Tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị methadone tại phòng khám quận gò vấp TP Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 183
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ METHADONE
TẠI PHÒNG KHÁM QUẬN GÒ VẤP
TP. HỒ CHÍ MINH
Trịnh Thị Kim Thảo*, Nguyễn Song Chí Trung**, Lê Huỳnh Thị Cẩm Hồng***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Điều trị duy trì bằng thuốc Methadone giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân nghiện heroin, đặc biệt là những bệnh nhân nghiện lâu năm. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị Methadone tại phòng khám quận Gò Vấp, TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 182 bệnh nhân đang điều trị trong giai đoạn
duy trì tại cơ sở Methadone quận Gò Vấp bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn. Sử dụng bộ công
cụ WHOQoL – BREF để đánh giá chất lượng cuộc sống và thang đo APGAR để đo lường mức độ gắn kết
gia đình của bệnh nhân.
Kết quả: Đa số bệnh nhân là nam giới (95,6%); trung bình 35 tuổi (độ lệch chuẩn = 6,3 ); 57,1% bệnh
nhân...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị methadone tại phòng khám quận gò vấp TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 183
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ METHADONE
TẠI PHÒNG KHÁM QUẬN GÒ VẤP
TP. HỒ CHÍ MINH
Trịnh Thị Kim Thảo*, Nguyễn Song Chí Trung**, Lê Huỳnh Thị Cẩm Hồng***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Điều trị duy trì bằng thuốc Methadone giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân nghiện heroin, đặc biệt là những bệnh nhân nghiện lâu năm. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân điều trị Methadone tại phòng khám quận Gò Vấp, TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 182 bệnh nhân đang điều trị trong giai đoạn
duy trì tại cơ sở Methadone quận Gò Vấp bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn. Sử dụng bộ công
cụ WHOQoL – BREF để đánh giá chất lượng cuộc sống và thang đo APGAR để đo lường mức độ gắn kết
gia đình của bệnh nhân.
Kết quả: Đa số bệnh nhân là nam giới (95,6%); trung bình 35 tuổi (độ lệch chuẩn = 6,3 ); 57,1% bệnh
nhân chưa học hết cấp 2 và 36,8% đang thất nghiệp. Điểm số chất lượng cuộc sống của bệnh nhân cao nhất
trong lĩnh vực môi trường sống là 67,3 ± 10,3 và thấp nhất trong lĩnh vực quan hệ xã hội là 47,0 ± 17,5,
dựa trên thang điểm 100. Các yếu tố làm tăng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân là tuổi < 35, liều điều trị
60 – 120 mg/ngày, công việc ổn định, không mắc các bệnh kèm theo và gia đình gắn kết tốt.
Kết luận: Điều trị các bệnh kèm theo và sự gắn kết của gia đình là những yếu tố quan trọng nhằm
giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Đồng thời, cũng cần có những chính sách hỗ trợ việc
làm phù hợp trên những bệnh nhân này.
Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, WHOQoL – BREF, Methadone, Thành phố Hồ Chí Minh
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE AMONG METHADONE MAINTENANCE PATIENTS
IN GO VAP CLINIC, HO CHI MINH CITY.
Trinh Thi Kim Thao, Nguyen Song Chi Trung, Le Huynh Thi Cam Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 183 - 189
Introduction: The effectiveness of Methadone Maintenance Treatment (MMT) was to improve the
Quality Of Life (QoL) amongheroin addiction patients, specially in longtime addictors. The study aimed to
evaluate the QoL among MMT patients in Go Vap district clinic.
Methods: A cross-sectional study was conducted in 182 patients who were being treated in the
maintenance phase of MMT in Go Vap clinic. Participants were recruited in the study using the single
random sampling technique. The World Health Organiation quality of life intrusment (WHOQoL-BREF)
was used to assess the QoL and the APGAR scale was used to evaluate the familly connectedness of
patients.
Results: Most patients were male (95.6%), the mean age was 35 years (standard deviation = 6.3),
57.1% of the respondents did not complete secondary school and 36.8% were unemployed. Quality of life
score was highest in environmental domain with 67.3 ± 10.3 and lowest in social relationships domain with
47.0 ± 17.5, based 100 point scale. Factors that increased the QoL score were age < 35, treatment dose from
*BS YHDP, **BM Tâm thần-Khoa Y, ***BM Sức khỏe môi trường-Khoa YTCC, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Trịnh Thị Kim Thảo ĐT: 01687607327 Email: trinhthaoyds@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 184
60 to 120 mg/day, stable job, has no co-disease and good family connectedness.
Conclusion: Treating co-diseases and improving family connectedness were important factors to
increase the quality of life for patients. Furthermore, appropriate employment support policies were also
needed in these patients.
Keywords: Quality of life, WHOQoL – BREF, Methadone, Ho Chi Minh City
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiện ma túy nói chung và nghiện các
chất dạng thuốc phiện nói riêng luôn là vấn
đề nóng của xã hội. Nghiện ma túy không
những gây ra nhiều tác hại về mặt sức khỏe
và tinh thần mà đặc biệt còn làm tăng nguy
cơ mắc bệnh lây truyền qua đường máu như
HIV, HCV(6, 11, 15). Ước tính trên thế giới cứ 20
người trong độ tuổi trưởng thành thì có một
người sử dụng ít nhất một loại ma túy(15). Tại
Việt Nam, tính đến thời điểm tháng 02/2017
cả nước hiện có 210.751 người nghiện ma túy
có hồ sơ quản lý, 85% trong số này có tiêm
chích heroin(3). Đặc biệt, TP. HCM có 21.712
người nghiện ma túy, được xem là một trong
những nơi có số người nghiện ma túy cao
nhất cả nước(3).
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều
phương pháp điều trị nghiện ma túy khác
nhau. Trong đó, liệu pháp điều trị duy trì
bằng Methadone (Methadone Maintenance
Treatment – MMT) được đánh giá là có hiệu
quả cao, đặc biệt trên những bệnh nhân có tiền
sử nghiện heroin lâu năm. Giảm sử dụng
heroin, giảm hành vi lây truyền HIV và cải
thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân là 3
mục tiêu chính để đánh giá hiệu quả của
chương trình MMT tại Việt Nam(6). Tuy nhiên,
do thời gian điều trị kéo dài cùng những hậu
quả nặng nề do lệ thuộc chất gây nghiện gây
ra thì việc cải thiện tình trạng sức khỏe của
bệnh nhân một cách toàn diện hay chính là
chất lượng cuộc sống đang là một trong
những khó khăn lớn.
Gò vấp là một quận nội thành nẳm ở phía
Tây Bắc của Tp.Hồ Chí Minh, đây là quận thứ
6 của thành phố triển khai chương trình MMT
trước tình hình dịch HIV lan rộng. Tính đến
thời điểm hiện tại phòng khám đã điều trị cho
khoảng 658 bệnh nhân. Tuy nhiên, hiện nay
chỉ có 319 bệnh nhân đang tham gia điều trị,
trong đó có 227 bệnh nhân đang điều trị trong
giai đoạn duy trì. Việc đánh giá chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân điều trị tại đây là rất
quan trọng, nhằm cung cấp thêm nhiều bằng
chứng về hiệu quả điều trị cũng như đưa ra
các giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao chất
lượng sống, nâng cao tỷ lệ tuân thủ điều trị.
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với
mục tiêu: đánh giá chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân đang điều trị Methadone quận Gò
Vấp và xác định một số yếu tố liên quan đến
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành từ
tháng 05/2017 đến tháng 06/2017 trên bệnh
nhân đang điều trị Methadone trong giai đoạn
duy trì tại phòng khám Quận Gò Vấp,
Tp.HCM. Đối tượng nghiên cứu được tuyển
chọn dựa vào những tiêu chí (1) ≥ 18 tuổi và
(2) đang điều trị trong giai đoạn duy trì.
Cỡ mẫu được tính dựa vào công thức ước
lượng một trung bình với xác suất sai lầm loại
1 α = 0,05; sai số biên cần ước lượng d = 2, độ
lệch chuẩn của biến số cần ước lượng σ = 13,4
dựa vào nghiên cứu chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân điều trị Methadone tại Hải Phòng
của Lê Minh Giang và cộng sự(7). Ước tính cỡ
mẫu tối thiểu của nghiên cứu này là 172 bệnh
nhân, dự trù mất mẫu 10%, vậy cỡ mẫu
nghiên cứu là 191 mẫu. Sử dụng kỹ thuật chọn
mẫu ngẫu nhiên đơn để tuyển chọn đối tượng
nghiên cứu. Tổng cộng có 191 bệnh nhân được
mời tham gia vào nghiên cứu, trong đó 182
bệnh nhân đồng ý tham gia và hoàn thành bộ
câu hỏi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 185
Dữ liệu của nghiên cứu được thu thập
bằng cách phỏng vấn trực tiếp và tra cứu hồ
sơ bệnh án dựa vào bộ câu hỏi có cấu trúc
soạn sẵn gồm 4 phần: đặc điểm nhân khẩu học
của đối tượng tham gia nghiên cứu (tuổi, giới,
công việc, học vấn, hôn nhân, thời gian điều
trị, liều điều trị), đặc điểm về các bệnh kèm
theo (Lao, HBV, HCV, HIV), mức độ gắn kết
gia đình của đối tượng tham gia nghiên cứu
thông qua bộ công cụ APGAR (thích nghi -
Adaptation, hội nhập - Partnership, nuôi
dưỡng - Growth, tình cảm - Affection, giải
quyết - Resolve), chất lượng cuộc sống của đối
tượng tham gia nghiên cứu thông qua bộ công
cụ WHOQoL – BREF đã được việt hóa và tiến
hành nghiên cứu thử trên 20 đối tượng trước
khi đưa vào nghiên cứu. WHOQoL – BREF là
bộ công cụ đo lường chất lượng cuộc sống
gồm 26 câu, đây là bộ rút gọn của bộ công cụ
WHOQoL – 100(17,18). WHOQoL – BREF đo
lường trên 4 lĩnh vực: sức khỏe thể chất (7
câu), sức khỏe tinh thần (6 câu), quan hệ xã
hội (3 câu), môi trường sống (8 câu) và 2 câu là
nhận thức chung về chất lượng cuộc sống và
tình trạng sức khỏe. Các nghiên cứu về chất
lượng cuộc sống sử dụng thang đo WHOQoL
– BREF trên đối tượng điều trị Methadone ở
các quốc gia khác nhau đều cho thấy thang đo
này có tính giá trị và tính tin cậy tốt(1,7,13).
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1,
phân tích dữ liệu bằng phần mềm Stata 13.0.
Để đồng bộ điểm số giữa các lĩnh vực với
nhau và với những nghiên cứu khác, điểm số
chất lượng cuộc sống trong nghiên cứu này sẽ
được chuyển đổi sang thang điểm 0 – 100.
Thống kê mô tả bao gồm: tần số, tỷ lệ % cho
biến giới tính, nhóm tuổi, học vấn, hôn nhân,
công việc, thời gian điều trị, liều điều trị, bệnh
kèm theo và khả năng gắn kết gia đình; trung
bình, độ lệch chuẩn cho biến sức khỏe thể
chất, sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội và
môi trường sống; trung vị, khoảng tứ phân vị
cho biến APGAR. Thống kê phân tích: kiểm
định t được sử dụng để so sánh sự khác biệt
điểm số chất lượng cuộc sống giữa các nhóm
tuổi, giới tính, hôn nhân. Phép kiểm ANOVA
được sử dụng để so sánh sự khác biệt điểm số
chất lượng cuộc sống giữa các nhóm công việc,
nhóm liều điều trị, bệnh kèm theo và mức độ
gắn kết gia đình. Phép kiểm Kruskal-Wallis
được sử dụng khi phương sai giữa các nhóm
không đồng nhất. Kiểm định được xem là có ý
nghĩa khi p < 0,05.
Nghiên cứu được chấp thuận về các khía
cạnh đạo đức từ Hội Đồng Đạo Đức trong
nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược Tp. Hồ
Chí Minh số 160/ĐHYD-HĐ ký ngày
10/5/2017.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên
cứu (n = 182)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ(%)
Giới tính
Nam
Nữ
174
8
95,6
4,4
Nhóm tuổi
< 35 tuổi
≥ 35 tuổi
84
98
46,1
53,9
Học vấn
≤ Cấp 2
> Cấp 2
104
78
57,1
42,9
Hôn nhân
Độc thân
Kết hôn/sống với bạn
tình
91
91
50,0
50,0
Công việc
Ổn định
Không ổn định
Thất nghiệp
83
32
67
45,6
17,6
36,8
Thời gian điều
trị
< 24 tháng
≥ 24 tháng
61
121
33,5
66,5
Liều điều trị
< 60 mg/ngày
60 – 120 mg/ngày
>120 mg/ngày
31
93
59
17,0
51,1
31,9
Bệnh kèm theo
Không
1 bệnh
≥ 2 bệnh
49
69
64
26,9
37,9
35,2
Bệnh lý
HCV
HIV/AIDS
HBV
Lao
114
66
20
3
62,6
36,3
11,0
1,7
APGAR(*)
Chỉ số APGAR
GTNN – GTLN
7 (3 – 9)
0 – 10
Khả năng gắn
kết gia đình
Gắn kết tốt
Gắn kết không tốt
Rời rạc
78
53
51
42,9
29,1
28,0
(*) Trung vị (khoảng tứ phân vị)
GTLN – GTNN: giá trị lớn nhất – giá trị nhỏ nhất
Đối tượng tham gia nghiên cứu hầu hết là
nam, nhóm tuổi ≥ 35 chiếm tỷ lệ cao hơn so với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 186
nhóm < 35 tuổi, trong đó nhỏ nhất là 21 tuổi và
lớn nhất là 60 tuổi. Trình độ học vấn tương đối
thấp, hầu hết các đối tượng tham gia nghiên cứu
chưa học hết cấp 2 (57,1%) và 36,8% đối tượng
đang thất nghiệp. Đa số các đối tượng đang điều
trị tại Gò Vấp đã tham gia điều trị trên 24 tháng
(2 năm), liều 60 – 120 mg/ngày chiếm đa số.
Trong 182 đối tượng tham gia nghiên cứu, có 133
đối tượng đang mắc các bệnh lý kèm theo. Hai
bệnh mắc nhiều nhất là HCV (62,6%) và HIV
(36,3%). Chỉ số APGAR của đối tượng tham gia
nghiên cứu có trung vị là 7, thấp nhất là 0 và cao
nhất là 10 điểm. Qua đó, cho thấy có > 50% gia
đình bệnh nhân gắn kết không tốt và rời rạc
(Bảng 1).
Bảng 2: Chất lượng cuộc sống của đối tượng tham
gia nghiên cứu (WHOQoL – BREF)
Lĩnh vực TB ± ĐLC
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
Sức khỏe thể chất 59,5 ± 13,1 17,9 82,1
Sức khỏe tinh thần 64,0 ± 14,8 8,3 95,8
Quan hệ xã hội 47,0 ± 17,5 0 83,3
Môi trường sống 67,3 ± 10,3 21,9 90,6
QoL 59,5 ± 11,6 24,7 82,3
TB ± ĐLC: trung bình ± độ lệch chuẩn
QoL: Chất lượng cuộc sống
Kết quả bảng 2 cho thấy chất lượng cuộc
sống của đối tượng tham gia nghiên cứu cao
nhất trong lĩnh vực môi trường sống (67,3 ±
10,3) và thấp nhất trong lĩnh vực quan hệ xã
hội (47,0 ± 17,5).
Bảng 3: Mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (n = 182)
Đặc tính
Sức khỏe thể chất
TB ± ĐLC
Sức khỏe tinh thần
TB ± ĐLC
Quan hệ xã hội
TB ± ĐLC
Môi trường sống
TB ± ĐLC
QoL
TB ± ĐLC
Giới tính
Nam
Nữ
p
59,6 ± 13,1
57,6 ± 12,4
0,668
64,1 ± 14,7
61,5 ± 17,9
0,620
47,6 ± 17,3
34,4 ± 18,1
0,037
67,5 ± 10,3
63,7 ± 11,3
0,307
59,7 ± 11,5
54,3 ± 12,8
0,195
Tuổi
< 35 tuổi
≥ 35 tuổi
p
63,3 ± 11,0
56,3 ± 13,9
<0,001*
67,4 ± 12,9
61,1 ± 15,8
0,005
50,3 ± 16,3
44,1 ± 18,0
0,017
68,8 ± 8,6
66,0 ±11,5
0,064*
62,4 ± 10,0
56,9 ± 12,3
0,001
Hôn nhân
Sống chung
Không sống chung
p
59,9 ± 13,3
59,2 ± 13,0
0,747
64,7 ± 14,2
63,3 ± 15,5
0,507
50,6 ± 17,7
43,3 ± 16,5
0,004
67,9 ± 10,9
66,8 ± 9,7
0,461
60,8 ± 11,8
58,1 ± 11,2
0,124
Công việc
Ổn định
Không ổn định
Thất nghiệp
p
62,9 ± 12,7
59,5 ± 12,0
55,4 ± 13,0
0,002
68,0 ± 12,6
65,6 ± 13,0
58,3 ± 16,5
<0,001
52,1 ± 16,2
44,5 ± 15,1
41,8 ± 18,4
0,001
70,1 ± 9,0
66,1 ± 9,4
64,5 ± 11,4
0,003
63,3 ± 10,4
58,9 ± 10,1
55,0 ± 12,1
<0,001
Liều điều trị
< 60 mg/ngày
60 – 120 mg
> 120mg
p
62,8 ± 11,3
62,4 ± 11,5
53,3 ± 14,3
<0,001
66,9 ± 12,6
67,9 ± 11,8
56,2 ± 17,2
<0,001**
52,7 ± 15,0
49,7 ± 16,2
39,5 ± 18,5
<0,001
69,8 ± 8,3
69,1 ± 9,8
63,1 ± 11,1
<0,001
63,0 ± 9,6
62,3 ± 10,1
53,0 ± 12,3
<0,001
Bệnh kèm theo
Không
1 bệnh
≥ 2 bệnh
p
66,3 ± 8,6
63,5 ± 10,3
50,1 ± 13,4
<0,001**
71,9 ± 11,0
67,7 ± 10,6
54,0 ± 15,9
<0,001**
52,6 ± 14,0
51,3 ± 14,6
38,0 ± 19,2
<0,001**
71,3 ± 9,6
69,6 ± 8,4
61,8 ± 10,6
<0,001
65,5 ± 8,9
63,0 ± 8,3
51,0 ± 11,6
<0,001**
Gắn kết gia đình
Tốt
Không tốt
Rời rạc
p
65,0 ± 10,3
57,3 ± 13,7
53,4 ± 13,0
<0,001
72,4 ± 10,4
61,0 ± 13,3
54,3 ± 15,3
<0,001**
52,7 ± 14,9
45,9 ± 17,9
39,4 ± 17,9
0,001
72,0 ± 7,4
67,1 ± 9,0
60,5 ± 11,7
<0,001**
65,5 ± 8,4
57,8 ± 10,7
51,9 ± 11,8
<0,001**
(*) Kiểm định t với phương sai không bằng nhau
(**) Kiểm định Kruskal Wallis
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 187
Kết quả bảng 3 cho thấy nam giới có điểm
chất lượng cuộc sống trong lĩnh vực quan hệ xã
hội cao hơn so với nữ giới (p = 0,037). Có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa công việc với điểm
chất lượng cuộc sống chung và trên các lĩnh vực
thể chất, tinh thần, quan hệ xã hội, môi trường
sống (p < 0,05). Những người đồng mắc bệnh có
điểm chất lượng cuộc sống chung và trên 4 lĩnh
vực thấp hơn so với những người không mắc
bệnh (p < 0,05). Nhóm nghiên cứu chưa tìm thấy
mối liên quan giữa thời gian điều trị với chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân. Những bệnh
nhân đang điều trị ở liều < 60 mg/ngày có chất
lượng cuộc sống trong từng lĩnh vực cao hơn so
với bệnh nhân điều trị liều > 120 mg/ngày. Có sự
khác biệt giữa khả năng gắn kết gia đình của đối
tượng tham gia nghiên cứu với chất lượng cuộc
sống trên lĩnh vực thể chất, tinh thần, quan hệ xã
hội và môi trường sống (p < 0,05).
BÀN LUẬN
Liệu pháp điều trị duy trì bằng Methadone
hiện nay đã được triển khai tại nhiều quốc gia
trên thế giới(10,12). Tại Việt Nam, tính đến năm
2017 chương trình điều trị Methadone đã được
triển khai trên tất cả các tỉnh, thành của cả
nước(4, 12). Hiệu quả của chương trình điều trị
này đã có nhiều ghi nhận thông qua việc giảm
sử dụng heroin, giảm hành vi lây truyền các
bệnh qua đường máu và nâng cao chất lượng
cuộc sống cho bệnh nhân(6,11,13,14).
Hầu hết các đối tượng đang điều trị
Methadone tại Gò Vấp là nam giới, nhiều y
văn tại Việt Nam và trên thế giới cũng ghi
nhận tỷ lệ nam điều trị Methadone nhiều hơn
so với nữ(2,9,13,16,19). Độ tuổi trung bình của bệnh
nhân đang điều trị Methadone tại đây là 35
tuổi, đều là những người đang trong độ tuổi
lao động. Nghiên cứu của tác giả Trần Xuân
Bách và Nguyễn Thanh Long tại 3 thành phố
Hải Phòng, Hà Nội và Hồ Chí Minh cũng cho
thấy độ tuổi trung bình của bệnh nhân điều trị
Methadone là 35 ± 4,6 tuổi(14) .Trình độ học vấn
thấp, sức khỏe suy giảm cùng với tiền sử sử
dụng chất gây nghiện có thể là nguyên nhân
dẫn tới hầu hết tình trạng công việc của các
bệnh nhân đang điều trị Methadone tại Gò
Vấp là thất nghiệp hoặc có việc làm nhưng thu
nhập không ổn định.
Nghiên cứu này sử dụng thang đo
WHOQoL – BREF để đánh giá chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân. Điểm số chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân trên 4 lĩnh vực (thể chất,
tinh thần, quan hệ xã hội, môi trường sống) mà
nghiên cứu này ghi nhận được là 59,5 ± 11,6
(thang điểm 100). Kết quả này thấp hơn so với
các nghiên cứu khác(6,7,8), nhưng cao hơn so với
nghiên cứu của tác giả Chou YC tại Đài Loan(2).
Các nghiên cứu tại Việt Nam đều cho thấy điểm
chất lượng cuộc sống trong lĩnh vực quan hệ xã
hội là thấp nhất(7,13) , kết quả này cũng được xác
nhận lại qua nghiên cứu của chúng tôi. Từ đây,
có thể thấy được việc cải thiện các mối quan hệ
xã hội hay nói cách khác là quá trình hỗ trợ tái
hòa nhập cộng đồng của bệnh nhân sau khi
tham gia điều trị Methadone là rất quan trọng.
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa giới
tính với chất lượng cuộc sống trong lĩnh vực
quan hệ xã hội, qua đó có thể thấy được định
kiến về phụ nữ nghiện chất vẫn còn đang là một
trong những rào cản rất lớn làm cho phụ nữ khó
có cơ hội hòa nhập cộng đồng hơn nam giới.
Hầu hết các y văn đều ghi nhận chất lượng cuộc
sống ở những bệnh nhân có công việc ổn định
cao hơn so với những người thất nghiệp(5,9,19).
Điều này cho thấy việc hỗ trợ tạo cơ hội việc làm
cho bệnh nhân sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 188
sống của họ. Bên cạnh đó, đồng mắc các bệnh lây
truyền qua đường máu (HIV, HCV) do tiêm
chích ma túy dùng chung bơm kim tiêm cũng là
yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Điểm
nổi bật trong nghiên cứu này là tìm thấy mối liên
quan giữa chất lượng cuộc sống với khả năng
gắn kết gia đình của bệnh nhân thông qua bộ
công cụ APGAR. Nghiên cứu của Wang tại Đài
Loan cũng cho thấy những bệnh nhân có chỉ số
APGAR càng cao thì sức khỏe thể chất và sức
khỏe tinh thần càng cao(16). Qua đó, có thể thấy
gia đình không những có vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ và giúp đỡ bệnh nhân tham gia
điều trị mà còn có vai trò không nhỏ trong việc
nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Điểm mạnh trong nghiên cứu này của
chúng tôi đó là sử dụng những thang đo đã
được chuẩn hóa có tính giá trị và tính tin cậy
tốt. Đồng thời, mẫu của nghiên cứu được chọn
ngẫu nhiên từ danh sách bệnh nhân tại phòng
khám nên kết quả của nghiên cứu này có tính
đại diện cho dân số nghiên cứu. Tuy nhiên,
thiết kế nghiên cứu cắt ngang là một trong
những hạn chế của nghiên cứu này vì chưa
thiết lập được mối quan hệ nhân quả giữa thời
gian điều trị cũng như các yếu tố khác với chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân cao nhất trong lĩnh vực môi
trường sống và thấp nhất trong lĩnh vực quan hệ
xã hội. Để nâng cao chất lượng cuộc sống cho
bệnh nhân cũng như nâng cao hiệu quả điều trị
Methadone thì việc hỗ trợ tâm lý từ phía gia
đình, điều trị các bệnh lý kèm theo và giải quyết
việc làm cho bệnh nhân là vô cùng quan trọng.
Gia đình nên tìm hiểu lắng nghe động viên bệnh
nhân trong quá trình điều trị. Sự gắn kết của các
thành viên trong gia đình nhằm tăng cường
động lực cho bệnh nhân, từ đó tạo sự thoải mái
về tinh thần và sự tương tác tích cực với môi
trường xung quanh, giúp nâng cao sức khỏe cho
bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baharom N, Hassan MR, Ali N, Shah SA (2012),
"Improvement of quality of life following 6 months of
methadone maintenance therapy in Malaysia". Subst
Abuse Treat Prev Policy, 7:32.
2. Chou Y C, Shih S F, Tsai W D, Li C S, Xu K, Lee T S (2013),
"Improvement of quality of life in methadone treatment
patients in northern Taiwan: a follow-up study". BMC
Psychiatry, 13:190.
3. Công An TP. Hồ Chí Minh (2017), TP. Hồ Chí Minh dẫn
đầu cả nước về số người nghiện ma túy
ve-so-nguoi-nghien-ma-tuy_34147.html, 25/03/2017.
4. Cục Phòng Chống HIV/AIDS (2017), "Báo cáo tình hình
điều trị Methadone đến giữa tháng 3 năm 2017". Bộ Y Tế,
Hà Nội.
5. Fei JTB, Yee A, Habil MH, Danaee M (2016),
"Effectiveness of Methadone Maintenance Therapy and
Improvement in Quality of Life Following a Decade of
Implementation". Journal of Substance Abuse Treatment,
69:50 -56.
6. FHI 360 (2014), Đánh giá hiệu quả của chương trình thí
điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
Methadone tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
7. Lê Minh Giang, Nguyễn Thị Lan Hương, Nguyễn Tố
Như, Vương Thị Hương Thu (2015), "Chất lượng cuộc
sống và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân được điều
trị methadone tại Hải Phòng". Tạp Chí Nghiên Cứu Y
Học, 96 (4):114 - 122.
8. Lashkaripour K, Bakhshani NM, Sadjadi SA (2012),
"Quality of life in patients on methadone maintenance
treatment: a three-month assessment". J Pak Med Assoc,
62 (10): 1003-7.
9. Lin C, Wu Z, Detels R (2011), "Family support, quality of
life and concurrent substance use among methadone
maintenance therapy clients in China". Public Health, 125
(5): 269-74.
10. McArthur M (1999), A History Of Methadone Treament In
Australia: The Influence Of Social Control Arguments In
Its Development, The History of Crime, Policing and
Punishment Conference, p. 3-14.
11. SCDI Việt Nam (2016), "Methadone Và Điều Trị Nghiện
Heroin ". Hà Nội, tr.5-14.
12. Thomas Payte J (2012), "A Brief History of Methadone in
the Treatment of Opioid Dependence: A Personal
Perspective". Journal of Psychoactive Drugs, 23 (2) :103-
107.
13. Tran BX, et al (2012), "Changes in drug use are associated
with health-related quality of life improvements among
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 189
methadone maintenance patients with HIV/AIDS". Qual
Life Res, 21 (4): 613-23.
14. Tran BX, Nguyen TL (2013), "Impact of methadone
maintenance on health utility, health care utilization and
expenditure in drug users with HIV/AIDS". International
Journal of Drug Policy, pp.e105–e110.
15. United Nations Office on Drugs and Crime (2016), "World
Drug Report 2016". United Nations publication, New
York.
16. Wang PW, et al. (2012), "Change in quality of life and its
predictors in heroin users receiving methadone
maintenance treatment in Taiwan: an 18-month follow-up
study". Am J Drug Alcohol Abuse, 38 (3): 213-9.
17. World Health Organization (1996), WHOQOL-BREF:
Introduction, Administration, Scoring, And Generic
Version Of The Assessment, Geneva.
18. World Health Organization (2014), Global update on the
health sector response to HIV, Geneva, pp. 3-8.
19. Xiao L, Wu Z, Luo W, Wei X (2010), "Quality of life of
outpatients in methadone maintenance treatment clinics".
J Acquir Immune Defic Syndr, 53 Suppl 1: S116-20.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_dieu_tri_methadone_tai_ph.pdf