Chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn chưa được điều trị

Tài liệu Chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn chưa được điều trị: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 179 điểm ngáy và BMI trong tầm soát hội chứng ngưng thở lúc ngủ do tắc nghẽn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(1), 64-69. 8. He QY, et al. (2010). Relationship of daytime blood pressure and severity of obstructive sleep apnea among Chinese: a multi-center investigation in China. Chin Med J (Engl), 123(1), 18-22. 9. Kang HH, et al. (2014). The associations between anthropometric indices and obstructive sleep apnea in a Korean population. PLoS One, 9(12), e114463. 10. Lê Thượng Vũ, Đặng Vũ Thông, Nguyễn Thị Ngọc Bích, Lâm Quốc Dũng, Đặng Thị Bích Ngân, Vũ Hoài Nam, et al. (2011). Hội chứng ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn tại Việt Nam. Tạp chí Hô hấp Pháp - Việt, 02(01), 72-77. 11. Lee W, Lee SA, Ryu HU, Chung YS & Kim WS. (2016). Quality of life in patients with obstructive sleep apnea: Relationship with daytime sleepiness, sleep quality, depression, and apnea severity....

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 170 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn chưa được điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 179 điểm ngáy và BMI trong tầm sốt hội chứng ngưng thở lúc ngủ do tắc nghẽn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(1), 64-69. 8. He QY, et al. (2010). Relationship of daytime blood pressure and severity of obstructive sleep apnea among Chinese: a multi-center investigation in China. Chin Med J (Engl), 123(1), 18-22. 9. Kang HH, et al. (2014). The associations between anthropometric indices and obstructive sleep apnea in a Korean population. PLoS One, 9(12), e114463. 10. Lê Thượng Vũ, Đặng Vũ Thơng, Nguyễn Thị Ngọc Bích, Lâm Quốc Dũng, Đặng Thị Bích Ngân, Vũ Hồi Nam, et al. (2011). Hội chứng ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn tại Việt Nam. Tạp chí Hơ hấp Pháp - Việt, 02(01), 72-77. 11. Lee W, Lee SA, Ryu HU, Chung YS & Kim WS. (2016). Quality of life in patients with obstructive sleep apnea: Relationship with daytime sleepiness, sleep quality, depression, and apnea severity. Chron Respir Dis, 13(1), 33-39. 12. Martinez-Garcia MA, Soler-Cataluna JJ, Roman-Sanchez P, Gonzalez V, Amoros C & Montserrat JM. (2009). Obstructive sleep apnea has little impact on quality of life in the elderly. Sleep Med, 10(1), 104-111. 13. Punjabi NM. (2008). The epidemiology of adult obstructive sleep apnea. Proc Am Thorac Soc, 5(2), 136-143. 14. Reddy EV, et al. (2009). Prevalence and risk factors of obstructive sleep apnea among middle-aged urban Indians: a community-based study. Sleep Med, 10(8), 913-918. 15. Sow WT, et al. (2014). Normative Data for the Singapore English and Chinese SF-36 Version 2 Health Survey. Ann Acad Med Singapore, 43(1), 15-23. 16. Trần Minh Huy, Lê Thị Tuyết Lan & Nguyễn Xuân Bích Huyên. (2013). Vai trị của bảng câu hỏi Berlin trong tầm sốt ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(1), 123-129. 17. Vũ Hồi Nam & Trần Văn Ngọc. (2009). Đánh giá đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn. Unpublished Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP.HCM. 18. Wang PC, Li HY, Shih TS, Gliklich RE, Chen NH & Liao YF. (2006). Generic and specific quality-of-life measures in Taiwanese adults with sleep-disordered breathing. Otolaryngol Head Neck Surg, 135(3), 421-426. 19. Wu MN, et al. (2015). More severe hypoxemia is associated with better subjective sleep quality in obstructive sleep apnea. BMC Pulm Med, 15, 117. 20. Yusoff MF, et al. (2010). Obstructive sleep apnea among express bus drivers in Malaysia: important indicators for screening. Traffic Inj Prev, 11(6), 594-599. Ngày nhận bài báo: 10/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 180 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TRÊN BỆNH NHÂN NGƯNG THỞ LÚC NGỦ TẮC NGHẼN CHƯA ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ Bùi Diễm Khuê*, Mai Phương Thảo* TĨM TẮT Mở đầu: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn (NTLNTN) đặc trưng bởi sự tắc nghẽn gián đoạn đường hơ hấp trên một phần hay hồn tồn, liên quan đến giảm oxy máu, vi thức giấc lặp đi lặp lại, sự phân mảnh giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ kém. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã ghi nhận những ảnh hưởng của NTLNTN lên sức khỏe và chất lượng cuộc sống (CLCS). Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa mức độ nặng của NTLNTN và CLCS theo thang đo SF-36. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mơ tả trên bệnh nhân NTLNTN chưa được điều trị, sử dụng bộ câu hỏi SF-36 (36-Item Short Form Survey). Kết quả: Cĩ 65 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. Tuổi trung bình 51,4 ± 14,9. Bệnh nhân cĩ NTLNTN càng nặng, CLCS càng cao (ở tất cả lĩnh vực, ngoại trừ cảm nhận đau đớn), sự khác biệt khơng cĩ ý nghĩa thống kê. SpO2 thấp nhất cĩ tương quan nghịch khơng đáng kể với điểm số CLCS ở cả 8 lĩnh vực. Kết luận: Chưa chứng minh được độ nặng của NTLNTN cĩ tương quan với CLCS của người bệnh. Từ khĩa: ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn (NTLNTN), chất lượng cuộc sống (CLCS), SF-36 ABSTRACT QUALITY OF LIFE IN UNTREATED OBSTRUCTIVE SLEEP APNEA PATIENTS Bui Diem Khue, Mai Phuong Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 180 - 185 Background: Obstructive sleep apnea (OSA) has characteristic of partly or completely interrupted obstruction of upper respiratory tract, concerns with oxygen reduction, repeated arousals, sleep fragmentation and poor sleep quality. There are many studies revealed the impact of OSA on health and quality of life (QoL). Objectives: Investigate the correlation between the severity of OSA and QoL. Materials and Method: Cross-sectional observational study in untreated OSA patients, assessed by the SF- 36 (36-Item Short Form Survey). Results: Sixty-five patients were included. Mean age was 51.4 ± 14.9. The more severity of OSA, the higher of the QoL scores (except bodily pain), this was not statistically significant. The minimum SpO2 had insignificantly negative correlation with all 8 domains of QoL. Conclusion: The severity of OSA was not proven to correlate with impairment of QoL. Key words: obstructive sleep apnea (OSA), quality of life, SF-36 ĐẶT VẤN ĐỀ Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn (NTLNTN) là một rối loạn giấc ngủ phổ biến, đặc trưng bởi sự tắc nghẽn gián đoạn đường hơ hấp trên một phần hay hồn tồn, liên quan đến giảm oxy máu, vi thức giấc lặp đi lặp lại, sự phân mảnh giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ kém. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã ghi nhận những ảnh hưởng của rối loạn hơ hấp trong giấc ngủ lên sức khỏe và chất lượng cuộc sống, đặc biệt là đối với * Bộ mơn Sinh lý học, Đại Học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: BS Bùi Diễm Khuê ĐT: 01237829781 Email: bui.diemkhue@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 181 NTLNTN(2). Các bệnh nhân NTLNTN thường cĩ chất lượng cuộc sống kém về mặt xã hội, cảm xúc và thể chất(1); rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân NTLNTN cũng làm tăng xung đột trong gia đình và xã hội(5). Tuy nhiên, trong cùng một bệnh lý, chất lượng cuộc sống cĩ thể khác biệt giữa các quốc gia và nền văn hĩa khác nhau. Do vậy, kết luận từ một nghiên cứu ở nước ngồi sẽ khĩ đo lường được chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân NTLNTN của Việt Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tơi sử dụng bảng câu hỏi SF-36 (36-Item Short Form Survey) nhằm đánh giá những ảnh hưởng của NTLNTN lên chất lượng cuộc sống của người bệnh chưa được điều trị. Bảng câu hỏi này đã được dịch sang tiếng Việt và kiểm định qua nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường(9). ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân đến khám tại Khoa Thăm dị chức năng – Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 9/2016 – 10/2017, vì cĩ một hay nhiều triệu chứng rối loạn giấc ngủ hoặc đã được khám tại khoa/phịng/cơ sở y tế khác và được gửi đến Khoa Thăm dị chức năng – Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM để đo đa ký giấc ngủ (ĐKGN). Tiêu chuẩn chọn vào Bệnh nhân đồng ý đo đa ký giấc ngủ và trả lời các bảng câu hỏi. Bệnh nhân được chẩn đốn NTLNTN dựa trên bệnh án và đa ký giấc ngủ. Bệnh nhân chưa được điều trị NTLNTN. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân cĩ bệnh lý rối loạn giấc ngủ khác: mất ngủ, ngủ rũ, rối loạn cử động chân cĩ chu kỳ, mộng du. Bệnh nhân khơng hồn thành bảng câu hỏi. Bệnh nhân cĩ bệnh lý khác ảnh hưởng đến việc đọc (hoặc nghe), hiểu bảng câu hỏi. Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mơ tả. Phương pháp thống kê Nhập số liệu bằng phần mềm MS Excel 2007. Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 13, MS Excel 2007. KẾT QUẢ Nghiên cứu của chúng tơi thực hiện tại Khoa Thăm dị chức năng hơ hấp - Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 9/2016 đến tháng 10/2017, số liệu ghi nhận trên 65 bệnh nhân được chẩn đốn NTLNTN. Đặc điểm lâm sàng và đa ký giấc ngủ Cĩ 65 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, trong đĩ nam giới chiếm 71%. Tuổi trung bình ± độ lệch chuẩn (ĐLC) là 51,4 ± 14,9, nhỏ nhất 20 tuổi và lớn nhất 87 tuổi. Trong mẫu nghiên cứu, đa số bệnh nhân đến từ tỉnh thành khác ngồi TP. Hồ Chí Minh (66%), ngồi ra phần lớn bệnh nhân cĩ tri thức cao (tốt nghiệp cấp III trở lên), chiếm 86%. BMI của mẫu nghiên cứu cĩ trung vị 27,1 kg/m2, phần lớn bệnh nhân cĩ béo phì, trong đĩ béo phì độ I là 56% và độ II là 23%. Các chỉ số vịng cổ, vịng bụng và đa ký giấc ngủ được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu Đặc điểm Trung bình ± ĐLC Trung vị (khoảng tứ phân vị) Tuổi (năm) 51,4 ± 14,9 Chỉ số khối cơ thể (BMI) 27,1 (25,3 – 29,5) Béo phì độ I (%) 56 Béo phì độ II (%) 23 Vịng cổ (cm) 40,3 ± 3,9 Vịng bụng (cm) 99,7 ± 10,0 Điểm Epworth 8,6 ± 5,1 AHI (số biến cố/giờ) 24,4 (11,8 – 59,3) SpO2 thấp nhất (%) 73 (63 - 79) Điểm Epworth cĩ trung bình ± ĐLC là 8,6 ± 5,1, giá trị nhỏ nhất là 0, giá trị lớn nhất là 22. Cĩ 21 bệnh nhân (33%) cĩ buồn ngủ ban ngày quá mức (điểm Epworth ≥ 11). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 182 Hình 1. Phân bố mức độ buồn ngủ ban ngày Chỉ số ngưng thở-giảm thở (AHI) của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu cĩ trung vị 24,4, khoảng tứ phân vị 11,8 – 59,3 (số biến cố/giờ). Giá trị AHI thấp nhất là 5,4 và cao nhất là 93. Bảng 2. Điểm số SF-36 Lĩnh vực Trung vị KTPV CNTC (Chức năng thể chất) 65 45 – 90 VTTC (Vai trị thể chất) 25 0 – 100 CNĐĐ (Cảm nhận đau đớn) 62 31 – 84 SKTQ (Sức khỏe tổng quát) 35 25 – 50 CNSS (Cảm nhận sức sống) 55 40 – 65 CNXH (Chức năng xã hội) 75 50 – 100 VTCX (Vai trị cảm xúc) 33,33 0 – 66,67 TTTQ (Tinh thần tổng quát) 60 48 – 76 SpO2 thấp nhất của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu cĩ trung vị 73 (%), khoảng tứ phân vị 63-79 (%). Điểm số chất lượng cuộc sống theo SF-36. Điểm số 8 lĩnh vực sức khỏe cĩ trung vị dao động từ 25 đến 75 điểm. Mối liên quan giữa CLCS và các đặc điểm của bệnh nhân Trong 8 lĩnh vực sức khỏe, chỉ cĩ CNTC cĩ tương quan khá với tuổi. Tuổi càng cao, CLCS về mặt CNTC càng thấp. Sự khác biệt này cĩ ý nghĩa thống kê (p<0,001). Các lĩnh vực cịn lại tương quan khơng đáng kể so với tuổi. Điểm số CNTC, CNĐĐ, SKTQ, CNSS và VTCX khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ. Nam giới cĩ CLCS ở các lĩnh vực này cao hơn so với nữ giới. Ở các lĩnh vực cịn lại, nam giới cũng cĩ CLCS cao hơn, nhưng sự khác biệt khơng cĩ ý nghĩa thống kê. Bảng 3. Mối liên quan giữa điểm số 8 lĩnh vực và tuổi CNTC VTTC CNĐĐ SKTQ CNSS CNXH VTCX TTTQ Tuổi r (p) -0,58 (< 0,001) -0,16 (1) -0,09 (1) -0,01 (1) 0,11 (1) 0,12 (1) -0,25 (1) 0,3 (0,57) Bảng 4. Mối liên quan giữa điểm số 8 lĩnh vực và BMI, vịng cổ, vịng bụng CNTC VTTC CNĐĐ SKTQ CNSS CNXH VTCX TTTQ BMI r (p) -0,12 (1) -0,02 (1) -0,06 (1) -0,2 (1) -0,08 (1) -0,04 (1) 0 (1) 0,14 (1) Vịng cổ r (p) 0,12 (1) 0,21 (1) 0,2 (1) 0,12 (1) 0,27 (1) 0,35 (0,28) 0,17 (1) 0,33 (0,41) Vịng bụng r (p) -0,33 (0,45) -0,04 (1) -0,06 (1) -0,18 (1) 0,08 (1) 0,12 (1) 0,11 (1) 0,29 (1) Tám lĩnh vực sức khỏe cĩ tương quan khơng đáng kể (|r| < 0,2) đến tương quan yếu (0,2 < |r| < 0,4) với BMI, vịng cổ và vịng bụng (Bảng 3). Tất cả mối tương quan này đều khơng cĩ ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Điểm số 8 lĩnh vực ở các bệnh nhân NTLNTN mức độ nặng cao hơn điểm số ở các bệnh nhân cĩ NTLNTN mức độ nhẹ và trung bình, ngoại trừ điểm CNĐĐ. Tất cả sự khác biệt này khơng cĩ ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhìn chung, 8 lĩnh vực sức khỏe cĩ tương quan khơng đáng kể (|r| < 0,2) với AHI và SpO2 thấp nhất khi ngủ. Tất cả mối tương quan này khơng cĩ ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Bảng 5. Mối liên quan giữa điểm số 8 lĩnh vực và các chỉ số ĐKGN CNTC VTTC CNĐĐ SKTQ CNSS CNXH VTCX TTTQ AHI r (p) 0,13 (1) 0,11 (1) 0,07 (1) 0,21 (1) 0,24 (1) 0,12 (1) 0,14 (1) 0,22 (1) SpO2 thấp nhất r (p) -0,01 (1) -0,03 (1) -0,02 (1) -0,08 (1) -0,28 (1) -0,05 (1) -0,09 (1) -0,22 (1) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 183 Hình 2. Mối liên quan giữa điểm số 8 lĩnh vực với mức độ NTLNTN BÀN LUẬN Chúng tơi ghi nhận NTLNTN mức độ nặng chiếm đa số (45%), tương tự một số nghiên cứu khác(3, 8). Điều này cho thấy phần lớn bệnh nhân NTLNTN đến khám khi bệnh đã nặng. Kết quả SpO2 thấp nhất của chúng tơi tương đồng với nghiên cứu của Kang HH(3) nhưng cao hơn kết quả nghiên cứu của Vũ Hồi Nam(10), cĩ thể do nghiên cứu của Vũ Hồi Nam thực hiện ở bệnh viện Chợ Rẫy, đa phần bệnh nhân ở đây là bệnh nhân nặng, và chỉ số ngưng thở-giảm thở rất cao so với nghiên cứu của chúng tơi: 42,4 ± 28,2 so với 24,4 (11,8 – 59,3). Về đặc điểm thang đo SF-36, thang đo này khơng cĩ giá trị ngưỡng (cut-off) cố định cho 8 lĩnh vực sức khỏe; thay vào đĩ, điểm số từng lĩnh vực của dân số nghiên cứu cĩ thể so sánh với với điểm số tương ứng của dân số chung(12). Hiện nay ở Việt Nam chưa cĩ điểm số của thang đo SF-36 trên dân số chung cũng như trên nhĩm bệnh nhân NTLNTN, nên chúng tơi so sánh điểm số 8 lĩnh vực sức khỏe trên 3 nhĩm NTLNTN (nhẹ, trung bình, nặng) và tính hệ số tương quan giữa các điểm số này với các biến số khác. Ngồi ra, từ điểm số 8 lĩnh vực sức khỏe, việc tính điểm số của 2 thành phần sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cần chuẩn hĩa điểm mỗi lĩnh vực theo dân số tương ứng và hệ số hĩa điểm chuẩn hĩa của mỗi lĩnh vực với các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và hệ số trong dân số tương ứng. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, chưa cĩ các tham số này trên dân số Việt Nam dựa trên các nghiên cứu nên chúng tơi chỉ tính điểm số của 8 lĩnh vực sức khỏe mà khơng thể tính điểm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 184 số chung của 2 thành phần sức khỏe. So với các nghiên cứu của Ware, Wang và Martínez-García(6, 11, 12), nghiên cứu của chúng tơi cĩ điểm số 8 lĩnh vực khá thấp, chỉ cĩ điểm CNSS là tương đồng với các nghiên cứu trên. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của chúng tơi cĩ chênh lệch ít nhất so với nghiên cứu của Wang tại Đài Loan. Những sự chênh lệch này cĩ thể do dân số, vấn đề địa lý, văn hĩa ở mỗi nghiên cứu là khác nhau, mặc dù chúng tơi đã cố gắng chọn các thiết kế nghiên cứu tương đối gần giống nhau. Khi tìm hiểu trị số tham khảo trên dân số chung ở một số nước châu Á, chúng tơi nhận thấy các dân tộc người Hoa, Malay và Ấn tại Singpore cĩ trị số tham khảo thấp hơn khá nhiều so với trị số này ở người Mỹ(7, 12). Về mối liên quan giữa các đặc điểm bệnh nhân và CLCS, chúng tơi ghi nhận tuổi bệnh nhân cĩ tương quan khá với lĩnh vực CNTC, tuổi càng cao, điểm số CNTC càng thấp, mối tương quan này cĩ ý nghĩa thống kê (r = -0,58, p < 0,001). Tuổi bệnh nhân cĩ tương quan khơng đáng kể hoặc tương quan thấp với các lĩnh vực cịn lại và khơng cĩ ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Martínez-García cĩ kết quả khá tương đồng với chúng tơi khi ghi nhận chỉ cĩ điểm số CNTC và TTTQ khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê giữa nhĩm bệnh nhân NTLNTN trên 65 tuổi và dưới 65 tuổi(6). Trong mẫu nghiên cứu, chúng tơi ghi nhận nam giới cĩ điểm số 8 lĩnh vực sức khỏe cao hơn nữ giới, riêng ở các lĩnh vực CNTC, CNĐĐ, SKTQ, CNSS và VTCX, sự khác biệt này là cĩ ý nghĩa thống kê. Điều này cĩ thể do nữ giới dễ bị tác động về thể chất và tâm lý hơn nam giới. Kết quả của chúng tơi tương đồng với nghiên cứu của Bjưrnsdĩttir, trong đĩ ghi nhận điểm số thành phần sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần ở nữ giới đều thấp hơn nam giới, sự khác biệt này cĩ ý nghĩa thống kê(1). Về BMI, chúng tơi ghi nhận BMI cĩ tương quan nghịch với 6 lĩnh vực CNTC, VTTC, CNĐĐ, SKTQ, CNSS và CNXH, cho thấy BMI càng cao, CLCS ở các lĩnh vực này càng thấp. BMI cĩ tương quan thuận khơng đáng kể với VTCX và TTTQ (r < 0,20). Tuy nhiên, tất cả mối tương quan này đều khơng cĩ ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Bjưrnsdĩttir cũng ghi nhận BMI tương quan nghịch với điểm số thành phần sức khỏe thể chất (gồm CNTC, VTTC, CNĐĐ, SKTQ) nhưng tương quan thuận với thành phần sức khỏe tinh thần (gồm CNSS, CNXH, VTCX, TTTQ), các mối tương quan này cĩ ý nghĩa thống kê(1). Trong nghiên cứu của chúng tơi, vịng cổ và vịng bụng cũng cĩ sự khác biệt nhỏ giữa các lĩnh vực thuộc thành phần sức khỏe thể chất (CNTC, VTTC, CNĐĐ, SKTQ) và các lĩnh vực thuộc thành phần sức khỏe tinh thần (CNSS, CNXH, VTCX, TTTQ). Vịng cổ cĩ tương quan thuận khơng đáng kể với thành phần SKTC và tương quan thuận thấp với thành phần SKTT. Vịng bụng cĩ tương quan nghịch với thành phần SKTC nhưng tương quan thuận với thành phần SKTT, tuy nhiên cả 2 tương quan này đều khơng đáng kể. Như vậy, dường như vịng cổ và vịng bụng khơng ảnh hưởng đến SKTC nhưng 2 chỉ số này cao lại cho thấy SKTT tốt hơn. Kết quả này phù hợp với chỉ số BMI đã bàn luận ở trên. Về mối liên quan với độ nặng của NTLNTN, theo Hình 2, chúng tơi nhận thấy ngoại trừ điểm CNĐĐ, điểm số 7 lĩnh vực cịn lại đều tăng dần theo mức độ nặng của NTLNTN, cho thấy bệnh càng nặng, CLCS ở các lĩnh vực này càng cao. Tuy nhiên, khi sử dụng phép kiểm Kruskal– Wallis để so sánh điểm số giữa các mức độ NTLNTN, chúng tơi khơng ghi nhận sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê. Ngồi ra, các chỉ số SpO2, chỉ số vi thức giấc, phần trăm ngáy cũng khơng tương quan đáng kể với các điểm số CLCS. Các kết quả này dường như trái ngược với nhiều nghiên cứu về CLCS trên bệnh nhân NTLNTN, trong đĩ các tác giả ghi nhận CLCS giảm theo mức độ nặng của bệnh(1, 11). Tuy nhiên, nghiên cứu của Martínez-García cho thấy NTLNTN khơng ảnh hưởng đáng kể lên CLCS của bệnh nhân trên 65 tuổi so với dân số bình thường ở cùng độ tuổi(6). Nghiên cứu của Kang ghi nhận CLCS của bệnh nhân NTLNTN liên quan nhiều đến chất lượng giấc ngủ chủ quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 185 (đánh giá qua chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh) hơn là AHI(4). Về mức độ giảm oxy khi ngủ, đặc biệt cĩ nghiên cứu của Wu ghi nhận một nghịch lý là các bệnh nhân giảm oxy nặng lại cĩ chất lượng giấc ngủ chủ quan tốt hơn nhĩm chứng. Tác giả lý giải rằng kết quả này cĩ thể liên quan đến việc giảm nhận thức trên các đối tượng giảm oxy máu(13). Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tơi, CLCS cĩ thể cịn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác ngồi các chỉ số ĐKGN, như các bệnh lý đồng mắc, hoặc các rối loạn chức năng ban ngày và ban đêm liên quan đến NTLNTN. Cĩ thể các bệnh nhân NTLNTN mức độ nặng cĩ thời gian mắc bệnh đã lâu và đã quen với tình trạng này, ngược lại, bệnh nhân NTLNTN mức độ nhẹ cĩ thể chỉ mới mắc bệnh trong thời gian ngắn nên sẽ cĩ cảm nhận thay đổi rõ rệt về CLCS. Trong khi đĩ, bảng câu hỏi SF-36 chỉ đánh giá tình trạng sức khỏe trong 1 tháng gần nhất, nên việc cho điểm các lĩnh vực khơng phản ánh được đầy đủ CLCS của các đối tượng khác nhau này. Ngồi ra, SF-36 vốn là một thang đo CLCS chung cho nhiều bệnh lý, cĩ thể thang đo này khơng phù hợp với đối tượng NTLNTN tại Việt Nam. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 65 bệnh nhân NTLNTN chưa được điều trị, chúng tơi ghi nhận bệnh nhân cĩ NTLNTN càng nặng, CLCS càng cao (ở tất cả lĩnh vực, ngoại trừ CNĐĐ), tuy nhiên, sự khác biệt này khơng cĩ ý nghĩa thống kê. Ngồi ra, SpO2 thấp nhất khi ngủ cĩ tương quan nghịch khơng đáng kể với điểm số CLCS ở cả 8 lĩnh vực. Cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tơi cĩ thể chưa đủ lớn để ghi nhận sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê. Do vậy, cĩ lẽ cần thêm nghiên cứu cĩ cỡ mẫu lớn hơn, đồng thời cần nghiên cứu về trị số tham khảo cho bộ câu hỏi SF-36 trên dân số Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bjornsdottir E, et al. (2015). Quality of life among untreated sleep apnea patients compared with the general population and changes after treatment with positive airway pressure. J Sleep Res, 24(3), 328-338. 2. Iacono Isidoro S, Salvaggio A, Lo Bue A, Romano S, Marrone O & Insalaco G. (2013). Quality of life in patients at first time visit for sleep disorders of breathing at a sleep centre. Health Qual Life Outcomes, 11, 207. 3. Kang HH, et al. (2014). The associations between anthropometric indices and obstructive sleep apnea in a Korean population. PLoS One, 9(12), e114463. 4. Kang JM, et al. (2017). The quality of life of suspected obstructive sleep apnea patients is related to their subjective sleep quality rather than the apnea-hypopnea index. Sleep Breath, 21(2), 369-375. 5. Lacasse Y, Godbout C & Series F (2002). Health-related quality of life in obstructive sleep apnoea. Eur Respir J, 19(3), 499-503. 6. Martinez-Garcia MA, Soler-Cataluna JJ, Roman-Sanchez P, Gonzalez V, Amoros C & Montserrat JM. (2009). Obstructive sleep apnea has little impact on quality of life in the elderly. Sleep Med, 10(1), 104-111. 7. Sow WT, et al. (2014). Normative Data for the Singapore English and Chinese SF-36 Version 2 Health Survey. Ann Acad Med Singapore, 43(1), 15-23. 8. Trần Minh Huy, Lê Thị Tuyết Lan & Nguyễn Xuân Bích Huyên. (2013). Vai trị của bảng câu hỏi Berlin trong tầm sốt ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(1), 123-129. 9. Võ Tuấn Khoa (2007). Nghiên cứu về bản đánh giá chất lượng cuộc sống Short Form (SF) - 36 và ứng dụng để đánh giá chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân đái tháo đường sau đoạn chi tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược, TP.HCM. 10. Vũ Hồi Nam & Trần Văn Ngọc (2009). Đánh giá đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn. Unpublished Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP.HCM. 11. Wang PC, Li HY, Shih TS, Gliklich RE, Chen NH & Liao YF. (2006). Generic and specific quality-of-life measures in Taiwanese adults with sleep-disordered breathing. Otolaryngol Head Neck Surg, 135(3), 421-426. 12. Ware JE, Jr (2000). SF-36 health survey update. Spine (Phila Pa 1976), 25(24), 3130-3139. 13. Wu MN, et al. (2015). More severe hypoxemia is associated with better subjective sleep quality in obstructive sleep apnea. BMC Pulm Med, 15, 117. Ngày nhận bài báo: 21/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchat_luong_cuoc_song_tren_benh_nhan_ngung_tho_luc_ngu_tac_ng.pdf
Tài liệu liên quan