Tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam: Kết quả từ phân tích gộp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 140
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN HIV/AIDS
TẠI VIỆT NAM: KẾT QUẢ TỪ PHÂN TÍCH GỘP
Thái Thanh Trúc*, Huỳnh Ngọc Vân Anh*, Bùi Thị Hy Hân**, Trần Thị Xuân Uyên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: HIV/AIDS dần được xem là bệnh lý mãn tính và người bệnh sống lâu hơn với HIV/AIDS.
Nhiều nghiên cứu triển khai tại Việt Nam cho thấy chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân HIV/AIDS vẫn
thấp. Tuy nhiên những nghiên cứu này còn mang tính đơn lẻ, chưa thể hiện được bức tranh tổng thể về tình
hình CLCS của bệnh nhân HIV/AIDS.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá tình hình CLCS của người nhiễm HIV tại Việt Nam qua việc tìm
kiếm một cách có hệ thống, tổng hợp và phân tích gộp các dữ liệu đã xuất bản.
Phương pháp: Chúng tôi tìm kiếm các nghiên cứu về CLCS thực hiện ở bệnh nhân HIV/AIDS trên 18 tuổi
tại Việt Nam thông qua hệ thống Pubmed, Embase cũng như tìm kiếm nghiên cứu trong nước như lu...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam: Kết quả từ phân tích gộp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 140
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN HIV/AIDS
TẠI VIỆT NAM: KẾT QUẢ TỪ PHÂN TÍCH GỘP
Thái Thanh Trúc*, Huỳnh Ngọc Vân Anh*, Bùi Thị Hy Hân**, Trần Thị Xuân Uyên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: HIV/AIDS dần được xem là bệnh lý mãn tính và người bệnh sống lâu hơn với HIV/AIDS.
Nhiều nghiên cứu triển khai tại Việt Nam cho thấy chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân HIV/AIDS vẫn
thấp. Tuy nhiên những nghiên cứu này còn mang tính đơn lẻ, chưa thể hiện được bức tranh tổng thể về tình
hình CLCS của bệnh nhân HIV/AIDS.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá tình hình CLCS của người nhiễm HIV tại Việt Nam qua việc tìm
kiếm một cách có hệ thống, tổng hợp và phân tích gộp các dữ liệu đã xuất bản.
Phương pháp: Chúng tôi tìm kiếm các nghiên cứu về CLCS thực hiện ở bệnh nhân HIV/AIDS trên 18 tuổi
tại Việt Nam thông qua hệ thống Pubmed, Embase cũng như tìm kiếm nghiên cứu trong nước như luận văn,
luận án, bài báo nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu đánh giá CLCS qua thang đo WHOQoL BREF và WHOQoL-
HIV BREF được đưa vào phân tích.
Kết quả: Sau khi tìm kiếm và sàng lọc 73 bài báo thì còn lại 14 nghiên cứu đưa vào phân tích. Điểm CLCS
của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam qua thang WHOQoL BREF (điểm dao động từ 4 – 20) và WHOQoL-
HIV BREF (điểm dao động từ 4 – 20) lần lượt là 13,0 và 13,9. Mặc dù CLCS liên quan đến sức khỏe thể chất,
niềm tin cá nhân là cao nhưng sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội lại rất thấp.
Kết luận: Nhìn chung CLCS của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam nằm ở mức độ 50% đến dưới 75%.
Kết quả này cho thấy cần thiết phải có ngay các chương trình can thiệp cho bệnh nhân HIV/AIDS, chú trọng các
khía cạnh CLCS còn thấp, để giúp người bệnh tham gia điều trị tốt hơn, góp phần thành công trong việc kiểm
soát HIV/AIDS tại Việt Nam.
Từ khóa: bệnh nhân HIV/AIDS, chất lượng cuộc sống, nghiên cứu gộp, Việt Nam
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE IN HIV/AIDS PATIENTS IN VIETNAM: FINDINGS FROM A META-ANALYSIS
Thai Thanh Truc, Huynh Ngoc Van Anh, Bui Thi Hy Han, Tran Thi Xuan Uyen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 140-148
Background: HIV/AIDS has been considered as a chronic condition and patients live longer with
HIV/AIDS. Many studies have been conducted in Vietnam and revealed low level of quality of life (QoL) among
HIV/AIDS patients. However, these individual studies did not show an overall picture about QoL in Vietnamese
HIV/AIDS patients.
Objective: This study was to evaluate QoL in HIV/AIDS patients in Vietnam through systematic
reviewing, pooling and meta-analyzing published data.
Methods: We searched for studies about QoL conducted in HIV/AIDS patients aged >18 years old in
Vietnam through Pubmed, Embase database and also searched for studies in Vietnam such as dissertations, theses
and scientific papers. Studies evaluating QoL using WHOQoL BREF or WHOQoL-HIV BREF were included in
the analysis.
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Viện Y tế Công Cộng TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS Thái Thanh Trúc ĐT: 0908381266 Email: thaithanhtruc@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 141
Results: After having found and screened 73 papers, we had 14 studies in the analysis. QoL scores among
Vietnamese HIV/AIDS patients measured by WHOQoL BREF (score ranging from 4 – 20) and WHOQoL-HIV
BREF (score ranging from 4 – 20) were 13.0 and 13.9 respectively. Although QoL regarding physical health and
personal belief was high, QoL scores for psychological and social relationship were low.
Conclusion: In overall, QoL among HIV/AIDS patients in Vietnam was from 50% to 75%. Our findings
indicated urgent need to have intervention programs for HIV/AIDS patients, targeting low QoL aspects to
increase patients’ treatment commitment, contributing to the success of HIV/AIDS control in Vietnam.
Key words: HIV/AIDS patient, quality of life, meta-analysis, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính đến cuối năm 2016, trên thế giới có
khoảng 36,7 triệu người sống chung với HIV
trong đó có 1,8 triệu người mới mắc bệnh và 1
triệu người chết vì các nguyên nhân liên quan
đến HIV(25) Tại Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm
2017, cả nước phát hiện 6.883 trường hợp mới
nhiễm HIV, số bệnh nhân HIV chuyển sang giai
đoạn AIDS là 3.484, tử vong 1.260 người. So với
năm 2016, số trường hợp nhiễm HIV phát hiện
mới giảm 1,1%, số bệnh nhân AIDS giảm 39% và
số người tử vong giảm 15%. Số người chuyển
sang giai đoạn AIDS và tử vong đã giảm, nhưng
số lượng người sống chung với HIV/AIDS lại
tăng dần theo thời gian(5). Thành quả này là kết
quả của những nỗ lực lớn từ chương trình quốc
gia về HIV/AIDS trong những năm qua.
HIV/AIDS dần được xem là bệnh lý mãn
tính và người bệnh sống lâu hơn với HIV/AIDS.
Vì vậy, những vấn đề liên quan đến các khía
cạnh khác ngoài điều trị như chất lượng cuộc
sống (CLCS) của người bệnh đã trở thành mối
quan tâm đối với các nhà nghiên cứu và chăm
sóc sức khỏe. Đã có nhiều nghiên cứu triển khai
tại Việt Nam cho thấy CLCS của bệnh nhân
HIV/AIDS vẫn thấp hơn rất nhiều so với các
bệnh khác(7,20). Tuy nhiên những nghiên cứu này
còn mang tính đơn lẻ, chưa thể hiện được bức
tranh tổng thể về tình hình CLCS của bệnh nhân
HIV/AIDS. Các chương trình can thiệp hiện vẫn
còn hạn chế do vẫn chưa có được bằng chứng
khoa học chắc chắn từ việc tổng hợp các công
trình nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam. Câu
hỏi đặt ra là đã đến lúc nên tập trung vào triển
khai can thiệp hay tiếp tục các công trình nghiên
cứu đánh giá CLCS.
Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện
nhằm đánh giá tình hình CLCS của bệnh nhân
HIV/AIDS tại Việt Nam qua việc tìm kiếm một
cách có hệ thống, tổng hợp và phân tích gộp. Kết
quả của nghiên cứu là tiền đề cho các giải pháp
nâng cao CLCS cho bệnh nhân HIV/AIDS tại
Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chí chọn nghiên cứu
Chúng tôi chọn vào các nghiên cứu về CLCS
thực hiện ở bệnh nhân HIV/AIDS trên 18 tuổi tại
Việt Nam. Các nghiên cứu này có sử dụng một
trong hai thang đo đánh giá CLCS phổ biến là
WHOQoL BREF hoặc WHOQoL-HIV BREF. Các
nghiên cứu mà không tiếp cận được toàn văn
hoặc dữ liệu về điểm số CLCS không được trình
bày rõ ràng ở từng lĩnh vực hoặc các nghiên cứu
được viết bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng
Anh và tiếng Việt được loại ra khỏi phân tích.
Phương pháp tìm nghiên cứu
Quy trình tìm kiếm và chọn bài báo được
thực hiện dựa trên sơ đồ của PRISMA(11). Chúng
tôi thực hiện truy tìm y văn thông qua 2 hệ
thống cơ sở dữ liệu là PubMed và Embase. Điều
kiện tìm kiếm là các nghiên cứu có tiêu đề hoặc
toàn bài chứa các từ khóa HIV, AIDS, acquired
immunodeficiency syndrome, Vietnam và
quality of life với cấu trúc tìm kiếm như sau:
(("hiv"[MeSH Terms]) OR ("hiv") OR ("acquired
immunodeficiency syndrome"[MeSH Terms])
OR ("acquired immunodeficiency syndrome" OR
"aids")) AND ("Vietnam") AND (("quality of
life"[MeSH Terms]) OR ("quality of life")). Ngoài
ra, chúng tôi cũng tìm kiếm các công trình
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 142
nghiên cứu trong nước như luận văn, luận án,
bài báo nghiên cứu khoa học.
Công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống
Thang đo WHOQoL-BREF dùng để đánh
giá CLCS chung cho tất cả các đối tượng, bao
gồm cả bệnh nhân HIV/AIDS. Thang đo gồm
26 câu, đo lường 4 lĩnh vực: sức khỏe thể chất
(7 câu), sức khỏe tâm thần (6 câu), quan hệ xã
hội (3 câu), môi trường sống (8 câu). Mỗi nội
dung đều được đo lường bởi thang đo Likert
gồm 5 mức độ tăng dần từ 1 điểm đến 5 điểm.
Điểm CLCS chung là điểm trung bình cộng
của 4 lĩnh vực. Sau đó tất cả điểm của các lĩnh
vực được quy đổi sang thang điểm từ 4 – 20
theo hướng dẫn của WHO.
Thang đo WHOQoL-HIV BREF dùng để
đánh giá CLCS được thiết kế chuyên biệt cho
bệnh nhân HIV/AIDS. Thang đo gồm 31 câu, đo
lường 6 lĩnh vực: sức khỏe thể chất (4 câu), sức
khỏe tinh thần (5 câu), mức độ độc lập (4 câu),
quan hệ xã hội (4 câu), môi trường sống (8 câu)
và niềm tin cá nhân (4 câu). Mỗi nội dung đều
được đo lường bởi thang đo Likert gồm 5 mức
độ tăng dần từ 1 điểm đến 5 điểm. Các điểm của
từng nội dung được cộng lại và tính trung bình
cho tổng điểm ở mỗi lĩnh vực, sau đó lấy điểm
trung bình của từng lĩnh vực nhân cho 4 để có
thể so sánh với điểm được sử dụng trong
WHOQOL 100 câu, tổng điểm nằm trong
khoảng từ 4 đến 20 điểm.
Phân tích số liệu
Nghiên cứu của chúng tôi phân tích gộp
bằng mô hình tác động cố định. Trong nghiên
cứu này, so với mô hình tác động ngẫu nhiên thì
kết quả phân tích gộp của mô hình tác động cố
định có khoảng tin cậy 95% hẹp hơn, trọng số
của mỗi nghiên cứu phù hợp hơn(8). Dữ liệu
được phân tích bằng phần mềm R 3.4.3 với thư
viện “meta” và được thể hiện trên biểu đồ bằng
phần mềm Stata 14.
KẾT QUẢ
Chúng tôi tìm được tổng cộng 73 bài báo từ
cơ sở Pubmed và Embase. Có 24 bài báo trùng
nhau và 49 bài báo có tiêu đề và phần tóm tắt
trình bày về CLCS. Sàng lọc dựa vào phần tóm
tắt, loại ra 38 bài báo do các bài này chỉ đề cập
đến CLCS mà không đo lường điểm CLCS. Có 7
bài báo loại ra do là sản phẩm của nhiều xuất
bản trên cùng một dự án nghiên cứu, hoặc đo
lường CLCS trên bệnh nhân điều trị Methadone,
hoặc sử dụng thang đo ít dùng là EQ-5D-5L. Kết
quả còn lại 4 bài báo để đưa vào nghiên cứu từ
Pubmed và EMBASE. Ngoài ra, dựa vào tiêu chí
chọn bài báo, chúng tôi tìm được 10 nghiên cứu
trong nước từ báo cáo, luận văn, luận án tại thư
viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Đại học
Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Đại học Y Hà Nội,
Đại học Y tế công cộng, cũng như các tạp chí y
học trong nước. Vì vậy, có tổng cộng 14 nghiên
cứu được đưa vào phân tích (Bảng 1, Sơ đồ 1).
Kết quả tìm kiếm cho thấy 14 nghiên cứu về
CLCS thực hiện trên bệnh nhân HIV/AIDS tại
Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2017 với tổng
mẫu 3.855 người. Các nghiên cứu được tiến
hành tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quảng Ninh,
Hải Phòng, Bình Phước, Bình Dương và Trà
Vinh. Trong số đó, có 4 nghiên cứu sử dụng
thang đo WHOQoL BREF (N=1.168), và 10
nghiên cứu còn lại sử dụng thang đo WHOQoL-
HIV BREF (N=2.687).
Hình 1 là biểu đồ rừng tổng hợp điểm
trung bình CLCS chung, sử dụng thang đo
WHOQoL-HIV BREF. Trục tung thể hiện các
nghiên cứu tổng hợp được, trục hoành thể
hiện điểm số CLCS và dao động từ 4 – 20
điểm. Các mốc điểm cũng được chia theo
ngưỡng 0-100% để thể hiện mức độ CLCS của
người nhiễm HIV/AIDS trên các tiêu chí đánh
giá. Biểu đồ cũng thể hiện trọng số, điểm trung
bình của từng nghiên cứu và khoảng tin cậy
95%. Nhìn chung, điểm trung bình CLCS
chung của bệnh nhân HIV/AIDS là 13,0 điểm
với KTC 95% từ 12,9 – 13,1. Hầu hết các nghiên
cứu đều có điểm trung bình CLCS chung của
người nhiễm HIV ở mức 50 đến dưới 75%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 143
Bảng 1. Các nghiên cứu về chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân HIV/AIDS được chọn vào phân tích gộp
TT Tên tác giả Năm Địa điểm Thang đo Thiết kế nghiên cứu Cỡ mẫu
1 Trần Vũ Hiếu
(23)
2007 OPC Quận 8, TP.HCM WHOQoL-BREF Nghiên cứu cắt ngang 372
2 Tăng Thường Bản
(17)
2008 OPC Quận 8, TP.HCM WHOQoL-BREF Nghiên cứu cắt ngang 354
3 Trần Xuân Bách
(20)
2012 Hải Phòng, TP.HCM WHOQoL-BREF Nghiên cứu theo dõi 370
4
Huỳnh Ngọc Vân
Anh
(7)
2013
Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS Trà Vinh
WHOQoL-BREF Nghiên cứu theo dõi 72
5 Trần Xuân Bách
(21)
2012
BV Đa khoa Uông Bí,
Quảng Ninh
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 155
6 Trần Xuân Bách
(22)
2012
Hà Nội, Hải Phòng,
TP.HCM
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 1016
7 Vũ Văn Tâm
(24)
2012 OPC, Quảng Ninh
WHOQoL-HIV
BREF
Thử nghiệm ngẫu
nhiên có nhóm chứng
228
8
Huỳnh Ngọc Vân
Anh
(8)
2013
OPC An Hòa, quận 6,
TP.HCM
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu theo dõi 242
9 Tô Gia Kiên
(19)
2014
OPC An Hòa, quận 6,
TP.HCM
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 55
10 Lê Văn Học
(9)
2015 BV Nhân Ái, TP.HCM
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 131
11 Dương Bá Vũ
(6)
2015 TTYTDP quận 11, TP.HCM
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 156
12
Quách Thị Minh
Phượng
(15)
2016 BV Bệnh Nhiệt đới TP.HCM
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 204
13
Nguyễn Thị Kim
Tuyến
(13)
2016
Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS Bình Phước
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 196
14 Nguyễn Minh Lộc
(12)
2017
OPC Thuận An, Bình
Dương
WHOQoL-HIV
BREF
Nghiên cứu cắt ngang 304
Sơ đồ 1. Quy trình chọn nghiên cứu đưa vào tổng quan và phân tích
73 bài báo được tìm thấy qua 2 hệ thống cơ sở
dữ liệu Pubmed (31) và Embase (42)
Xóa bản trùng gồm 24 bài báo trùng
nhau ở 2 cơ sở dữ liệu
Sàng lọc dựa vào tóm tắt, loại ra 38 bài
báo không đo lường CLCS
11 bài báo đọc được toàn văn
Loại ra 7 bài báo: nhiều xuất bản của
cùng 1 dự án nghiên cứu, đối tượng
bệnh nhân khác, thang đo khác
4 bài báo được chọn
Thêm vào 10 nghiên cứu trong nước
tìm kiếm thủ công từ luận văn, luận án,
bài báo nghiên cứu khoa học
14 nghiên cứu cuối cùng được chọn, thỏa mãn
những tiêu chí đặt ra
49 bài báo với tiêu đề và phần tóm tắt có liên
quan đến CLCS
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 144
Hình 1: Điểm chất lượng cuộc sống chung của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam, đánh giá bằng thang đo
WHOQoL-HIV BREF
Hình 2: Các mảng đánh giá về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam qua thang đo
WHOQoL-HIV BREF
* Tổng trọng số không bằng 100% do sai số làm tròn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 145
Hình 3: Chất lượng cuộc sống chung của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam qua thang đo WHOQoL BREF
Hình 4: Các mảng đánh giá về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt Nam qua thang đo
WHOQoL BREF
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 146
Chất lượng cuộc sống qua thang đo WHOQoL-
HIV BREF
Khi phân tích từng lĩnh vực của CLCS
(Hình 2), kết quả cho thấy điểm CLCS ở lĩnh
vực sức khỏe thể chất là cao nhất, tiếp theo là
niềm tin cá nhân. CLCS ở lĩnh vực quan hệ xã
hội là thấp nhất. Tuy nhiên, mức độ CLCS ở
tất cả các lĩnh vực chỉ ở gần mức trung bình
(50%).
Chất lượng cuộc sống qua thang đo WHOQoL
BREF
Điểm CLCS chung của người nhiễm HIV
quan thang đo WHOQoL BREF là 13,9 điểm
(KTC 95% từ 13,8 – 14,1), nằm ở mức trên 60%
(Hình 3). Nghiên cứu của Trần Xuân Bách có
điểm trung bình CLCS chung thấp nhất với 11,9
điểm, nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Vân Anh có
điểm trung bình cao nhất là 15,1 điểm. Nghiên
cứu có trọng số cao nhất là nghiên cứu của Trần
Vũ Hiếu với 34%. Khi đánh giá 4 lĩnh vực CLCS
(Hình 4), kết quả cho thấy CLCS liên quan đến
sức khỏe tinh thần là thấp nhất. Tuy nhiên,
CLCS liên quan đến quan hệ xã hội lại cao nhất.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu này là một trong số ít các nghiên
cứu tìm kiếm, tổng hợp và phân tích gộp các số
liệu đã công bố về CLCS trên bệnh nhân
HIV/AIDS tại Việt Nam. Chúng tôi thấy rằng
CLCS của người nhiễm HIV tại Việt Nam chỉ ở
mức độ vừa phải, từ 50 đến dưới 75% trên các
tiêu chí đánh giá, khi đánh giá chung và khi
đánh giá chuyên biệt từng khía cạnh CLCS trên
cả hai thang đo. Kết quả này tương đồng so với
một nghiên cứu phân tích gộp của Cardona-Aria
trên bệnh nhân HIV/AIDS tại 11 nước cũng thực
hiện phân tích trên 2 thang đo WHOQoL BREF
và WHOQoL-HIV BREF(4), trong đó CLCS cũng
dao động ở mức 50 – 75%. Điều đó chứng tỏ
rằng, CLCS của bệnh nhân HIV/AIDS tại Việt
Nam mặc dù thấp nhưng cũng nằm ở mức độ
vừa phải, tương tự với bệnh nhân HIV/AIDS ở
nhiều nước trên thế giới. Dẫu vậy, những khía
cạnh của CLCS ở mức thấp (gần mức 50%) thì
cần được xem xét can thiệp, hỗ trợ một cách phù
hợp cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Gần như tất cả các nghiên cứu đều cho thấy
CLCS về lĩnh vực sức khỏe thể chất ở mức độ
cao. Đa phần các đối tượng tham gia ở các
nghiên cứu trước đang ở giai đoạn lâm sàng 1 và
2, tình trạng sức khỏe vẫn khá tốt. Hơn nữa, việc
điều trị ARV hiện nay đã cải thiện đáng kể tình
trạng sức khỏe của người nhiễm HIV, làm chậm
quá trình phát triển bệnh, giúp bệnh nhân khỏe
mạnh hơn. Nghiên cứu thử nghiệm thực địa trên
23 quốc gia cũng cho kết quả tương đồng, với
điểm CLCS của người nhiễm HIV ở lĩnh vực sức
khỏe thể chất là tốt nhất(16). Qua đó cho thấy, việc
điều trị ARV đã góp một phần lớn vào việc cải
thiện CLCS của người nhiễm HIV.
Tuy nhiên, CLCS lĩnh vực sức khỏe tinh thần
khá thấp. Kết quả này là phù hợp khi vài nghiên
cứu tại Việt Nam cũng cho thấy tỉ lệ đáng kể
bệnh nhân HIV/AIDS có dấu hiệu của stress,
trầm cảm, lo âu và sa sút trí tuệ(10,18). Những
người nhiễm HIV thường có tâm lý tự ti, mặc
cảm, dễ bị phân biệt đối xử, bị kỳ thị hoặc có xu
hướng tự kỳ thị, nên dẫn đến điểm trung bình
lĩnh vực sức khỏe tinh thần không cao. Cũng có
khả năng, tình trạng sức khỏe tâm thần của bệnh
nhân HIV/AIDS tại Việt Nam chưa được quan
tâm, chăm sóc đúng mức. Ví dụ, nghiên cứu
phân tích gộp trên 11 quốc gia lại cho thấy điểm
trung bình sức khỏe tinh thần của người nhiễm
HIV tốt hơn. Các nghiên cứu khác ở Burkina
Faso(2), Nigeria(1), Campuchia(26) hay Phần Lan(14)
cũng cho thấy kết quả tương tự. Qua đó cho thấy
ngoài chăm sóc điều trị để nâng cao sức khỏe thể
chất thì Việt Nam cũng cần quan tâm hỗ trợ đến
đời sống tinh thần của người nhiễm HIV, tổ
chức sàng lọc sớm để phát hiện và điều trị cho
người nhiễm HIV/AIDS có dấu hiệu của rối loạn
tâm thần.
Lĩnh vực niềm tin cá nhân có điểm chỉ thấp
sau lĩnh vực sức khỏe thể chất. Điều này có thể
do khi sức khỏe thể chất tốt, người nhiễm HIV
cảm thấy khỏe mạnh, có khả năng làm việc, sinh
hoạt tốt, cảm thấy cuộc sống trở nên ý nghĩa,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 147
không còn lo sợ nhiều đến cái chết, điểm niềm
tin cá nhân cũng từ đó mà được cải thiện.
Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với
nghiên cứu của Cardona-Aria(4) và Yang Y(26).
Thậm chí ở nhiều nghiên cứu, kết quả còn cho
thấy điểm lĩnh vực niềm tin cá nhân của người
nhiễm HIV là cao nhất trong số 6 lĩnh vực(1,22).
Với sự tiến bộ của y học, căn bệnh HIV/AIDS
dần trở thành bệnh mãn tính, người bệnh dần
sống lâu hơn với HIV, từ đó giúp giảm bớt nỗi lo
lắng, sợ hãi về tương lai và cái chết.
Lĩnh vực môi trường sống có điểm thấp sau
lĩnh vực sức khỏe thể chất và niềm tin cá nhân.
Nguyên nhân dẫn đến điều này rất có khả năng
do điều kiện kinh tế tài chính ở nhiều bệnh nhân
còn khó khăn, việc mắc bệnh khiến họ bị ảnh
hưởng đến việc làm, mất đi nguồn thu nhập,
làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc
sức khỏe hay các hoạt động giải trí. Tuy nhiên,
khá nhiều các nghiên cứu trên thế giới mà chúng
tôi ghi nhận được đều cho thấy lĩnh vực môi
trường sống có điểm số thấp nhất trong 6 lĩnh
vực(1,2,4,26).
Lĩnh vực mức độ độc lập có điểm thấp thứ
nhì trong các lĩnh vực đánh giá. Bệnh nhân
HIV/AIDS điều trị ARV cần nhiều sự hỗ trợ y tế
về thuốc cũng như sự chăm sóc, điều trị. Sự phụ
thuộc vào cơ sở y tế, phác đồ điều trị, việc phải
có mặt thường xuyên tại các phòng khám ngoại
trú để điều trị, để nhận thuộc có thể ảnh hưởng
đến các hoạt động sinh hoạt, việc làm. Một số
bệnh nhân giai đoạn bệnh càng tiến triển nặng,
sự phụ thuộc này càng tăng đáng kể. Chính vì
vậy, điểm trung bình mức độ độc lập của nhóm
đối tượng này khá thấp. Nghiên cứu của chúng
tôi tương đồng với nghiên cứu của Yang tại
Campuchia(26). Tuy nhiên nghiên cứu phân tích
gộp trên nhiều quốc gia của Cardona-Aria(4) và
vài nghiên cứu khác lại cho thấy điểm trung
bình lĩnh vực mức độ độc lập cao hơn(1,2,14).
Tuy nhiên, CLCS liên quan đến quan hệ xã
hội là cao nhất trên thang đo WHOQoL BREF
nhưng thấp nhất trên thang đo WHOQoL-HIV
BREF. Điều này là phù hợp so nghiên cứu gộp
của Cardona-Aria trong đó cho thấy điểm CLCS
đo bằng thang đo WHOQoL BREF hầu hết đều
cao hơn điểm CLCS đo bằng thang đo
WHOQoL-HIV BREF. Các nghiên cứu trước
cũng chỉ ra rằng việc đánh giá CLCS với một
công cụ chuyên biệt dành riêng cho người nhiễm
HIV như thang đo WHOQoL-HIV BREF thường
cho kết quả chính xác hơn. Điểm quan hệ xã hội
thấp cũng phù hợp với nghiên cứu tại của Nobre
tại Phần Lan(14) hay Bakiono F tại Burkina Faso(2).
Nghiên cứu có một số điểm hạn chế cần lưu
ý khi sử dụng kết quả. Ngoài Pubmed và
Embase, chúng tôi cố gắng đưa vào càng nhiều
càng tốt các nghiên cứu được thực hiện tại Việt
Nam bằng cách tìm kiếm thêm chủ yếu từ trang
web của thư viện các trường đại học y dược tại
Việt Nam. Tuy nhiên, không phải tất cả các
trường đều có cơ sở dữ liệu lưu trữ các thông tin
nghiên cứu. Vì vậy, có khả năng nghiên cứu này
đã bỏ sót các công trình nghiên cứu khác, chẳng
hạn các nghiên cứu triển khai tại miền Trung
Việt Nam. Việc cập nhật, bổ sung và phân tích
bao gồm các nghiên cứu ở các vùng miền khác,
nếu có, là cần thiết để có cái nhìn toàn diện hơn
về chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân HIV/AIDS
tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nhìn chung CLCS của bệnh nhân HIV/AIDS
tại Việt Nam nằm ở mức độ 50% đến dưới 75%,
qua đánh giá từ thang đo WHOQoL BREF và
WHOQoL-HIV BREF. Mặc dù CLCS liên quan
đến sức khỏe thể chất, niềm tin cá nhân là cao
nhưng sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội lại rất
thấp. Kết quả này cho thấy cần thiết phải có
ngay các chương trình can thiệp cho bệnh nhân
HIV/AIDS, đặc biệt chú trọng các khía cạnh còn
thấp của CLCS, từ đó giúp người bệnh tham gia
điều trị tốt hơn, góp phần thành công trong việc
kiểm soát HIV/AIDS tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akinboro AO, Akinyemi SO, Olaitan PB, Raji AA, Popoola
AA, Awoyemi OR and Ayodele OE (2014). Quality of life of
Nigerians living with human immunodeficiency virus. Pan Afr
Med J, 18: 234.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 148
2. Bakiono F, Guiguimde PW, Sanou M, Ouedraogo L and
Robert A (2015). Quality of life in persons living with HIV in
Burkina Faso: a follow-up over 12 months. BMC Public Health,
15: 1119.
3. Borenstein M, Hedges LV, Higgins JP and Rothstein HR (2010).
A basic introduction to fixed-effect and random-effects models
for meta-analysis. Res Synth Methods, 1(2): 97-111.
4. Cardona-Aria JA and Higuita-Gutierrez LF (2014). Impact of
HIV/AIDS on quality of life: meta-analysis 2002-2012. Rev Esp
Salud Publica, 88: p. 87-101.
5. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2017). Báo cáo công tác phòng,
chống HIV/AIDS năm 2017 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2018.
6. Dương Bá Vũ, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Kiên and
Nguyễn Thị Phương Phảo (2015). Chất lượng cuộc sống của
người nhiễm HIV đang điều trị ARV tại quận 11. Tạp chí Y học
TP.HCM, Tập 19(Phụ bản cuốn số 1): tr. 14-21.
7. Huỳnh Ngọc Vân Anh (2013). Chất lượng sống của những
người nhiễm HIV đang điều trị ARV: Một nghiên cứu theo
dõi. Luận văn thạc sĩ, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
8. Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Kiên, Tô Gia Quyền, Nguyễn
Hùng Cường and Đỗ Văn Dũng (2013). Chất lượng sống của
người nhiễm HIV đang được điều trị ARV tại Trung tâm
phòng chống HIV/AIDS tỉnh Trà Vinh. Y học TP. Hồ Chí
Minh, Tập 17, Phụ bản của số 1: tr. 208-216.
9. Lê Văn Học, Nguyễn Thành Long and cộng sự (2015). Đánh
giá chất lượng sống của bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV tại
bệnh viện Nhân Ái. Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10:
tr. 412.
10. Matsumoto S, Yamaoka K, Takahashi K, Tanuma J, Mizushima
D, Do CD, Nguyen DT, Nguyen HDT, Nguyen KV and Oka S
(2017). Social Support as a Key Protective Factor against
Depression in HIV-Infected Patients: Report from large HIV
clinics in Hanoi, Vietnam. Sci Rep, 7(1): 15489.
11. Moher D, Liberati A, Tetzlaff J and Altman DG (2009).
Preferred reporting items for systematic reviews and meta-
analyses: the PRISMA statement. PLoS Med, 6(7): e1000097.
12. Nguyễn Minh Lộc (2017). Chất lượng cuộc sống và các yếu tố
liên quan của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV ở
Trung tâm y tế thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Khóa luận
tốt nghiệp bác sĩ y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Thị Kim Tuyến, Huỳnh Ngọc Vân Anh and Tô Gia
Kiên (2016). Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của
người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV ở Trung tâm
phòng chống HIV/AIDS Bình Phước. Y học TP. Hồ Chí Minh,
Phụ bản tập 20, số 5.
14. Nobre N, Pereira M, Roine RP, Sintonen H and Sutinen J
(2017). Factors associated with the quality of life of people
living with HIV in Finland. AIDS Care, 29(8): 1074-1078.
15. Quách Thị Minh Phượng (2015). Chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới năm 2015. Y
học TP. Hồ Chí Minh, Tập 20(Phụ bản của số 1): tr. 299-305.
16. Skevington SM, Lotfy M and O'Connell KA (2004). The World
Health Organization's WHOQOL-BREF quality of life
assessment: psychometric properties and results of the
international field trial. A report from the WHOQOL group.
Qual Life Res, 13(2): 299-310.
17. Tăng Thường Bản and Nguyễn Thị Hồng Loan (2009). Đánh
giá đặc tính đo lường của bảng câu hỏi chất lượng cuộc sống
WHOQOL - BREF phiên bản tiếng Việt trên bệnh nhân HIV (+)
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ y
khoa, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
18. Thai TT, Jones MK, Harris LM, Heard RC, Hills NK and
Lindan CP (2017). Symptoms of Depression in People Living
with HIV in Ho Chi Minh City, Vietnam: Prevalence and
Associated Factors. AIDS Behav.
19. Tô Gia Kiên, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Đỗ Văn Dũng and
Nguyễn Thị Hoàng Mai (2014). Đặc tính đo lường của
WHOQOL-HIV BREF tiếng Việt trên người nhiễm HIV đang
được điều trị ARV. Y học TP. Hồ Chí Minh, 18: tr. 15-22.
20. Tran BX (2012). Quality of life outcomes of antiretroviral
treatment for HIV/AIDS patients in Vietnam. PLoS One, 7(7):
e41062.
21. Tran BX, Ohinmaa A, Duong AT, Do NT, Nguyen LT, Mills S,
Houston S and Jacobs P (2012). Cost-effectiveness of
methadone maintenance treatment for HIV-positive drug
users in Vietnam. AIDS Care, 24(3): 283-90.
22. Tran BX, Ohinmaa A, Nguyen LT, Oosterhoff P, Vu PX, Vu TV
and Larsson M (2012). Gender differences in quality of life
outcomes of HIV/AIDS treatment in the latent feminization of
HIV epidemics in Vietnam. AIDS Care, 24(10): 1187-96.
23. Trần Vũ Hiếu and Nguyễn Quốc Huy (2008). Chất lượng cuộc
sống của người nhiễm HIV/AIDS tại Khoa Tham vấn hỗ trợ
cộng đồng quận 8 và quận Bình Thạnh năm 2007. Khóa luận
tốt nghiệp bác sĩ y khoa, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc
Thạch.
24. Vu VT, Larsson M, Pharris A, Diedrichs B, Nguyen HP,
Nguyen CT, Ho PD, Marrone G and Thorson A (2012). Peer
support and improved quality of life among persons living
with HIV on antiretroviral treatment: a randomised controlled
trial from north-eastern Vietnam. Health Qual Life Outcomes,
10: 53.
25. WHO (2017). HIV/AIDS - Fact Sheets.
26. Yang Y, Thai S and Choi J (2016). An evaluation of quality of
life among Cambodian adults living with HIV/AIDS and using
antiretroviral therapy: a short report. AIDS Care, 28(12): 1546-
1550.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_hivaids_tai_viet_nam_ket.pdf