám bệnh ngoại trú tại Trung
tâm Y tế huyện Bến Cầu năm 2016 được chẩn đoán mắc bệnh THA. Thông tin được thu thập bằng bộ câu hỏi
phỏng vấn, bao gồm 02 phần: 1) thông tin cá nhân và 2) bộ công cụ đánh giá CLCS SF-36.
Kết quả: Điểm số CLCS trung bình của bệnh nhân THA đạt từ 50 đến 75 điểm tùy theo nhóm điểm, đạt
thấp nhất ở nhóm Sức khỏe tổng quát, đạt cao nhất ở nhóm Sự đau đớn; có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
điểm số chất lượng cuộc sống giữa các nhóm bệnh nhân chia theo tuổi, nhóm tuổi, trình độ học vấn, tình trạng
hôn nhân, nhóm phát hiện/tái khám, mắc bệnh kèm theo,sự quan tâm đến tình trạng bệnh, chỉ số huyết áp tâm
trương
Kết luận: cần quan tâm nhiều hơn đến bệnh nhân lớn tuổi, có mắc bệnh kèm theo, trình độ học vấn thấp;
giáo dục sức khỏe để bệnh nhân có kiến thức và quan tâm hơn về THA; chú trọng nâng cao sức khỏe thể chất của
bệnh nhân
Từ khóa: chất lượng cuộc sống, tăng huyết áp, bệnh nhân ngoại trú.
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE AND RELATED FACTORS AMONG HYPERTENSION PATIENTS AT
OUTPATIENT CLINIC, BEN CAU MEDICAL CENTER, TAY NINH PROVINCE, 2016
Le Truong Vinh Phuc, Nguyen Thai Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 190 - 196
Background: Hypertension is a non-communication chronic disease (NCD) which causes big burden of
disease; it’s an important risk of many cardiovascular problems. Studies has shown that hypertension decreases
patient’s quality of life (QoL), at 50% - 75% compared to healthy people.
Objectives: To identify QoL score and factors related to QoL score among hypertension patients at
outpatient clinic, Ben Cau Medical Center, Tay Ninh Province, 2016.
Methods: A cross-sectional study conducted 163 hypertension patients at outpatient clinic, Ben Cau
Medical Center, Tay Ninh Province in 2016. Study information were collected by face-to-face interview
questionnaire,, include 02 parts: 1) personal information and 2) QoL assessment tool: SF-36 questionnaire.
Results: Mean score of QoL in patients was about 50 to 75, varied from SF-36 dimensions. QoL score
was lowest at General Health dimension, highest at Pain. Significant differences about QoL score were
*Ban Quản lý đào tạo, Khoa YTCC, Đại học Y Dược TP.HCM, **TT Y tế huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh
Tác giả liên lạc: CN. Lê Trường Vĩnh Phúc ĐT: 0902871884 Email: vinhphuc0104@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 191
found between subject groups divided by: age, groups of age, education level, marriage status,
hypertension’s first diagnosis, diagnosed with other illness, concerns about hypertension, diastolic blood
pressure index.
Conclusions: patient who is old age, has more diseases than just hypertension, low education level
should be received more concerns in treatment and health care. Health education should be organized in
order to give patients knowledge and awareness about hypertension. Raising patient’s physical health also
should be focused.
Keywords: quality of life, hypertension, outpatient
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đánh giá Chất lượng cuộc sống liên quan
đến sức khoẻ (CLCS) là một công cụ y tế công
cộng đặc biệt quan trọng cho người cao tuổi ở
một thời đại mà tuổi thọ ngày càng tăng, với
mục tiêu cải thiện chất lượng những năm sống
thêm mặc dù sức khỏe luôn bị ảnh hưởng bởi
quá trình lão hóa và bệnh lý thông thường(3).
Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự suy giảm về
chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân tăng huyết
áp (THA), chỉ đạt khoảng 50% - 75% so với
người hoàn toàn khoẻ mạnh(6,9,12,13,14,15). Trong
các nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi SF-36, các
nhóm điểm về Sức khỏe thể chất thường thấp
hơn các nhóm điểm về Sức khỏe Tinh thần,
trong đó, nhóm điểm có điểm số thấp nhất
thường là điểm Sức khỏe tổng quát và điểm
Hạn chế do các vấn đề thể chất(6,12,15). Các yếu
tố nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân THA bao gồm: bệnh nhân
có các bệnh kèm theo khác như Đái tháo
đường, Các bệnh tim mạch khác(16); nhận thức
của bệnh nhân về tình trạng bệnh(2,4,5,7), kiểm
soát tình trạng bệnh(7), tình trạng tàn phế do
biến chứng THA(15), chỉ số huyết áp tâm thu và
tâm trương(1), giới tính, tình trạng hôn nhân,
trình độ học vấn, hoạt động thể lực, tuân thủ
điều trị(10), hút thuốc lá(8).
Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện để
đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân
THA trên thế giới, tuy nhiên, tại Việt Nam,
chủ đề này vẫn còn là hướng đi khá mới khi
chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá chất lượng
cuộc sống nói chung và chất lượng cuộc sống
trên bệnh nhân THA nói riêng. Do đó, việc
đánh giá chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân
THA là cần thiết để xác định tình trạng sức
khỏe thể chất cũng như tâm thần của nhóm
dân số này, sự ảnh hưởng của các yếu tố nguy
cơ đến chất lượng cuộc sống, đồng thời có sự
so sánh với các nghiên cứu đi trước.
Trung tâm y tế huyện Bến Cầu, tỉnh Tây
Ninh là huyện vùng sâu biên giới, là cơ sở
khám, phát thuốc điều trị bệnh cho bệnh nhân
trong và ngoài huyện. Theo báo cáo năm 2015,
Trung tâm đã thực hiện 80.482 số lượt khám
ngoại trú, trong đó bệnh THA đúng đầu trong
10 loại bệnh đến khám nhiều nhất, đạt 23,69%.
Trung tâm y tế huyện Bến Cầu chưa có hệ
thống quản lý và dự phòng đối với bệnh THA,
các hoạt động y tế hiện mới chỉ tập trung cho
công tác điều trị bệnh. Công tác tuyên truyền
bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng, các
hoạt động điều tra dịch tễ, đào tạo cán bộ cho
công tác phòng chống THA tại cơ sở còn hạn
chế. Trong bối cảnh đó, nhóm nghiên cứu
quyết định thực đề tài, qua đó có thể cung cấp
báo cáo tại địa điểm nghiên cứu và tại địa
phương, giúp cho người dân cũng như nhân
viên y tế hiểu thêm một khía cạnh còn khá
mới về ảnh hưởng của Tăng huyết áp đến đời
sống của bệnh nhân.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đến khám ngoại trú tại Trung
tâm Y tế huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh năm
2016 được chẩn đoán mắc bệnh tăng huyết áp.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang nhằm xác định điểm
số CLCS trung bình ở bệnh nhân THA khám
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 192
ngoại trú tại Trung tâm Y tế huyện Bến Cầu
tỉnh Tây Ninh. Nghiên cứu chọn được 163
bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu tham gia
nghiên cứu. Thông tin được thu thập bằng bộ
câu hỏi phỏng vấn mặt đối mặt, gồm 02 phần:
1) thông tin chung: phân loại bệnh nhân, chỉ
số huyết áp, năm sinh, giới tính, trình độ học
vấn, tình trạng hôn nhân, bệnh kèm theo,
quan điểm cá nhân về bệnh; 2) bộ công cụ
đánh giá CLCS SF-36 (gồm 36 câu).
Thống kê mô tả được dùng để tính điểm số
CLCS trung bình theo 08 lĩnh vực của SF-36.
Kiểm định t-test không bắt cặp, ANOVA được
sử dụng để xét mối liên quan giữa điểm số
CLCS và các yếu tố nguy cơ. Sự khác biệt được
xem là có ý nghĩa khi giá trị p < 0,05.
KẾT QUẢ
Thống kê mô tả đặc tính mẫu
Trong 163 bệnh nhân tham gia nghiên cứu,
đa số là đối tượng đến tái khám (tỷ lệ 93,9%),
hiện tại đang sống chung với vợ/chồng
(79,7%), 75,5% đối tượng cho rằng THA là một
vấn đề sức khỏe đáng quan tâm. Về cơ cấu
tuổi, phần lớn bệnh nhân thuộc 2 nhóm tuổi:
từ 60 đến 75 tuổi – chiếm tỷ lệ 44,8% và từ 45
đến 59 tuổi – chiếm tỷ lệ 38,6%. Gần một nửa
đối tượng chỉ học hết cấp 1, chiếm tỷ lệ 49,1%.
Ngoài THA, 54% đối tượng mắc kèm các bệnh
khác (Bảng 1).
Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia
nghiên cứu đạt 59,2 ± 11,3 tuổi, trong đó ghi
nhận 1 trường hợp mắc THA ở độ tuổi 20. Các
chỉ số huyết áp đạt trung bình ở mức 79 ± 7
mmHg đối với huyết áp tâm thu và 132 ± 15
đối với huyết áp tâm trương (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc tính cá nhân của mẫu nghiên cứu (n =
163)
Đặc tính mẫu Tần số (n = 163) Tỉ lệ (%)
Phân loại bệnh nhân
Phát hiện 10 6,1
Tái khám 153 93,9
Nhóm tuổi
Dưới 45 tuổi 15 9,2
Từ 45 đến 59 tuổi 63 38,6
Đặc tính mẫu Tần số (n = 163) Tỉ lệ (%)
Từ 60 đến 75 tuổi 73 44,8
Trên 75 tuổi 12 7,4
Giới tính
Nam 90 55,2
Nữ 73 44,8
Trình độ học vấn
Mù chữ/Không đi học 39 23,9
Cấp 1 80 49,1
Cấp 2 24 14,7
Cấp 3 9 5,5
Trên cấp 3 11 6,8
Tình trạng hôn nhân
Sống chung vợ/chồng 130 79,7
Ly dị/Ly thân/Góa 26 16,0
Độc thân/Chưa kết hôn 7 4,3
Mắc bệnh kèm theo
Không 75 46,0
Có 88 54,0
Loại bệnh mắc kèm theo (n=88)
Đái tháo đường 14 8,6
Bệnh tim mạch khác 11 6,7
Bệnh khác: 63 38,7
Bệnh khớp 22 13,5
Bệnh hô hấp 15 9,2
Bệnh tiêu hóa 6 3,7
Bệnh gan 4 2,5
Bệnh khác 16 9,8
Sự quan tâm đến bệnh THA
Có 123 75,5
Không 40 24,5
Tuổi 59,2 ± 11,3
Chỉ số huyết áp (TB ± ĐLC)
Tâm thu 79 ± 7
Tâm trương 132 ± 15
Điểm số CLCS ở bệnh nhân THA
Bảng 2. Điểm số CLCS ở bệnh nhân THA
Điểm số CLCS
Trung bình
± độ lệch chuẩn
Sự đau đớn 74,4 ± 21,2
Hoạt động xã hội 72,9 ± 24,3
Hạn chế do sức khỏe tâm thần 60,4 ± 27,9
Sức khỏe tâm thần 56,6 ± 15,6
Sức khỏe thể chất 54,7 ± 31,5
Hạn chế do sức khỏe thể chất 54,8 ± 28,4
Sức sống 50,5 ± 17,5
Sức khỏe tổng quát 47,9 ± 14,7
Bệnh nhân THA tham gia nghiên cứu có
các nhóm điểm số chất lượng cuộc sống trung
bình đều đạt trên 50 điểm, trừ nhóm Sức khỏe
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 193
tổng quát (47,9 điểm, thấp nhất). Sự đau đớn
là nhóm điểm có kết quả tốt nhất, đạt 74,4
điểm, kế đến là nhóm điểm Hoạt động xã hội
(72,9 điểm) và Hạn chế do sức khỏe tâm thần
(60,4 điểm).
Mối liên quan giữa điểm số CLCS và các yếu tố nguy cơ
Bảng 3. Mối liên quan giữa điểm số CLCS và các yếu tố nguy cơ
Biến số SKTC HCSKTC SĐĐ SKTQ SS HĐXH HCSKTT SKTT
Phân loại bệnh nhân
Phát hiện 62,0 ± 8,5 73,8 ± 7,4 72,0 ± 6,4 60,5 ± 5,8 58,1 ± 4,6 63,8 ± 7,8 70,0 ± 7,6 58,0 ± 6,3
Tái khám 54,2 ± 2,6 52,6 ± 2,3 74,5 ± 1,7 47,1 ± 1,1 50,0 ± 1,4 73,5 ± 2,0 59,8 ± 2,3 56,5 ± 1,2
Giá trị p 0,450 0,030 0,714 0,004 0,156 0,219 0,264 0,774
Giới tính
Nam 56,7 ± 3,4 57,0 ± 2,8 75,6 ± 2,3 47,7 ± 1,5 51,1 ± 1,8 74,0 ± 2,7 63,0 ± 2,8 58,2 ± 1,6
Nữ 52,2 ± 3,6 52,1 ± 3,6 72,8 ± 2,4 48,1 ± 1,8 49,8 ± 2,1 71,6 ± 2,7 57,3 ± 3,4 54,7 ± 1,9
Giá trị p 0,363 0,270 0,403 0,877 0,643 0,524 0,199 0,161
Mắc bệnh kèm theo
Không 63,5 ± 3,5 66,3 ± 3,0 76,8 ± 2,3 52,5 ± 1,4 53,3 ± 1,7 80,0 ± 2,5 71,3 ± 2,9 60,0 ± 1,5
Có 47,2 ± 3,3 45,0 ± 2,9 72,3 ± 2,4 44,0 ± 1,7 48,2 ± 2,1 66,9 ± 2,7 51,1 ± 2,9 53,8 ± 1,8
Giá trị p < 0,001 < 0,001 0,174 < 0,001 0,059 < 0,001 < 0,001 0,010
Sự quan tâm đến tình trạng bệnh
Có 58,3 ± 2,8 57,4 ± 2,3 76,0 ± 1,9 48,0 ± 1,2 51,7 ± 1,6 77,1 ± 2,0 64,6 ± 2,3 58,0 ± 1,3
Không 43,6 ± 4,9 46,9 ± 5,4 69,5 ± 3,2 47,6 ± 3,0 46,9 ± 2,8 60,0 ± 4,1 47,7 ± 5,0 52,3 ± 2,7
Giá trị p 0,010 0,042 0,093 0,899 0,127 < 0,001 < 0,001 0,040
Nhóm tuổi
< 45 83,3 ± 21,4 77,1 ± 25,1 86,8 ± 16,9 54,7 ± 10,1 62,9 ± 17,9 85,8 ± 14,8 77,8 ± 19,6 67,0 ± 14,4
45 – 59 68,1 ± 28,6 67,1 ± 24,7 80,3 ± 18,8 51,8 ± 14,8 57,3 ± 15,0 80,4 ± 22,3 71,0 ± 24,1 61,8 ± 13,9
60 – 75 42,9 ± 27,3 44,3 ± 25,0 68,7 ± 21,3 44,6 ± 14,0 44,6 ± 15,2 66,8 ± 24,1 51,9 ± 27,6 52,2 ± 14,0
> 75 20,0 ± 13,7 26,6 ± 20,8 62,5 ± 22,3 38,8 ± 14,9 35,4 ± 18,1 55,2 ± 25,8 34,7 ± 22,1 43,3 ± 17,5
Giá trị p 0,039 0,899 0,582 0,405 0,718 0,190 0,350 0,762
Trình độ học vấn
Mù chữ 33,7 ± 25,7 31,3 ± 24,5 68,8 ± 18,9 37,9 ± 16,5 41,7 ± 14,6 58,3 ± 26,0 32,7 ± 23,4 46,9 ± 13,9
Cấp 1 55,9 ± 30,5 57,2 ± 25,7 73,2 ± 22,9 48,3 ± 12,1 50,9 ± 17,7 75,9 ± 22,6 64,7 ± 24,4 57,9 ± 14,1
Cấp 2 67,5 ± 30,9 65,9 ± 24,9 76,6 ± 20,6 57,5 ± 14,7 56,0 ± 17,1 76,6 ± 20,0 71,2 ± 18,9 61,5 ± 17,1
Cấp 3 71,1 ± 24,3 77,8 ± 17,1 83,1 ± 11,2 55,0 ± 5,6 58,3 ± 16,2 80,6 ± 28,0 86,1 ± 13,2 60,6 ± 18,6
> cấp 3 79,1 ± 23,5 77,8 ± 19,0 91,1 ± 11,9 53,2 ± 10,8 60,8 ± 14,3 88,6 ± 13,1 83,3 ± 17,1 68,2 ± 8,4
Giá trị p 0,606 0,551 0,030 0,009 0,694 0,124 0,142 0,143
Tình trạng hôn nhân
Vợ/chồng 57,2 ± 30,9 56,2 ± 27,7 75,5 ± 20,7 48,0 ± 14,5 51,4 ± 16,5 75,2 ± 24,2 61,3 ± 27,7 57,7 ± 13,9
Ly dị/Góa 38,3 ± 28,4 42,1 ± 27,4 66,8 ± 21,1 43,8 ± 13,4 43,0 ± 17,4 63,9 ± 21,0 50,3 ± 26,7 49,6 ± 17,8
Độc thân 68,6 ± 36,9 75,9 ± 31,5 82,5 ± 25,7 60,7 ±18,6 62,5 ± 25,5 64,3 ± 31,0 81,0 ± 25,8 63,6 ± 27,6
Giá trị p 0,687 0,896 0,741 0,562 0,253 0,427 0,954 0,008
Loại bệnh kèm theo (n=88)
ĐTĐ 44,3 ± 26,7 43,8 ± 31,5 66,6 ± 15,0 39,6 ± 14,6 46,0 ± 20,3 62,5 ± 27,7 46,4 ± 27,3 53,2 ± 15,0
TM khác 43,2 ± 28,6 46,6 ± 25,1 61,6 ± 28,1 44,5 ± 14,4 41,5 ± 21,0 64,8 ± 29,5 59,1 ± 26,5 51,4 ± 15,5
Bệnh khác 48,5 ± 32,5 44,9 ± 26,6 75,4 ± 22,1 44,8 ± 16,2 49,8 ± 18,8 68,3 ± 24,2 50,8 ± 27,0 54,3 ± 17,6
Giá trị p 0,643 0,679 0,114 0,820 0,867 0,614 0,995 0,723
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
điểm số CLCS giữa các nhóm bệnh nhân chia
theo nhóm tuổi, trình độ học vấn, tình trạng
hôn nhân, nhóm phát hiện/tái khám, mắc bệnh
kèm theo, quan tâm đến tình trạng bệnh (giá
trị < 0,05). Tuy nhiên điểm số chất lượng cuộc
sống giữa các nhóm giới tính, loại bệnh mắc
kèm theo khác nhau không có ý nghĩa thống
kê (giá trị p > 0,05) (Bảng 3).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 194
Bảng 4. Mối liên quan giữa điểm số CLCS với tuổi và chỉ số huyết áp
Điểm CLCS
Tuổi Huyết áp tâm thu Huyết áp tâm trương
HSTQ Giá trị p HSTQ Giá trị p HSTQ Giá trị p
SKTC -1,6 < 0,001 0,2 0,480 -0,2 0,307
HCSKTC -1,4 < 0,001 -0,0 0,940 -0,3 0,061
SĐĐ -0,7 < 0,001 -0,2 0,280 -0,1 0,202
SKTQ -0,5 < 0,001 -0,1 0,749 -0,1 0,278
SS -0,8 < 0,001 -0,2 0,200 -0,1 0,173
HĐXH -0,8 < 0,001 -0,1 0,613 -0,3 0,016
HCSKTT -1,2 < 0,001 0,8 0,788 -0,2 0,197
SKTT -0,7 < 0,001 -0,2 0,317 -0,1 0,102
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
điểm số chất lượng cuộc sống giữa các nhóm
bệnh nhân theo tuổi và chỉ số huyết áp tâm
trương (giá trị p < 0,05), tuy nhiên sự thay đổi
điểm số chất lượng cuộc sống theo chỉ số
huyết áp tâm thu là không có ý nghĩa thống kê
(giá trị p > 0,05) (Bảng 5).
BÀN LUẬN
Điểm số CLCS ở đối tượng nghiên cứu
Điểm số chất lượng cuộc sống trung bình
của bệnh nhân THA trong nghiên cứu của
chúng tôi đạt từ 50 đến 75 điểm tùy theo
nhóm điểm, đạt thấp nhất ở nhóm Sức khỏe
tổng quát (47,9 ± 14,7 điểm), đạt cao nhất ở
nhóm Sự đau đớn (74,4 ± 21,2 điểm) (Bảng 2).
Kết quả nghiên cứu là tương tự với báo cáo
của Trần Công Duy năm 2014 thực hiện tại
bệnh viện Chợ Rẫy(12). Tuy nhiên, các nghiên
cứu quốc tế báo cáo điểm số CLCS trung bình
cao hơn nghiên cứu của chúng tôi(6,9,11). Sự
khác biệt về đối tượng tham gia nghiên cứu có
thể dẫn đến sự khác biệt về điểm số CLCS nêu
trên: bệnh nhân lớn tuổi thường có điểm số
CLCS kém hơn so với nhóm bệnh nhân trẻ
tuổi hoặc đã được điều trị bệnh trong khoảng
thời gian dài.
Mối liên quan giữa điểm số CLCS ở bệnh
nhân THA với các yếu tố nguy cơ
Tuổi và nhóm tuổi là yếu tố nguy cơ có
liên quan với tất cả các lĩnh vực sức khỏe. Kết
quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân THA có
tuổi càng cao thì điểm chất lượng cuộc sống
càng giảm. Kết quả này là phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của con người: trong quá
trình già hóa, các nguy cơ có hại cho sức khỏe
ngày càng gia tăng do sự thay đổi của cơ thể
về mặt sinh lý và cơ năng, khiến con người trở
nên dễ tổn thương trước các bệnh mạn tính
không lây, ảnh hưởng xấu đến chất lượng
cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với kết quả nghiên cứu của các tác
giả khác(9,12).
Trình độ học vấn cao là một yếu tố ảnh
hưởng tích cực đến chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân THA ở lĩnh vực Sức khỏe tổng quát
và Sự đau đớn. Kết quả tìm thấy là tương tự
với các nghiên cứu đi trước(9,10,12). Bệnh nhân
THA có trình độ học vấn cao sẽ có sự nhận
thức và hiểu biết về bệnh tật tốt hơn, do vậy,
họ có tâm lý dễ thích nghi với bệnh và tuân
thủ điều trị tốt hơn so với những người có
trình độ học vấn thấp. Kết quả trên cũng phần
nào cho thấy tính hiệu quả của hoạt động giáo
dục bệnh nhân trong việc tạo cho họ cảm giác
yên tâm khi đối mặt với bệnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm
điểm Sức khỏe tâm thần, nhóm bệnh nhân độc
thân mới là nhóm có điểm số chất lượng cuộc
sống cao nhất, kế đến là nhóm đang sống
chung với vợ/chồng, thấp nhất là nhóm ly
thân/ly dị/góa. Có thể giải thích kết quả này
do nhóm bệnh nhân độc thân không bị ràng
buộc quá nhiều bởi các mối quan hệ xã hội,
không gặp áp lực do đời sống gia đình tạo ra,
do đó phần nào họ cảm thấy tự do, thoải mái
hơn, nhất là về mặt tinh thần.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 195
Bệnh nhân có mắc bệnh kèm theo có điểm
số chất lượng cuộc sống thấp hơn so với bệnh
nhân chỉ mắc THA. Kết quả nghiên cứu này
của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của
Trần Công Duy thực hiện tại Bệnh viện Chợ
Rẫy năm 2014(12). Tuy nhiên, khi đi sâu phân
tích, chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt về
điểm số chất lượng cuộc sống theo từng loại
bệnh cụ thể. Việc mắc thêm một loại bệnh
khác, dù là đái tháo đường, bệnh tim mạch
khác, bệnh thấp khớp,... cũng đều ảnh hưởng
tiêu cực đến sức khỏe của bệnh nhân THA và
mức độ ảnh hưởng của các loại bệnh này là
như nhau trong nghiên cứu của chúng tôi.
So sánh với nhóm bệnh nhân phát hiện
THA lần đầu, nhóm bệnh nhân tái khám có
điểm số chất lượng cuộc sống thấp hơn ở lĩnh
vực Hạn chế do sức khỏe thể chất và lĩnh vực
Sức khỏe tổng quát. Ở nhóm bệnh nhân tái
khám, họ đã biết mình bị bệnh, do vậy họ
quan tâm, lo lắng đến những thay đổi của bản
thân; thêm nữa, với suy nghĩ mình là người
mang bệnh, bệnh nhân có xu hướng đánh giá
chất lượng cuộc sống của mình thấp đi. Bệnh
nhân cho rằng THA là vấn đề sức khỏe đáng
quan tâm có chất lượng cuộc sống cao hơn so
với bệnh nhân không quan tâm đến THA.
Những bệnh nhân có quan tâm đến bệnh sẽ tự
giác tìm kiếm thông tin về bệnh tật, qua đó
nắm vững kiến thức về cách phòng ngừa và
điều trị bệnh đúng cách, do vậy họ có sự tự tin
hơn về sức khỏe của mình.
Điểm số chất lượng cuộc sống được ghi
nhận thấp hơn ở lĩnh vực Hoạt động xã hội
khi chỉ số huyết áp tâm trương tăng. Kết quả
ghi nhận được là khá hợp lý khi bệnh nhân có
huyết áp cao có xu hướng hạn chế các hoạt
động thể dục thể thao, giao tiếp xã hội do e
ngại các biến chứng có thể xảy ra trong lúc
vận động (bất tỉnh, đột quỵ,...).
Bên cạnh những kết quả đạt được, những
hạn chế trong nghiên cứu cũng được chúng tôi
ghi nhận. Do sử dụng bộ câu hỏi theo chuẩn
quốc tế, phiên bản tiếng Việt được dịch từ bản
gốc tiếng Anh nên khi sử dụng bộ câu hỏi SF-
36, một số từ ngữ không thực sự rõ nghĩa,
khiến đối tượng phỏng vấn gặp khó khăn
trong quá trình trả lời. Phương pháp lấy mẫu
của nghiên cứu là lấy mẫu thuận tiện, đồng
thời địa điểm nghiên cứu là một cơ sở y tế tại
địa phương, vì vậy, khả năng khái quát hóa
kết quả ra cộng đồng còn hạn chế, đặc biệt là
đối với đối tượng không biết mình đang mắc
THA. Do năng lực nghiên cứu còn hạn chế,
nhóm nghiên cứu cũng chưa thực hiện được
việc sử dụng đồng thời bộ câu hỏi SF-36 và
một bộ câu hỏi chuyên dùng đánh giá chất
lượng cuộc sống ở bệnh nhân THA, vì vậy
chưa so sánh được kết quả giữa việc sử dụng 2
bộ câu hỏi này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alireza K, Mohammad AR, Nafiseh T, Katayoon R,
Mandana J, Alireza Y (2010), "Association between
hypertension and quality of life in a sample of Iranian
adults". Acta Cardiologica, 65 (4): 425-30.
2. Banegas JR, Guallar-Castillón P, Rodríguez-Artalejo F,
Graciani A, López-García E, Ruilope LM (2006),
"Association between awareness, treatment, and control of
hypertension, and quality of life among older adults in
Spain". American Journal of Hypertension, 19 (7): 686-93.
3. CDC Health-Related Quality of Life (HRQOL): HRQOL
concepts, accessed on
27 Jan 2016.
4. Hayes DK, Denny CH, Keenan NL, Croft JB, Greenlund
KJ (2008), "Health-related quality of life and hypertension
status, awareness, treatment, and control: National Health
and Nutrition Examination Survey, 2001--2004". Journal of
Hypertension, 26 (4): 641-7.
5. Korhonen PE, Kivelä SL, Kautiainen H, Järvenpää S,
Kantola I (2011), "Health-related quality of life and
awareness of hypertension". Journal of Hypertension, 29
(11): 2070-4.
6. Khaw WF, Hassan STS, and Latiffah AL (2011), "Health-
related Quality of Life among Hypertensive Patients
Compared with General Population Norms". Journal of
Medical Sciences, 11 (2): 84-9.
7. Li W, et al. (2005), "Hypertension and health-related
quality of life: an epidemiological study in patients
attending hospital clinics in China". Journal of
Hypertension, 23 (9): 1667-76.
8. Maatouk I, et al. (2012), "Longitudinal predictors of
health-related quality of life in middle-aged and older
adults with hypertension: results of a population-based
study". Journal of Hypertension, 30 (7): 1364-72.
9. Maria VC, Liza BS, Ana LLS, Paulo CBVJ (2013), "The
Influence of Hypertension on Quality of Life". Arquivos
Brasileiros de Cardiologia, 100 (2): 164-74.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 196
10. Ninh TH, Hoa TD, Ninh HL, Vishnu K, and Rachael M
(2014), "Quality of life among people living with
hypertension in a rural Vietnam community". BMC Public
Health, 14: 833.
11. Sawsan S, Abdulmula A, Mohammed S, Fadi S (2014),
"Quality Of Life of Hypertensive Patients on Different
Types of Antihypertensive Medications". IOSR Journal Of
Pharmacy, 4(5): 23-8.
12. Trần Công Duy, Châu Ngọc Hoa (2014), “Chất lượng cuộc
sống ở bệnh nhân tăng huyết áp”,
www.timmachhoc.vn/tong-hop-tu-nghien-cuu-tren-lam-
sang/1120-chat-luong-cuoc-song-o-benh-nhan-tang-huyet-
ap.html, 30 Jan 2016.
13. Trần Kim Trang (2011), "Chất lượng cuộc sống ở người
tăng huyết áp". Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15 (1):
104-11.
14. Trevisol DJ, Moreira LB, Fuchs FD, and Fuchs SC (2011),
"Health-related quality of life is worse in individuals with
hypertension under drug treatment: results of population-
based study". Journal of Human Hypertension, 26 (6): 374-80.
15. Wang R, et al (2009), "Impact of hypertension on health-
related quality of life in a population-based study in
Shanghai, China.". Public Health, 123 (8): 534-9.
16. Young RC, In SL, Hyo YL (2014), "Effects of Hypertension,
Diabetes, and/or Cardiovascular Disease on Health-
related Quality of Life in Elde rly Korean Individuals: A
Population- based Cross-sectional Survey". Asian Nursing
Research, 8: 267-73.
Ngày nhận bài báo: 02/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_cuoc_song_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_benh_nhan_tan.pdf