Tài liệu Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai năm 2018: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 16
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI PHƯỜNG HỐ NAI,
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI NĂM 2018
Nguyễn Nguyên Ân*, Nguyễn Thị Thanh Trúc*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ngày nay, già hóa dân số đang là xu hướng toàn cầu. Việt Nam đã bắt đầu già hóa từ những
năm 2011 với tỉ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số. Thêm vào đó, tuổi càng cao thường đi kèm với
những gánh nặng về bệnh tật cho nên già hóa dân số là thách thức cho mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Các
nghiên cứu đã cho thấy chất lượng cuộc sống của người cao tuổi nước ta chỉ ở mức trung bình. Vì vậy, chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi đang là vấn đề cần được quan tâm ở Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định điểm số chất lượng cuộc sống của người cao tuổi theo thang đo WHOQoL-OLD của Tổ
chức Y tế Thế giới và các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở phường Hố Nai, thành
phố Biên Hòa, tỉ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 16
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI PHƯỜNG HỐ NAI,
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI NĂM 2018
Nguyễn Nguyên Ân*, Nguyễn Thị Thanh Trúc*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ngày nay, già hóa dân số đang là xu hướng toàn cầu. Việt Nam đã bắt đầu già hóa từ những
năm 2011 với tỉ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số. Thêm vào đó, tuổi càng cao thường đi kèm với
những gánh nặng về bệnh tật cho nên già hóa dân số là thách thức cho mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Các
nghiên cứu đã cho thấy chất lượng cuộc sống của người cao tuổi nước ta chỉ ở mức trung bình. Vì vậy, chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi đang là vấn đề cần được quan tâm ở Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định điểm số chất lượng cuộc sống của người cao tuổi theo thang đo WHOQoL-OLD của Tổ
chức Y tế Thế giới và các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở phường Hố Nai, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, năm 2018.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang khảo sát 256 người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên thường trú tại phường
Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ tháng 4 đến tháng 6, năm 2018 bằng phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên đơn. Nghiên cứu phỏng vấn người cao tuổi bằng bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm những đặc điểm dân số
xã hội, các yếu tố về tinh thần, các yếu tố về thể chất và chất lượng cuộc sống.
Kết quả: Trung bình điểm số chất lượng cuộc sống chung của người cao tuổi là 12,8 ± 2,2 điểm. Những yếu
tố về tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nguồn thu nhập chính, tình trạng hôn nhân, người sống cùng, kinh tế gia
đình, tham gia hoạt động xã hội, sự quan tâm của con cháu và loại bảo hiểm y tế đang sử dụng có ảnh hưởng tới
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Kết luận: Người cao tuổi là nữ, tuổi càng cao, hoàn cảnh neo đơn, có trình độ học vấn thấp, mắc bệnh mãn
tính, kinh tế gia đình khó khăn, và không nhận được sự quan tâm của con cháu và có điểm số chất lượng cuộc
sống thấp hơn những người cao tuổi không có những đặc điểm này.
Từ khoá: chất lượng cuộc sống, người cao tuổi, thang đo WHOQOL-OLD
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE OF OLDER PEOPLE IN HO NAI WARD, BIEN HOA CITY, DONG NAI PROVINCE
IN 2018
Nguyen Nguyen An, Nguyen Thi Thanh Truc
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 16-23
Background: Nowadays, aging population is a global trend. Vietnam population structure has been aging
since 2011 with the percentage of the older people aged 60 and over reached 10% of total population. In addition,
the older the more burden of diseases they have, thus aging population is a challenge for all individual, family as
well as society. Studies showed that the quality of life of older people in Vietnam is only in the middle range.
Therefore, the quality of life of older people is a major concern in Vietnam now.
Objectives: To determine the score of the quality of life of the older people living in Ho Nai Ward, Bien Hoa
City, Dong Nai Province in 2018 and associated factors.
Methods: We adopted a cross sectional study and interview 256 older people aged 60 and over living in Ho
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Nguyên Ân ĐT: 0855313363 Email: na.nguyen1405@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 17
Nai Ward, Bien Hoa City, Dong Nai Province from April to June in 2018 by random sampling method. We used
structured questionnaires mentioning about social demographic characteristics, mental factors, physical factors
and the quality of life.
Results: The mean score of the quality of life of the older people was 12.8 ± 2.2. Age, sex, education, main
source of income, marital status, people living with, family income, social activities, receiving care from offspring,
and types of health insurance affects the quality of life of the older people.
Conclusion: Older people who were female, older, living alone, had low education, chronic diseases, low
family income, and did not receive care from offspring had lower scores of the quality of life than those did not
have these characteristics.
Keywords: quality of life, older people, WHOQOL-OLD assessment
ĐẶT VẤN ĐỀ
Già hóa dân số đang là một trong những xu
hướng quan trọng của thế kỷ 21 tại các quốc gia
trên Thế giới. Theo Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc
(UNFPA), hiện nay trên Thế giới cứ chín người
thì có một người trên 60 tuổi và dự tính đến năm
2050 sẽ tăng lên cứ năm người sẽ có một người
trên 60 tuổi(15,18). Theo Liên Hợp Quốc, Việt Nam
đã bước vào giai đoạn già hóa từ năm 2011 với tỉ
lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm hơn 10% dân số
và là một trong những quốc gia già hóa nhanh
nhất trên Thế giới(15,17). Già hóa là một thành tựu
của quá trình phát triển xét về mặt tổng thể, bao
gồm: chế độ dinh dưỡng, vệ sinh, tiến bộ y học,
chăm sóc y tế, giáo dục và đời sống. Tuy nhiên,
già hóa dân số cũng tạo ra những thách thức về
mặt xã hội, kinh tế và văn hóa cho các cá nhân,
gia đình, xã hội và cộng đồng trên toàn cầu(15).
Hiện nay ở Việt Nam, các nghiên cứu về
chất lượng cuộc sống (CLCS) của người cao
tuổi (NCT) chưa thực sự được quan tâm. Theo
thống kê của Hội NCT Phường Hố Nai tính
đến 6 tháng đầu năm 2017, hiện nay trên địa
bàn vẫn có 137 NCT sống neo đơn, trong đó có
31 NCT trên 80 tuổi. Phường Hố Nai hiện vẫn
có khoảng 24% NCT là lao động chính trong
gia đình. Do đó, nghiên cứu này được thực
hiện nhằm đánh giá CLCS của NCT bằng
thang đo WHOQOL-OLD của Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) đồng thời tìm các yếu tố liên
quan đến CLCS của NCT ở Phường Hố Nai,
Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định điểm số CLCS của NCT ở Phường
Hố Nai, Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai và
các yếu tố liên quan.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu cắt ngang khảo sát 256 NCT (từ
60 tuổi trở lên) thường trú tại Phường Hố Nai,
Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai từ tháng 4
đến tháng 6 năm 2018 bằng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên đơn với khung chọn mẫu là
danh sách NCT được cung cấp bởi Hội NCT
phường Hố Nai. NCT được phỏng vấn trực tiếp
bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Nếu người được chọn
vắng mặt sẽ quay lại vào lần sau. Trong trường
hợp quay lại 2 lần vẫn không gặp thì chọn ngẫu
nhiên 1 người khác trong danh sách NCT còn lại
bằng phương pháp bốc thăm. Nghiên cứu sử
dụng tỉ lệ, trung bình cho thống kê mô tả, phép
kiểm T và ANOVA cho thống kê phân tích.
Tính cỡ mẫu
Trong đó:
: sai lầm loại 1 → = 0,05
: Trị số phân phối chuẩn → = 1,96
d: sai số ước lượng → d = 1
Chọn độ lệch chuẩn ước lượng trong dân số
là: σ = 8,16. Dựa vào nghiên cứu của Lê Thị Quý
Như Ý cho thấy trung bình điểm số CLCS là
61,0± 8,16 trên đối tượng NCT (từ 60 tuổi trở lên)
tại thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng
Nai năm 2016(8).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 18
Vậy n = 255,79, vậy cỡ mẫu là 256 NCT.
Điểm số chất lượng cuộc sống
Là biến số định lượng, được tính toán dựa
trên thang đo WHOQOL-OLD được đưa ra bởi
WHO vào năm 2006.
Bộ câu hỏi WHOQOL-OLD bao gồm 24 câu
hỏi đánh giá CLCS của NCT ở 6 lĩnh vực (mỗi
lĩnh vực 4 câu hỏi bắt buộc): Giác quan; Sự tự
chủ; Hoạt động quá khứ, hiện tại và tương lai;
Hoạt động xã hội; Cái chết; và Tình thương(20-22).
Bảng 1: Phân chia câu hỏi theo từng lĩnh vực và cách
tính điểm của thang đo WHOQOL-OLD(22)
Cách tính điểm số
CLCS cho từng
lĩnh vực
Điểm số CLCS lĩnh vực giác quan bằng
tổng điểm các câu: B1*+B2*+B10*+B20
Điểm số CLCS lĩnh vực sự tự chủ bằng
tổng diểm các câu: B3+B4+B5+B11
Điểm số CLCS lĩnh vực hoạt động qua
khứ, hiện tại và tương lai bằng tổng
điểm các câu: B12+B13+B15+B19
Điểm số CLCS lĩnh vực hoạt động xã
hội bằng tổng điểm các câu:
B14+B16+B17+B18
Điểm số CLSC lĩnh vực cái chết bằng
tổng điểm các câu:
B6*+B7*+B8*+B9*
Điểm số CLCS lĩnh vực tình thương
bằng tổng điểm các câu:
B21+B22+B23+B24
Điểm số CLCS chung = Tổng điểm số CLCS của các lĩnh
vực/6
* Các câu hỏi mang ý nghĩa tiêu cực
KẾT QUẢ
Đa số NCT được phỏng vấn thuộc nhóm
tuổi 60-69 với 44,1%, chiếm tỉ lệ thấp nhất là
nhóm tuổi trên 80 tuổi (26,6%). Phần lớn đối
tượng được khảo sát là nữ (62,9%). Về trình độ
học vấn, đa phần NCT có trình độ học vấn là cấp
1, cấp 2 và cấp 3, chỉ một số ít NCT có trình độ
học vấn từ cao đẳng trở lên (6,3%). Hầu hết NCT
đều sống cùng với gia đình, chỉ một số rất ít
NCT được khảo sát hiện đang sống một mình
(3,1%). Hai phần ba NCT đã lập gia đình (66%),
rất ít NCT tham gia nghiên cứu còn độc thân
(4,3%) và 29,7% NCT đã li thân, li dị hay góa.
Nguồn thu nhập chính của NCT chủ yếu là chu
cấp từ người thân (55,1%) và vẫn có khoảng
17,6% NCT phải tự lao động để kiếm thu nhập.
Đa số NCT tự đánh giá kinh tế của mình ở mức
trung bình (55,9%) (Bảng 2).
Bảng 2: Đặc điểm dân số xã hội của người cao tuổi
(n=256)
Nội dung Tần số Tỉ lệ (%)
Tuổi 71 (65 – 81)
Nhóm tuổi
60 – 69 113 44,1
70 – 79 75 29,3
>= 80 68 26,6
Giới tính
Nữ 161 62,9
Nam 95 37,1
Trình độ học vấn
Dưới cấp 1 33 12,9
Cấp 1 61 23,8
Cấp 2 83 32,4
Cấp 3 63 24,6
Cao đẳng, đại học 16 6,3
Người sống cùng
Ở cùng gia đình 215 84,0
Chỉ ở cùng vợ hoặc chồng 33 12,9
Ở một mình 8 3,1
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn 169 66,0
Li thân/ li dị/ góa 76 29,7
Độc thân 11 4,3
Nguồn thu nhập chính
Chu cấp từ người thân 141 55,1
Lương hưu 60 23,4
Tự lao động 45 17,6
Khác 10 3,9
Kinh tế gia đình
Nghèo 27 10,6
Trung bình 143 55,9
Khá 72 28,1
Giàu 14 5,4
Bảng 3: Đặc điểm các yếu tố về tinh thần của người
cao tuổi (n=256)
Nội dung Tần số Tỉ lệ (%)
Sự quan tâm của con cháu
Không hài lòng 8 3,1
Bình thường 74 28,9
Hài lòng 142 55,5
Rất hài lòng 32 12,5
Tham gia hoạt động xã hội
Có 192 75,0
Không 64 25,0
Hơn một nửa NCT tham gia nghiên cứu hài
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 19
lòng về sự quan tâm của con cháu (55,5%), chỉ
một số ít NCT không hài lòng về điều này với tỉ
lệ 3,1%. Đa số NCT được khảo sát trả lời có tham
gia hoạt động xã hội (75,0%) (Bảng 3).
Bảng 4: Đặc điểm các yếu tố về thể chất của người
cao tuổi (n=256)
Nội dung Tần số Tỉ lệ (%)
Bệnh mãn tính
Có 228 89,1
Không 28 10,9
Tỷ lệ bệnh mãn tính (n=228)
Tăng huyết áp 177 77,6
Viêm khớp 101 44,3
Đái tháo đường 69 30,3
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn
tính
12 5,3
Tập thể dục
Mỗi ngày 57 22,3
2-3 ngày/ tuần 70 27,3
1-2 ngày/ 2 tuần 51 19,9
Không tập thể dục 78 30,5
Loại BHYT đang sử dụng
BHYT tự nguyện 114 44,5
BHYT miễn phí 78 30,5
BHYT tư nhân 45 17,6
Không có bất kì bảo hiểm
nào
19 7,4
Tỉ lệ NCT tham gia nghiên cứu hiện mắc
bệnh mãn tính là 89,1%, trong đó chủ yếu là tăng
huyết áp với 77,6%. Khoảng một phần ba NCT
không tập thể dục, số còn lại tập thể dục mỗi
ngày (22,3%) hoặc vài ngày trong tuần (27,3%).
Hầu hết NCT đều có BHYT (Bảng 4).
Bảng 5: Điểm số chất lượng cuộc sống của người cao
tuổi theo từng lĩnh vực và nội dung (n=256)
Nội dung Điểm số CLCS
Giác quan 13,0± 4,0
+ Tác động của việc giảm khả năng
giác quan lên cuộc sống hàng ngày
3,3 ± 1,2
+ Ảnh hưởng của việc giảm khả
năng giác quan đến sự tham gia các
hoạt động
3,2 ± 1,2
+ Tác động của việc giảm giác quan
trong giao tiếp
3,3 ±1,1
+ Chức năng của cơ quan cảm
giác
3,2 ± 1,0
Sự tự chủ 13,4 ± 2,8
+ Tự do đưa ra quyết định riêng 3,5 ± 0,8
+ Khả năng kiểm soát tương lai 3,1 ± 0,9
Nội dung Điểm số CLCS
+ Sự tôn trọng của mọi người 3,5 ± 0,8
+ Khả năng tự quyết định làm điều
mình muốn
3,3 ± 0,8
Hoạt động quá khứ, hiện tại và
tương lai
12,8 ± 2,6
+ Cơ hội trong cuộc sống 3,0 ± 0,9
+ Sự công nhận 3,1 ± 0,8
+ Sự hài lòng về những thành quả
đã đạt được
3,2 ± 0,8
+ Sự hài lòng với cuộc sống hiện
tại
3,6 ± 0,8
Hoạt động xã hội 12,0 ± 2,8
+ Khả năng tham gia các hoạt
động xã hội
2,9 ± 1,1
+ Sự hài lòng về cách sử dụng
thời gian
3,0 ± 0,8
+ Sự hài lòng về mức độ tham
gia các hoạt động
3,2 ± 0,8
+ Sự hài lòng về cơ hội tham gia
các hoạt động
2,9 ± 1,0
Cái chết 12,8 ± 3,5
+ Mức độ quan tâm đến cái chết 3,2 ± 1,0
+ Kiểm soát được cái chết 3,3 ± 1,1
+ Lo sợ về cái chết 3,5 ± 1,1
+ Lo sợ về sự đau đớn trước cái
chết
2,8 ± 1,1
Tình thương 12,8 ± 2,8
+ Cảm giác đồng hành 3,3 ± 0,9
+ Tình yêu trong cuộc sống 3,2 ± 0,9
+ Cơ hội để yêu thương 3,3 ± 0,8
+ Cơ hội để được yêu thương 3,1 ± 0,1
CLCS chung 12,8 ± 2,2
Có sự chênh lệch điểm số CLCS theo từng
nội dung. Nghiên cứu này chỉ ra rằng trung bình
điểm số CLCS chung là 12,8 ± 2,2 điểm. WHO
không đưa ra một định mức cụ thể để đánh giá
CLCS của NCT mà chỉ nêu rằng điểm số cao thì
CLCS cao và ngược lại. Tuy nhiên, theo cách tính
điểm của WHO thì điểm số CLCS chung của
một NCT sẽ dao động từ 4-20 điểm. Vì vậy,
kếtquả về điểm số CLCS chung của nghiên cứu
này là 12,8 ± 2,2 điểm chứng tỏ NCT ở đây có
CLCS chung chỉ ở mức trung bình (Bảng 5).
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa điểm số CLCS chung với tất
cả các đặc điểm dân số xã hội của NCT (p<0,001).
Cụ thể, những NCT có tuổi càng cao thì trung
bình điểm số CLCS chung càng thấp. Những
NCT là nam thì có trung bình điểm số CLCS
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 20
chung cao hơn so với những NCT là nữ (14,3 ±
2,0 điểm so với 12,4 ± 2,2 điểm). Những NCT có
trình độ học vấn càng cao thì có trung bình điểm
số CLCS chungcàng cao. Cụ thể, những NCT có
trình độ học vấn dưới cấp 1 có trung bình điểm
số CLCS chung là 10,1 ± 1,5 điểm và những NCT
có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên có trung
bình điểm số CLCS chung là 15,3 ± 1,3 điểm.
Những NCT sống một mình có trung bình điểm
số CLCS chung thấp hơn so với những NCT
sống cùng gia đình hay chỉ sống cùng vợ/ chồng.
Tương tự, những NCT có tình trạng hôn nhân là
li thân/ li dị/ góa có trung bình điểm số CLCS
chung (11,3 ± 2,0 điểm) thấp hơn so với những
NCT đã kết hôn (13,4 ± 1,9 điểm) hay độc thân
(13,6 ± 1,7 điểm).
Xét về mặt kinh tế thì nguồn thu nhập chính
và kinh tế gia đình cũng có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê với điểm số CLCS chung
(p<0,001). Những NCT có nguồn thu nhập chính
là chu cấp từ người thân có trung bình điểm số
CLCS chung thấp hơn so với những NCT có
nguồn thu nhập chính là lương hưu và tự lao
động (11,6 ± 1,8 điểm so với 14,3 ± 2,4 điểm và
14,2 ± 3,1 điểm ). Kinh tế gia đình của NCT cũng
ảnh hưởng đến điểm số CLCS chung. Cụ thể,
những NCT ở trong gia đình có kinh tế giàu có
trung bình điểm số là cao nhất với 14,8 ± 1,3
điểm, vànhững NCT ở trong gia đình có kinh tế
nghèo có trung bình điểm số CLCS chung thấp
nhất là 10,4 ± 1,7 điểm (Bảng 6).
Bảng 6: Mối liên quan giữa điểm số chất lượng cuộc sống chung của người cao tuổi và đặc điểm dân số xã hội (n
=256)
Nội dung Tần số CLCS Chung Nội dung Tần số CLCS Chung
Trung bình ± độ lệch chuẩn Trung bình ± độ lệch chuẩn
Nhóm tuổi Người sống cùng
60-69 113 14,3 ± 1,6 Ở cùng gia đình 215 12,6 ± 2,2
70-79 75 12,3 ± 1,7 Chỉ ở cùng vợ/ Chồng 33 14,0 ± 1,5
≥80 68 10,8 ± 1,6 Sống một mình 8 12,3 ± 1,8
Giá trị P p < 0,001 Giá trị p p = 0,001
Giới tính Tình trạng hôn nhân
Nữ 161 12,4 ± 2,2 Kết hôn 169 13,4 ± 1,9
Nam 95 13,4 ± 2,0 Li thân/ Li dị/ Góa 76 11,3 ± 2,0
Giá trị P p < 0,001 Độc thân 11 13,6 ± 1,7
Giá trị p p < 0,001
Trình độ học vấn Nguồn thu nhập chính
Dưới cấp 1 33 10,1 ± 1,5 Chu cấp từ người thân 141 11,6 ± 1,8
Cấp 1 61 11,8 ± 1,7 Lương hưu 60 14,3 ± 2,4
Cấp 2 83 12,8 ± 1,7 Tự lao động 45 14,2 ± 3,1
Cấp 3 63 14,5 ± 1,4 Khác 10 14,2 ± 1,3
CĐ, ĐH 16 15,3 ± 1,3 Giá trị p p < 0,001
Giá trị p p < 0,001 Kinh tế gia đình
Nghèo 27 10,4 ±1,7
Trung bình 143 12,3 ± 1,8
Khá 72 14,3 ±1,9
Giàu 14 14,8 ± 1,3
Giá trị p p = 0,001*
* Kiểm định Krukal Wallis
Sự quan tâm của con cháu, tham gia hoạt
động xã hội cũng có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê với điểm số CLCS chung (p<0,001).
NCT càng hài lòng về sự quan tâm của con cháu
thì sẽ có điểm số CLCS chung càng cao. Cũng
như vậy, những NCT có tham gia hoạt động xã
hội có trung bình điểm số CLCS chung cao hơn
so với những NCT không tham gia hoạt động xã
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 21
hội (13,3 ± 2,0 điểm so với 11,3 ± 2,0 điểm).
Điểm số CLCS chung có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa những NCT có bệnh mãn
tính và những NCT không có bệnh mãn tính
(p<0,001). Những NCT có bệnh mãn tính có
trung bình điểm số CLCS chung thấp hơn so với
những NCT không bệnh mãn tính. Điểm số
CLCS chung có mối liên quan có ý nghĩa thống
kê với tập thể dục (p<0,001). Những NCTcàng
thường xuyên tập thể dục thì có trung bình điểm
số CLCS chung càng cao. Những NCT có BHYT
tư nhân có trung bình điểm số CLCS chung (14,6
± 1,6 điểm) cao hơn so với những NCT sử dụng
BHYT miễn phí (11,3 ± 2,1 điểm) hay những
NCT không có bất kì bảo hiểm nào (12,2 ± 1,9
điểm) (Bảng 7).
Bảng 7: Mối liên quan giữa điểm số chất lượng cuộc sống chung của người cao tuổi và các yếu tố về tinh thần và
thể chất (n=256)
Nội dung Tần số
CLCS Chung
Nội dung
Tần
số
CLCS Chung
Trung bình ±
độ lệch chuẩn
Trung bình ±
độ lệch chuẩn
Sự quan tâm của con cháu Tập thể dục
Không hài lòng 17 10,6 ±2,2 Mỗi ngày 57 14,5 ± 1,5
Bình thường 74 11,9 ± 2,0 2-3 ngày/ tuần 70 13,3 ± 2,0
Hài lòng 142 13,0 ± 2,0 1-2 ngày/2 tuần 51 12,7 ± 1,8
Rất hài lòng 76 14,5 ± 2,2 Không tập 78 11,1 ± 1,7
Giá trị p p <0,001* Giá trị p p < 0,001
Tham gia hoạt động xã hội Bệnh mãn tính
Có 192 13,3 ± 2,0 Có 228 12,5 ± 2,1
Không 64 11,3 ± 2,0 Không 28 15,2 ± 1,5
Giá trị p p < 0,001 Giá trị p p < 0,001
Loại BHYT đang sử dụng
BHYT tự nguyện 114 13,2 ± 1,8
BHYT miễn phí 78 11,3 ± 2,1
BHYT tư nhân 45 14,6 ± 1,6
Không có bất kì bảo hiểm nào 19 12,2 ± 1,9
Giá trị p p < 0,001
* Kiểm định Krukal Wallis
BÀN LUẬN
Nghiên cứu này tìm thấy nhóm tuổi, giới
tính, trình độ học vấn, hoàn cảnh sống hiện tại,
tình trạng hôn nhân, nguồn thu nhập chính và
tình trạng kinh tế gia đình có ảnh hưởng nhiều
đến CLCS trên từng lĩnh vực và cả CLCS chung
của NCT. Kết quả của nghiên cứu này phù hợp
với kết quả của các nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ,
Thái Lan, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí
Minh(1,2,6,8,11,14,24). Cụ thể, nhóm tuổi càng cao thì
CLCS của NCT càng giảm.Nam giới có CLCS
cao hơn nữ giới ở hầu hết các lĩnh vực(1,7,9,10,15,23).
Trình độ học vấn cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
CLCS chung(3,8,19,23). Những người có học vấn cao
thường có việc làm ổn định, thu nhập cao làm
cho cuộc sống đỡ khó khăn hơn và họ cũng có
khả năng tham gia hoạt động xã hội nhiều hơn
so với những người có học vấn thấp(2,3,7,19,23). Tình
trạng hôn nhân và hoàn cảnh sống hiện tại của
NCT cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến CLCS
của NCT(7,8). Điều này có thể giải thích do
vợ/chồng sẽ là người bạn đồng hành, chia sẻ và
hỗ trợ nhau trong cuộc sống. Đặc biệt là khi về
già, NCT sẽ có nhu cầu chia sẻ, đồng cảm nhiều
hơn(4,12). Do đó, NCT độc thân thường sẽ cảm
thấy cô độc, ít được chia sẻ nên có thể CLCS thấp
so với NCT đã lập gia đình(7,8,12,13,14). NCT có kinh
tế gia đình khá sẽ có điểm số CLCS cao hơn so
với NCT ở mức nghèo. Mặc dù nước ta là một
nước đang phát triển nhưng đời sống người dân
vẫn còn thấp, đặc biệt là đời sống NCT vẫn chưa
được quan tâm cách đầy đủ khi người già là đối
tượng gặp nhiều khó khăn nhất khi mà sức khỏe
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 22
giảm sút, sức lao động kém cùng với nhiều vấn
đề về bệnh mãn tính, sự chia sẽ quan tâm, làm
cho họ lo lắng, buồn phiền và điều này làm cho
CLCS của họ càng thấp(1,4,5,7).
Sự quan tâm của con cháu và tham gia hoạt
động xã hội có mối liên quan với đến điểm số
CLCS của NCT.Những người càng hài lòng với
sự quan tâm của con cháu thì sẽ có điểm số
CLCS càng cao. Càng nhận được nhiều sự quan
tâm chăm sóc thì NCT sẽ càng cảm thấy mình
được yêu thương, chia sẻ làm cho NCT vui vẻ và
hạnh phúc và cuộc sống của họ cũng tốt hơn và
CLCS cũng cao hơn(8,12). NCT có tham gia hoạt
động xã hội cũng có điểm số CLCS cao hơn so
với NCT không tham gia hoạt động xã hội.
Tham gia hoạt động xã hội cũng giúp NCT có
một tinh thần vui vẻ, thoải mái do đó CLCS
cũng được nâng cao(8,12,14).
NCT có bệnh mãn tính cũng có sự tác động
đến điểm số CLCS ở hầu hết các lĩnh vực.Bệnh
làm sức khỏe của NCT suy giảm, đồng thời cũng
tác động đến đời sống tinh thần của NCT.Mặc
dù hiện nay việc tiếp cận với sự chăm sóc y tế là
khá dễ dàng nhưng chi phí điều trị vẫn còn khá
cao so với mức sống người dân, hơn nữa bệnh
mãn tính là bệnh suốt đời nên rất ảnh hưởng
đến CLCS của NCT(5,6,8). Hơn 90% NCT được
khảo sát có BHYT và loại hình BHYT đang sử
dụng cũng có mối liên quan đến điểm số CLCS.
Trong đó những người sử dụng BHYT tư nhân
là người có điểm số CLCS cao nhất. Điều này có
thể lí giải do những người sử dụng BHYT tư
nhân là những người có nguồn thu nhập ổn
định, điều kiện kinh tế khá hay nhận được nhiều
sự quan tâm của con cháu. Và những yếu tố trên
là những yếu tố ảnh hưởng rất mạnh đến CLCS
của NCT. Do đó, có thể nói loại hình BHYT cũng
có ảnh hưởng đến CLCS của NCT.
Điểm số CLCS chung của NCT trong nghiên
cứu này ở mức trung bình phù hợp với cuộc
sống của NCT nơi đây với đa phần NCT có kinh
tế ở mức trung bình, mắc ít nhất một bệnh mãn
tính, sống chung với gia đình con cháu(8,14,15).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy chất lượng cuộc sống
của người cao tuổi ở Phường Hố Nai, Thành
phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai chỉ ở mức trung
bình. Trình độ học vấn, nguồn thu nhập chính,
kinh tế gia đình, sự quan tâm của con cháu là
những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới chất lượng
cuộc sống của người cao tuổi. Cụ thể, người
cao tuổi là nữ, tuổi càng cao, hoàn cảnh neo
đơn, có trình độ học vấn thấp, mắc bệnh mãn
tính, không nhận được sự quan tâm của con
cháu và kinh tế gia đình khó khăn có điểm số
chất lượng cuộc sống thấp hơn những người
cao tuổi không có những đặc điểm này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bilgili N, Arpacı F (2014). “Quality of Life of order Adults in
Turkey”. Archives of Gerontology and geriatrics, 59: p.415 – 421.
2. Feeny D, Furlong W, Torrance GW et al (2002). “Multiattribute
and Single - Attribute Utility Dunctions for the Health Utilities
index mark 3 system”. Medial Care, 40: p.113-128.
3. Hồ Bá Thâm (2014). “Một số nhân tố tác động đến chất lượng
cuộc sống đối với dân cư Thành Phố Hồ Chí Minh trong bối
cảnh hiện nay”. Hội thảo khoa học,
t_file?uuid=2da1a525-2b60-4003-a218-
ade37af981df&groupId=13025
4. Hoang Van Minh, Byass P, Nguyen Thi Kim Chuc et al (2010).
“Patterns of health status and quality of life among older
people in rural Viet Nam”. Global Health Action.
5. Hoang Van Minh, Byass P, Wall S et al (2012). “Patterns of
subjective quality of life among older adults in rural Vietnam
and Indonesia” . Geriatr Gerontol Int. 12(3): p.397-404.
6. Hongthong D, Somrongthong R, Ward P (2015). “Factors
Influencing the Quality of Life (Qol) Among Thai Older People
in a Rural Area of Thailand”. Iran J Public Health, 44(4): p.479-
85.
7. Lê Thị Hoàn, Trần Thị Thoa, Nguyễn Phương Hoa (2014).
“Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người
cao tuổi tại xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
năm 2014”. Tạp chí Nghiên Cứu Y học TP. Hồ Chí Minh.
8. Lê Thị Quý Như Ý (2016). “Chất lượng cuộc sống, trầm cảm và
các yếu tố liên quan của người cao tuổi tại thị trấn Gia Ray,
huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai năm 2016”. Luận văn cao học
Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh.
9. Le V Hoi, Pham Hang Thang, Lindholm L (2011). “Elderly care
in daily living in rural Vietnam: need and its socioeconomic
determinants”. BMC Geriatr, 11: p.81.
10. Le VH, Chuc Nguyen TK and Lindholm L (2010). “Health-
related quality of life, and its determinants, among older
people in rural Vietnam”. BMC Public Health, 10: p.549-549.
11. Manasatchakun P, Chotiga P, Roxberg Å et al. (2016). “Healthy
ageing in Isan-Thai culture-A phenomenographic study based on
older persons' lived experiences”. Int J Qual Stud Health Well-being.
12. Nguyễn Ngọc Phương Nam (2016). “Rối loạn trầm cảm và các
yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thị trấn Trảng Bom, huyện
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 23
Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai”. Luận văn cao học Đại học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh.
13. Ninh Thi Ha, Hoa Thi Duy, Ninh Hoang Le et al (2014).
“Quality of life among people living with hypertension in a
rural Vietnam community”. BMC Public Health, 14(1): p. 833.
14. Phạm Thắng, Đỗ Khánh Hỷ (2009). “Báo cáo tổng quan về
chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu
tuổi tại Việt Nam”. Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình.
15. Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (2012). “Già hóa trong thế kỷ 21:
Thành tựu và thách thức, Tổ chức hỗ trợ người cao tuổi Quốc Tế”.
16. Quynh Thi Hong Ha, Vo Quang Trung (2016). “Quality of life
among elderly people on Vietnam situation analysis: A
literature review”. Journal of Pharmaceutical & Scientific
Innovation, Vol. 5; p.74-79.
17. Tổng cục thống kê (2011). “Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên phân theo nhóm tuổi”. Truy cập ngày [02/12/2015];
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=714.
18. United Nations Population Fund (2011). “Già hóa dân số và
người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số
khuyến nghị chính sách”.
19. Viện nghiên cứu y xã hội học (2011). Điều tra về người cao tuổi
Việt Nam năm 2011.
20. World Health Oranization (1996). WHO Quality of Life
Assessment Group "What quality of life? The WHOQOL Group,
pp.354-356.
21. World Health Organization (1997). “The WHOQOL group:
Quality of Life”.
22. World Health Organization. “WHOQOL: measuring
quality of life”.
23. Yamada Y, Merz L , Kisvetrova H (2014). “Quality of life and
comorbidity among older home care clients: Role of positive
attitudes toward aging”. Qual Life Res.
24. Yodmai K, Phummarak S, Sirisuth JC et al. (2015). “Quality of
life and fear of falling among an aging population in semi
rural, Thailand”. J Ayub Med Coll Abbottabad. 27(4): p.771-4.
Ngày nhận bài báo: 8/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16_2806_2166368.pdf