Chân giả trên gối ổ mỏm cụt đùi ovan dọc một bước tiến trong kỹ thuật chi giả

Tài liệu Chân giả trên gối ổ mỏm cụt đùi ovan dọc một bước tiến trong kỹ thuật chi giả: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 291 CHÂN GIẢ TRÊN GỐI Ổ MỎM CỤT ĐÙI OVAN DỌC MỘT BƯỚC TIẾN TRONG KỸ THUẬT CHI GIẢ Dương Hữu Đức*, Đỗ Phước Hùng**, Cái Việt Anh Dũng***, Mai Văn Trình*, Nguyễn Quang Khải** TÓM TẮT Mở đầu: Mỏm cụt trên gối, ngang thân xương đùi gặp phổ biến. Ống mỏm cụt (OMC) là bộ phận quan trọng của chân giả trên gối. OMC ovan ngang đã được sử dụng phổ biến nhưng có một số khuyết điểm như tiêu thụ năng lượng nhiều khi đi và phân bố áp lực lên bề mặt mỏm cụt không đều. Xu hướng thế giới hiện nay dần chuyển sang sử dụng OMC ovan dọc. Hiện tại, vẫn còn ít dữ liệu về OMC ovan dọc. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng chân giả trên gối OMC ovan dọc cho bệnh nhân cắt cụt ngang thân xương đùi. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Kết quả: từ 3/2017 đến 6/2017, đã đánh giá 26 trường hợp cắt cụt một chân ngang thân xương đùi. Thời gian sử dụng chân giả OMC ovan dọc: mớ...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chân giả trên gối ổ mỏm cụt đùi ovan dọc một bước tiến trong kỹ thuật chi giả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 291 CHÂN GIẢ TRÊN GỐI Ổ MỎM CỤT ĐÙI OVAN DỌC MỘT BƯỚC TIẾN TRONG KỸ THUẬT CHI GIẢ Dương Hữu Đức*, Đỗ Phước Hùng**, Cái Việt Anh Dũng***, Mai Văn Trình*, Nguyễn Quang Khải** TÓM TẮT Mở đầu: Mỏm cụt trên gối, ngang thân xương đùi gặp phổ biến. Ống mỏm cụt (OMC) là bộ phận quan trọng của chân giả trên gối. OMC ovan ngang đã được sử dụng phổ biến nhưng có một số khuyết điểm như tiêu thụ năng lượng nhiều khi đi và phân bố áp lực lên bề mặt mỏm cụt không đều. Xu hướng thế giới hiện nay dần chuyển sang sử dụng OMC ovan dọc. Hiện tại, vẫn còn ít dữ liệu về OMC ovan dọc. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng chân giả trên gối OMC ovan dọc cho bệnh nhân cắt cụt ngang thân xương đùi. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Kết quả: từ 3/2017 đến 6/2017, đã đánh giá 26 trường hợp cắt cụt một chân ngang thân xương đùi. Thời gian sử dụng chân giả OMC ovan dọc: mới sử dụng 50% và sử dụng 3 tháng 50%. Thời gian sử dụng chân giả OMC ovan ngang trung bình 30,96 năm. Khi đi, mạch đập trung bình 87,8 lần/phút (ovan ngang) và 83.3 lần/phút (ovan dọc). Huyết áp tối đa và tối thiểu 144 mmHg và 84,6 mmHg (ovan ngang); 137,1 mmHg và 81,2 mmHg (ovan dọc). Nhịp thở 24,2 lần/phút (ovan ngang) và 22 lần/phút (ovan dọc). Vận tốc đi 37,3 m/phút (ovan ngang) và 39.7 m/phút (ovan dọc). Các cặp số liệu khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0.001). Độ lệch so với % áp lực trung bình kỳ vọng khi đứng thăng bằng trên 2 chân 13,45 (ovan ngang) và 11,93 (ovan dọc); khi đi trong một chu kỳ 13,80 (ovan ngang) và 11,43 (ovan dọc). Kết luận: Mức tiêu thụ năng lượng khi đi chân giả OMC ovan dọc thấp hơn OMC ovan ngang. Khi đứng thăng bằng và đi, OMC ovan dọc đều có sự phân bố áp lực trải đều hơn OMC ovan ngang. Từ khoá: chân giả, mỏm cụt, ovan dọc ABSTRACT LONGITUDINAL OVAL SOCKET: A NEW PROGRESS IN ABOVE-KNEE PROTHESIS. Duong Huu Duc, Do Phuoc Hung, Cai Viet Anh Dung, Mai Van Trinh, Nguyen Quang Khai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 291 - 296 Background: Above-knee stump is common. Socket is a critical part of above-knee prothesis. Transverse oval socket has been widely used in medical practices but with some disadvantages like excessive energy expenditure when moving and uneven distribution of pressures on socket interface. Today’s trend is to use longitudinal oval socket. However there remains a paucity of further data in the usage of longitudinal oval socket. Objectives: Evaluate the effectiveness of above-knee longitudinal oval sockets in patients with transfemoral amputation. Methods: Case-series descriptive study. Results: From 3/2017 to 6/2017, 26 cases with unilateral transfemoral amputation were evaluated. Duration usage in cases with longitudinal oval prosthetic sockets: 50% with recently usage and 50% with 3-month usage. Mean of duration usage in cases with transverse oval prosthetic sockets is 30.96 years. Values are recorded in both cases, in patients using transverse oval socket and longitudinal oval socket, for mean of pulse rates when walking * TTCH-PHCN Tp.HCM ** Đại học Y Dược Tp.HCM *** Đại học Quốc tế Miền Đông Bình Dương Tác giả liên lạc: BS. Dương Hữu Đức ĐT: 0989166079 Email: duonghuuduc64@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Ngoại Khoa 292 (87.8 bpm and 83.3 bpm, respectively), maximum and minium blood pressures (144/84.6 mmHg and 137.1/81.2 mmHg, respectively), respiratory rate (24.2 breaths per minute and 22 breaths per minute, respectively), and walking speed (37.3 m/per). minute and 39.7 m/per minute, respectively). The differnce between two groups is statistically significant (p<0.001). Deviation of percentage expected mean pressure in using two-legged standing balance is 13.45 (transverse oval socket) and 11.93 (longitudinal oval socket); in one gait cycle is 13.80 (transverse oval socket) and 11.43 (longitudinal oval socket). Conclusions: Energy expenditure in using longitudinal oval socket is lower than in using transverse oval socket. In standing balance and walking, longitudinal oval socket provides more even distribution of pressure in comparision with transverse oval socket. Keywords: prosthetic leg, socket, longitudinal oval ĐẶT VẤN ĐỀ Mỏm cụt trên gối, ngang thân xương đùi gặp phổ biến. Trung bình hàng năm có khoảng 1/3 trong tổng số người cụt chi được lắp chân giả trên gối. Ống mỏm cụt (OMC) là một bộ phận quan trọng không thể thiếu. Có nhiều loại OMC khác nhau. OMC ovan ngang tì ụ ngồi đã được thế giới và cả Việt Nam sử dụng phổ biến lâu nay. Nhưng theo lý thuyết và kết luận của một số nghiên cứu khi đánh giá so sánh với OMC ovan dọc thì OMC ovan ngang có một vài nhược điểm như tiêu thụ năng lượng nhiều hơn khi đi do phải vận sức nhiều hơn; sự phân bố áp lực của OMC lên bề mặt mỏm cụt (MC) không đồng đều dẫn đến có những điểm bị tì đè liên tục gây khó chịu cho người sử dụng(1,2). Xu hướng thế giới hiện nay chuyển dần sang cung cấp và sử dụng chân giả trên gối với loại OMC ovan dọc. Cho đến hiện tại, chúng tôi ghi nhận nghiên cứu về hiệu quả sử dụng OMC ovan dọc trong nước còn rất ít. Mục tiêu 1. Đánh giá sự tiêu thụ năng lượng. 2. Đánh giá sự phân bố áp lực của ống mỏm cụt lên mỏm cụt. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Đối tượng nghiên cứu Những bệnh nhân bị cắt cụt một chân ngang thân xương đùi đã và đang sử dụng chân giả trên gối OMC ovan ngang tì ụ ngồi đến làm chân giả mới từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 6 năm 2017, tại trung tâm Chỉnh hình- phục hồi chức năng Tp Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn chọn bệnh Tuổi từ 20 trở lên, không phân biệt giới tính. Tâm thần kinh bình thường. Không mắc các bệnh lý tim mạch, hô hấp. Chân còn lại bình thường. Mỏm cụt chiều dài thích hợp, tình trạng da – phần mềm tốt, tầm vận động – lực cơ bình thường. Cả 2 loại chân giả trên gối OMC ovan dọc và ovan ngang có kết cấu tất cả các bộ phận hoàn toàn giống nhau từ vật liệu cho đến cấu tạo, chỉ khác nhau về hình dạng của OMC là ovan ngang và ovan dọc và đã được hội đồng chuyên môn kiểm tra, đánh giá đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, xuất xưởng. Đánh giá phân loại hoạt động theo mức độ vận động, chọn mức độ 3 và 4(4). Tức là đi lại bằng chân giả ngoài công cộng không hạn chế, với tốc độ trung bình đến nhanh hoặc yêu cầu đặc biệt cao. Có thể vượt qua các trở ngại xung quanh, gặp các va chạm, chịu lực biến dạng, vận động trên địa hình tự do và thực hiện các hoạt động nghề nghiệp. Đồng ý tham gia nghiên cứu. Công cụ nghiên cứu Hồ sơ bệnh án, phiếu xuất chân. Máy đo huyết áp đồng hồ cơ, ống nghe. Đồng hồ bấm thời gian. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 293 Các cảm biến đo áp lực bề mặt tiếp xúc giữa ổ mỏm cụt và mỏm cụt. Cảm biến hoạt động và kết quả các số đo được ghi nhận truyền sang hệ thống máy tính qua Bluetooth nhờ vi điều khiển. Máy camera ghi hình. Phương pháp thực hiện nghiên cứu Lượng giá sự tiêu thụ năng lượng Cho bệnh nhân lần lượt đi 300m với tốc độ đi bình thường hàng ngày của mỗi người lần lượt bằng 2 loại chân giả trên gối OMC ovan dọc và ovan ngang. Đánh giá sự tiêu thụ năng lượng thông qua các chỉ số nhịp mạch, huyết áp, nhịp thở. Tính thời gian đi để suy ra tốc độ đi giữa 2 loại chân giả. Lượng giá phân bố áp lực của 02 loại OMC khi đứng và khi đi Đánh giá sự phân bố áp lực giữa 02 loại OMC qua việc đo áp lực bề mặt tiếp xúc giữa MC và OMC bằng các cảm biến trong khi đứng thăng bằng trên 02 chân và khi đi với 2 loại chân giả. Người bệnh được nghỉ ngơi khoảng 15 phút trước khi tiến hành. Đánh dấu 9 vị trí cần đặt 9 cảm biến trên da của MC. S1: Vùng ụ ngồi; S2: Vùng phía sau, dưới S1; S3: Vùng bó mạch thần kinh đùi (tam giác Scarpa); S4: Vùng phía trước, dưới S3, đối diện S2; S5: Vùng trên mấu chuyển lớn; S6: Vùng dưới mấu chuyển lớn (cùng mặt phẳng ngang với S2, S4, S9); S7: Vùng mặt ngoài đầu xa mỏm cụt, dưới S6; S8: Vùng gân cơ khép; S9: Vùng phía trong, dưới S8, đối diện S6. Sau khi đứng đo chân giả OMC ovan dọc thì tháo chân ra, để nguyên vớ và các cảm biến rồi mang chân giả OMC ovan ngang vào tiếp tục đo. Nghỉ ngơi khoảng 15 phút, lần lượt mang 2 loại OMC vào, ghi nhận kết quả đo khi đi ở đầu, giữa, cuối pha của 2 pha trụ, lăng. Khoảng cách giữa 2 lần đo từ 15-30 phút. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm Stata 14. KẾT QUẢ Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2017 đã thực hiện đánh giá, so sánh 26 trường hợp cắt cụt một chân ngang thân xương đùi được lần lượt cho sử dụng chân giả OMC ovan dọc và chân giả OMC ovan ngang. Kết quả nghiên cứu ghi nhận như sau: Thời gian sử dụng chân giả OMC ovan dọc: Mới sử dụng:13 người (50%)- sử dụng 3 tháng:13 người (50%). Thời gian sử dụng chân giả OMC ovan ngang trung bình: 30,96 năm Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội Biến số Tần số Tỷ lệ (%) Giới Nam Nữ 23 3 88,5 11,5 Tuổi <40 40-59 ≥ 60 3 9 14 11,5 34,6 53,8 Nghề nghiệp Công nhân Nông dân Buôn bán 7 12 7 26,9 46,2 26,9 BMI Bình thường Thừa cân Béo phì 22 2 2 84,6 7,7 7,7 Nguyên nhân cắt cụt Hỏa khi Tai nạn giao thông Bệnh lý 17 6 3 65,4 23,1 11.5 Chân cắt cụt Phải Trái 9 17 34,6 65,4 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Ngoại Khoa 294 Bảng 2: So sánh đặc điểm dấu sinh hiệu khi đi chân giả OMC ovan dọc và ovan ngang Dấu sinh hiệu OMC ovan dọc TB (ĐLC) OMC ovan ngang TB (ĐLC) Hiệu số khác biệt TB (ĐLC) Tỉ lệ khác biệt TB (ĐLC) P C H U N G Mạch (lần/phút) 83,3 (5,3) 87,8 (5,7) 4,5 (2,0) 5,4 (2,5) <0,001 Huyết áp tối đa (mmHg) 137,1 (9,7) 144 (10,4) 6,9 (3,8) 5,1 (2,8) <0,001 Huyết áp tối thiểu (mmHg) 81,2 (7,5) 84,6 (7,3) 3,5 (3,9) 4,4 (5,2) <0,001 Nhịp thở (lần/phút) 22,0 (1,7) 24,2 (1,9) 2,2 (1,3) 10,1 (6,3) <0,001 Vận tốc (m/phút) 39,7 (5,2) 37,3 (4,6) -2,4 (5,3) 12,2 (7,0) <0,001 P H Â N N H Ó M T H Ờ I G IA N S Ử D Ụ N G MỚI SỬ DỤNG CHÂN GIẢ Ổ MỎM CỤT OVAN DỌC (n=13) Mạch (lần/phút) 83,8 (4,4) 88,8 (4,8) 4,9 (1,8) 5,9 (2,1) <0,001 Huyết áp tối đa (mmHg) 138,5 (9,7) 145,8 (10,4) 7,3 (3,9) 5,3 (2,9) 0,028 Huyết áp tối thiểu (mmHg) 82,3 (7,3) 85,0 (8,4) 2,7 (3,9) 3,3 (4,9) <0,001 Nhịp thở (lần/phút) 22,5 (1,9) 25,1 (1,8) 2,6 (1,0) 11,8 (4,9) <0,001 Vận tốc (m/phút) 39,8 (4,7) 39,7 (4,3) -0,1 (5,3) 11,5 (7,2) 0,923 SỬ DỤNG CHÂN GIẢ Ổ MỎM CỤT OVAN DỌC TRONG 3 THÁNG (n=13) Mạch (lần/phút) 82,8 (6,1) 86,8 (6,5) 4,0 (2,3) 4,9 (2,8) <0,001 Huyết áp tối đa (mmHg) 135,8 (10,0) 142,3 (10,5) 6,5 (3,8) 4,8 (2,8) 0,003 Huyết áp tối thiểu (mmHg) 80,0 (7,9) 84,2 (6,4) 4,2 (4,0) 5,6 (5,5) <0,001 Nhịp thở (lần/phút) 21,6 (1,5) 23,4 (1,7) 1,8 (1,5) 8,4 (7,2) 0,001 Vận tốc (m/phút) 39,6 (5,9) 35,0 (3,6) -4,6 (4,6) 12,8 (7,0) 0,003 Ghi chú: 1) TB: Trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn; 2) Hiệu số khác biệt = Giá trị khi đi chân giả ổ mỏm cụt Ovan ngang - Giá trị khi đi chân giả ổ mỏm cụt Ovan dọc; 3) Tỉ lệ khác biệt = (Giá trị khi đi chân giả ổ mỏm cụt Ovan ngang - Giá trị khi đi chân giả ổ mỏm cụt Ovan dọc) / Giá trị khi đi chân giả ổ mỏm cụt Ovan dọc x100. Bảng 3: Kết quả % áp lực trung bình (TB) đo được khi đứng thăng bằng trên 2 loại chân giả % Áp lực TB đo được OMC ovan dọc % Áp lực TB đo được OMC ovan ngang S1: 9,35 S2: 5,78 S3: 18,68 S4: 0,66 S5: 3,59 S6: 4,53 S7: 42,06 S8: 8,46 S9: 6,89 Độ lệch so với % áp lực TB kỳ vọng (như độ lệch chuẩn): 11,93 S1: 6,41 S2: 5,84 S3: 12,38 S4: 0,16 S5: 3,92 S6: 2,93 S7: 45,86 S8: 19,33 S9: 3,15 Độ lệch so với % áp lực TB kỳ vọng (như độ lệch chuẩn): 13,45 Biểu đồ 1: so sánh sự phân bố áp lực khi đứng thăng bằng trên 2 chân với 2 loại OMC Bảng 4: Kết quả sự phân bố áp lực giữa các vành, các thành khi đứng trên 2 loại OMC OMC ovan dọc OMC ovan ngang Vành trên gần (S1,S3,S5,S8): 41,89% Chu vi giữa MC (S2,S4,S6,S9): 17,86% Tỉ lệ: 2.34 : 1 Thành trước(S3,S4): 19,34%. Thành sau (S1,S2): 15,13%. Tỉ lệ: 1,28: 1 Thành trong (S8,S9): 15,35% Thành ngoài (S5,S6,S7): 50,18%. Tỉ lệ: 3,27: 1 Vành trên gần: 42,05% Chu vi giữa: 12,09%. Tỉ lệ: 3.47 : 1 Thành trước: 12,54%. Thành sau: 12,26%. Tỉ lệ: 1,02: 1 Thành trong: 22,49%. Thành ngoài: 52,72%. Tỉ lệ: 2,34: 1 Biểu đồ 2: So sánh sự phân bố áp lực khi đi chân giả với 2 loại OMC trong toàn một chu kỳ bước đi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 295 Bảng 5: Kết quả % áp lực trung bình (TB) khi đi với 2 loại OMC chân giả trong toàn một chu kỳ bước đi % Áp lực TB đo được OMC ovan dọc % Áp lực TB đo được OMC ovan ngang S1: 11,27 S2: 7,26 S3: 10,57 S4: 2,44 S5: 2,72 S6: 8,39 S7: 42,09 S8: 11,21 S9: 4,07 Độ lệch so với % áp lực TB kỳ vọng (như ĐLC): 11,43 S1 : 7,80 S2: 4,01 S3: 10,23 S4: 1,48 S5: 3,93 S6: 4,26 S7: 48,11 S8: 16,79 S9: 3,39 Độ lệch so với % áp lực TB kỳ vọng(như ĐLC): 13,80 BÀN LUẬN Kết quả về sự tiêu thụ năng lượng Khi đi chân giả OMC ovan ngang các chỉ số mạch, huyết áp, nhịp thở đều tăng cao hơn so với khi đi chân giả OMC ovan dọc (p<0,001). Nhu cầu oxy cấp của cơ thể ở một thời điểm được cơ thể điều hòa thích nghi qua các cơ chế bù trừ như gia tăng sức co bóp của tim, tăng nhịp tim, nhịp mạch, tăng huyết áp, tăng nhịp thở, tăng thải nhiệt. Do đó, có thể sử dụng gián tiếp các chỉ số sinh hiệu này để đánh giá sự tiêu thụ năng lượng của cơ thể mà thực chất là nhu cầu oxy ở một thời điểm nhất định. Như vậy, đi chân giả OMC ovan ngang, người bệnh có nhu cầu O2 hay còn gọi là tiêu thụ năng lượng nhiều hơn khi đi chân giả OMC ovan dọc. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Gailey và cộng sự, khi đi với tốc độ bình thường, chân giả OMC ovan ngang tiêu thụ năng lượng nhiều hơn chân OMC ovan dọc 20% (2). Vận tốc khi đi chân giả OMC ovan ngang chậm hơn so với khi đi chân giả OMC ovan dọc (p<0,001). Nhưng việc chọn lựa tốc độ đi là của người sử dụng chân giả. Mặc dù luôn được nhắc nhở trước khi đi là cố gắng đi cả 2 loại chân với tốc độ như nhau nhưng họ có thể tự lựa chọn một tốc độ đi khác nhau. Khi so sánh giữa nhóm mới đi chân giả ovan dọc và đi chân ovan dọc được 3 tháng đều không có sự khác biệt về tiêu thụ năng lượng giữa 2 nhóm, chỉ có tốc độ đi của nhóm đã sử dụng được 3 tháng là nhanh hơn. Điều này cũng phù hợp vì họ đã có hơn thời gian sử dụng nên đã thích nghi và thành thạo hơn. Kết quả về sự phân bố áp lực của OMC lên MC Khi đứng thăng bằng trên 2 chân Tỉ lệ phân bố áp lực trên OMC ovan dọc trải đều hơn OMC ovan ngang. OMC ovan ngang phân bố áp lực không đều, chổ tập trung cao, chổ có áp lực thấp. Và đây cũng có thể là minh chứng cho sự phân bố áp lực đều hơn của OMC ovan dọc so với OMC ovan ngang. Kết quả tương tự với báo cáo của Lee V S P là áp lực ở xa cao hơn áp lực gần trên thành trước và thành sau(3). Ngoài ra, khi so sánh kết quả độ lệch so với trung bình phần trăm áp lực kỳ vọng khi đứng. Áp lực của OMC ovan ngang có độ lệch nhiều hơn OMC ovan dọc. Đây xem như là độ lệch chuẩn dùng để so sánh độ phân tán giữa 2 tổng thể và qua đó cho biết sự phân phối của một biến trong tổng thể. Điều này chứng tỏ rằng OMC ovan dọc có sự phân bố lực đều hơn OMC ovan ngang. Khi đi với 2 loại OMC Đối với ổn định trước sau, áp lực thành sau của OMC ovan dọc luôn lớn hơn thành trước, sự thay đổi áp lực đều hơn trong suốt chu kỳ đi, biên độ thay đổi không dao động nhiều. Chứng tỏ có sự ôm khít liên tục giữa OMC và MC. Thành trước áp lực nhỏ hơn nhưng sự thay đổi áp lực có biên độ chênh lệch hơn trong chu kỳ đi. Đây có thể do thiết kế của OMC rộng trước để tránh đè ép thần kinh, mạch máu vùng tam giác đùi. Với OMC ovan ngang, thành sau có áp lực tương đương thành trước nhưng biên độ thay đổi áp lực không đều như thành trước trong các thì của chu kỳ đi. Chứng tỏ có sự ôm khít thường xuyên giữa OMC và MC ở thành trước nhưng không có ở thành sau. Đây cũng là phần thiết kế của OMC ovan ngang, đặc biệt là vị trí tam giác đùi ở phía trước (S3) luôn đẩy lực đối kháng ra sau để ngăn sự trượt trước sau và đối lực với Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Ngoại Khoa 296 điểm tì ụ ngồi (S1). Đối với ổn định trong ngoài, thành ngoài của cả 2 có áp lực gần như tương đương nhau, tương tự với thành trong. Áp lực thành trong của cả 2 loại OMC cũng đều nhỏ hơn thành ngoài. Mục đích là ngăn sự dang hông quá mức, nên áp lực thành ngoài phải cao hơn thành trong. Tuy nhiên, áp lực cả 2 thành của OMC ovan ngang có phần cao hơn OMC ovan dọc, điều này có thể hiểu rằng hoặc OMC ovan dọc không đảm bảo sự phân bố lực như ovan ngang hoặc ngược lại OMC ovan ngang có sự tì đè gây ra lực ép quá lớn. Cũng nên nhớ, thiết kế thành bên trong của OMC ovan dọc chỉ ôm lấy các phần mềm và sẽ không xảy ra hiện tượng chèn ép phần mềm bên trong (1) và áp lực giảm khi diện tích chịu lực tăng lên, tức là có nhiều diện tích chịu lực và như vậy có nghĩa là có sự phân bố lực đều hơn(4). Nếu so sánh về tỉ lệ áp lực giữa thành trong và thành ngoài của từng OMC với nhau giữa 2 loại OMC thì cả 2 có vẻ như tương đương nhau và đúng với mẫu dự đoán. Nhưng ở thành trước và thành sau thì ngược lại. Điều này phù hợp với kết luận của Lee V S P và cộng sự(3). Áp lực ở vành trên gần của OMC ovan ngang cao hơn ovan dọc trong toàn bộ chu kỳ đi, cả 2 đều có sự tăng giảm áp lực tương tự nhau. Với vành chu vi giữa, áp lực của OMC ovan ngang lại thấp hơn ovan dọc trong suốt chu kỳ đi. Nhất là ở toàn pha lăng, áp lực ở đây của OMC ovan dọc không những cao hơn OMC ovan ngang mà còn cao gần tương đương với pha trụ của nó. Điều này có thể hiểu rằng, có sự ôm khít và hoặc có sự phân bố áp lực hợp lý hơn giữa MC với OMC ovan dọc trong khi đi, hoặc ngược lại, cũng có thể hiểu rằng, áp lực trong OMC ovan dọc ở vành chu vi giữa quá lớn. Tuy nhiên, xét về tỉ lệ phân bố áp lực ở 2 vành của OMC, nhận thấy OMC ovan dọc có vẻ hài hòa hơn OMC ovan ngang vì các chỉ số phần trăm áp lực chênh lệch nhau ít hơn khi so sánh các chỉ số này với OMC ovan ngang. Và như vậy, có sự ôm khít, sự phân bố trải đều áp lực trong OMC ovan dọc hơn ovan ngang. So sánh kết quả của độ lệch so với trung bình phần trăm áp lực kỳ vọng khi đi, biên độ thay đổi áp lực của 9 cảm biến ở OMC ovan dọc trong một chu kỳ bước đi nhỏ hơn, ít dao động hơn và gần như là ổn định hơn so với OMC ovan ngang. KẾT LUẬN Khi đi chân giả trên gối OMC ovan dọc có sự tiêu thụ năng lượng ít hơn so với khi đi chân giả OMC ovan ngang. Tốc độ khi đi chân giả OMC ovan dọc có nhanh hơn khi đi chân giả OMC ovan ngang. Kết quả đo áp lực bề mặt giữa OMC và MC trong khi đứng yên thăng bằng trên 2 chân và trong khi với 2 loại chân giả, cho thấy rằng, so với OMC ovan ngang, OMC ovan dọc có sự phân bố áp lực trải đều hơn, hợp lý hơn, có sự tiếp xúc nhiều hơn giữa OMC với MC. Vì vậy, OMC ovan dọc tạo tiền đề cho sự ổn định, treo giữ, chịu lực và tạo cảm giác cảm thụ bản thể tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bundesfachschule für Orthopädie-Technik. (2005). Cắt cụt ngang xương đùi và cung cấp chân giả trên gối ổ mỏm cụt ovan dọc (Vũ Xuân Chinh và Phạm Thúy dịch). VIETCOT Hà Nội, tr 7- 91. 2. Gailey, R. S., et al. (1993). "The CAT-CAM socket and quadrilateral socket: a comparison of energy cost during ambulation". Prosthet Orthot Int 17(2): 95-100. 3. Lee V S P, Solomonidis S E, Spence W D (1997), “Stump-socket interface pressure as an aid to socket design in prostheses for trans- femoral amputees- a preliminary study”. In: Procedings of the institution of mechanical Engineers, part H: Jouranl of Engineering in Medicine: pp. 167- 180. 4. Shurr D.G. (2000). Sách hướng dẫn quản lý cung cấp chân giả- thông tin về chân giả cho nhóm PHCN (Phạm Thúy và cộng sự dịch), VIETCOT Hà Nội, tr 24,25,41,76-96,105,139-167. Ngày nhận bài báo: 06/12/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchan_gia_tren_goi_o_mom_cut_dui_ovan_doc_mot_buoc_tien_trong.pdf
Tài liệu liên quan