Tài liệu Chẩn đoán và theo dõi sau điều trị nhiễm helicobacter pylori ở trẻ em bằng xét nghiệm HPSA: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
CHẨN ĐOÁN VÀ THEO DÕI SAU ĐIỀU TRỊ NHIỄM HELICOBACTER PYLORI
Ở TRẺ EM BẰNG XÉT NGHIỆM HPSA
Phạm Thị Ngọc Tuyết*, Nguyễn Đỗ Nguyên**, Võ Thị Diễm Hạnh*, Nguyễn Minh Ngọc*
TÓM TẮT
Mục tiêu So sánh hai xét nghiệm tìm kháng nguyên Helicobacter pylori trong phân (HpSA), một xét
nghiệm không xâm lấn, với nội soi- Clotest, một xét nghiệm xâm lấn, trong chẩn đoán và theo dõi sau
điều trị nhiễm trùng H. pylori ở trẻ em.
Phương pháp Một trăm lẻ một bệnh nhi được xét nghiệm tìm nhiễm trùng H. pylori bằng nội soi-
Clotest và HpSA trước điều trị. Sau khi kết thúc điều trị 2 và 6 tuần, nội soi- Clotest và HpSA được thực
hiện để theo dõi sự thành công của điều trị.
Kết quả Hệ số Kappa giữa hai thử nghiệm Clotest và HpSA là rất thấp ở thời điểm chẩn đoán, nhưng
tăng dần từ 57% (0,57) ở thời đ...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán và theo dõi sau điều trị nhiễm helicobacter pylori ở trẻ em bằng xét nghiệm HPSA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
CHẨN ĐOÁN VÀ THEO DÕI SAU ĐIỀU TRỊ NHIỄM HELICOBACTER PYLORI
Ở TRẺ EM BẰNG XÉT NGHIỆM HPSA
Phạm Thị Ngọc Tuyết*, Nguyễn Đỗ Nguyên**, Võ Thị Diễm Hạnh*, Nguyễn Minh Ngọc*
TÓM TẮT
Mục tiêu So sánh hai xét nghiệm tìm kháng nguyên Helicobacter pylori trong phân (HpSA), một xét
nghiệm không xâm lấn, với nội soi- Clotest, một xét nghiệm xâm lấn, trong chẩn đoán và theo dõi sau
điều trị nhiễm trùng H. pylori ở trẻ em.
Phương pháp Một trăm lẻ một bệnh nhi được xét nghiệm tìm nhiễm trùng H. pylori bằng nội soi-
Clotest và HpSA trước điều trị. Sau khi kết thúc điều trị 2 và 6 tuần, nội soi- Clotest và HpSA được thực
hiện để theo dõi sự thành công của điều trị.
Kết quả Hệ số Kappa giữa hai thử nghiệm Clotest và HpSA là rất thấp ở thời điểm chẩn đoán, nhưng
tăng dần từ 57% (0,57) ở thời điểm 2 tuần, đến 100% ở thời điểm 6 tuần sau điều trị.
Kết luận So với Clotest, thử nghiệm HpSA có độ phù hợp tăng dần, và đặc biệt rất cao, 100%, ở thời
điểm 6 tuần sau điều trị, gợi ý rằng HpSA có thể thay thế Clotest trong theo dõi hiệu quả điều trị đặc hiệu
của nhiễm H. pylori ở trẻ em.
SUMMARY
HPSA IN DIAGNOSING AND MONITORING THE TREATMENT EFFICACY
OF HELICOBACTER PYLORI INFECTION AMONG CHILDREN
Pham Thi Ngoc Tuyet, Nguyen Do Nguyen, Vo Thi Diem Hanh, Nguyen Minh Ngoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 169 – 173
Objective To evaluate the performance of Helicobacter pylori stool antigen test (HpSA), a
noninvasive method, in comparison to endoscopy-Clotest, an invasive one, in detecting H. pylori infection
and monitoring the efficacy of treatment.
Methodology A hundred and one patients were tested for H. pylori infection using the endoscopy-
Clotest and HpSA prior to treatment. Both tests were repeated at an interval of 2 and 6 weeks following
treatment to monitor the efficacy of eradication treatment.
Results The Kappa coefficient between Clotest and HpSA was extremely low at the initial of
diagnosis, but increasing from 57% at 2 weeks, to 100% at 6 weeks after treatment.
Conclusion HpSA has an increasing agreement with Clotest, particularly at 6 weeks after treatment
(100%), and this implies that it could replace Clotest in posttreatment eradication follow-up of H. pylori
infection among children..
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay có ít nhất 50% dân số thế giới nhiễm
Helicobacter pylori (H. pylori), và hầu hết người bị
nhiễm không có biểu hiện. Có mối liên hệ giữa
nhiễm H. pylori mạn, có lẽ lúc tuổi nhỏ, với sự phát
triển ung thư tuyến dạ dày và lymphoma dạ dày(1).
Bệnh cảnh đau thượng vị, khó tiêu, đầy hơi, ói, v.v.,
nói chung là hội chứng dạ dày, ngày càng phổ biến
tại các phòng khám tiêu hoá nhi. Chẩn đoán tầm soát
nhiễm H. pylori đã trở nên thường qui và cần thiết để
đánh giá và theo dõi các bệnh nhân có hội chứng dạ
* Bệnh viện Nhi đồng 2, TP. HCM
Chuyên đề Nhi Khoa 168
** Bộ môn Dịch tễ, Khoa Y tế công cộng, - Đại học Y Dược TPHCM
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
dày(2). Có hai nhóm thử nghiệm chẩn đoán gồm các
phương pháp xâm lấn dựa vào sinh thiết như cấy, mô
học, và thử nghiệm urease nhanh (Clotest); và các
phương pháp không xâm lấn gồm thử nghiệm đo
urea qua hơi thở, và huyết thanh học. Nguyên tắc
chọn lựa một thử nghiệm là dễ thực hiện, rẻ tiền, có
độ chính xác cao, và đặc biệt đối với trẻ em là ít xâm
lấn. Cả hai phương pháp không xâm lấn gồm huyết
thanh học và thử nghiệm đo urea qua hơi thở đều
không hội đủ các yêu cầu trên(3).
Phương pháp thử nghiệm miễn dịch men tìm
kháng nguyên trong phân (H. pylori Stool Antigen:
HpSA) có các đặc điểm sau: 1) là phương pháp không
xâm lấn, nhanh, cho biết trực tiếp nhiễm trùng đang
hoạt động, có thể được dùng để chẩn đoán hoặc theo
dõi điều trị; 2) có giá trị như thử nghiệm đo urea qua
hơi thở để xác định nhiễm trùng đang hoạt động, với
độ nhạy và độ đặc hiệu khoảng 95% so với các
phương pháp xâm lấn; 3) xác định nhiễm trùng đang
hoạt động, nên có thể được dùng để phát hiện các
trường hợp tái nhiễm mà không giảm độ tin cậy; 4)
có thể được dùng trong lúc khởi đầu điều trị tiệt trùng
để xác định tính hiệu quả và khả năng đáp ứng của
bệnh nhân(4). Xét nghiệm đã được FDA công nhận để
theo dõi trong quá trình điều trị. Một kết quả âm tính
trong khi điều trị thì không chắc chắn là đã diệt sạch
được H. pylori, nhưng xét nghiệm lại 4 tuần sau khi
kết thúc điều trị thì cần thiết để kết luận diệt trùng
thành công. Ở nước ta hiện nay, các xét nghiệm xâm
lấn chưa được sử dụng rộng rãi ở trẻ em; trong khi đo
urea qua hơi thở là quá mắc tiền. Đề tài này được thực
hiện nhằm so sánh xét nghiệm HpSA với Clotest qua
nội soi tiêu hóa, đang được sử dụng phổ biến, để phát
hiện sự hiện diện của H. pylori, trong chẩn đoán và
theo dõi sau điều trị nhiễm H. pylori ở trẻ em. Từ đó,
có thể đề xuất sử dụng rộng rãi HpSA ở trẻ em, như
một xét nghiệm thay thế cho nội soi tiêu hoá và
Clotest, nhất là những nơi mà nội soi tiêu hoá còn
hạn chế.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả
Mẫu nghiên cứu
Các bệnh nhi từ 4 tuổi trở lên nhập vào khoa tiêu
hoá 2, bệnh viện Nhi đồng 2, trong khoảng tháng 5,
2003 đến tháng 5, 2004 vì các nguyên nhân sau: 1)
đau bụng không do nguyên nhân ngoại khoa; 2) đau
bụng tái diễn (đau bụng tái đi tái lại ít nhất 3 cơn, kéo
dài ít nhất 3 tháng, có ảnh hưởng đến sinh hoạt bình
thường); 3) hội chứng dạ dày (đau bụng vùng thượng
vị, đau bụng nửa đêm, đau bụng có liên quan bửa ăn,
đầy hơi sau ăn, ợ hơi, khó tiêu...); 4) Ói tái diễn chưa
rõ nguyên nhân; 5) Ói máu nghi do viêm loét dạ dày
(không do trào ngược dạ dày thực quản, dị ứng sữa,
thuốc). Đối tượng được chọn phải có sự đồng ý của
bản thân bệnh nhi và cha mẹ, và trong 2 tuần trước
đó, không uống các thuốc ức chế bơm proton, kháng
sinh, thuốc có chứa Bismuth. Mẫu gồm 101 bệnh nhi
được chọn không xác suất.
Thu thập dữ kiện
Nội soi tiêu hoá trên và Clotest được thực hiện
tại bệnh viện đại học y dược TP. HCM. Clotest được
sử dụng như là tiêu chuẩn để đánh giá độ chính
xác của xét nghiệm mới tìm kháng nguyên trong
phân. Nhiễm trùng H. pylori được định nghiã khi
Clotest dương tính, và ngược lại, khi Clotest âm
tính. Xét nghiệm HpSA trong vòng 48 giờ: mẫu
phân của bệnh nhân được chứa trong một lọ kín và
chuyển đến phòng miễn dịch học của trung tâm
chẩn đoán y khoa Medic. Xét nghiệm phân được
tiến hành bằng cách dùng kit định lượng để tìm
kháng nguyên H. pylori với phương pháp ELISA
(Genesis Diagnostics, UK). Kết quả dương tính và
âm tính được hướng dẩn đọc bởi nhà sản xuất. Nội
soi tiêu hóa trên với Clotest, và xét nghiệm HpSA
được thực hiện vào 3 thời điểm, trước khi điều trị,
2 tuần và 6 tuần sau khi ngưng điều trị.
Bệnh nhân được điều trị theo phác đồ OAC trong
2 tuần, gồm Omeprazole (1mg/kg/ngày, tối đa 20mg,
2 lần/ngày), Amoxicillin (50mg/kg/ngày, tối đa 1g,
2lần/ngày), và Clarithromycin (15mg/kg/ngày, tối đa
500mg, 2 lần/ngày). Chỉ định điều trị khi có viêm hay
loét dạ dày, tá tràng trên đại thể và Clotest dương,
hoặc/và HpSA dương. Không dùng kết hợp thuốc
Chuyên đề Nhi Khoa 169
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
kháng acid, hoặc kháng bài tiết.
Xử lý và phân tích dữ kiện
Dữ kiện được nhập với phần mềm EPI-IFO 6.04d,
và phân tích bằng phần mềm STATA 8.0. Hệ số
Kappa được sử dụng để đo lường tính phù hợp giữa
hai thử nghiệm Clotest và HpSA.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Những đặc tính của mẫu nghiên cứu ( N =
101)
Đặc tính Tần số %
4 – 6 6 5,9
7 – 9 41 40,6
10 – 12 38 37,6
Tuổi
13 – 15 16 15,8
Nam 59 58,4
Giới
Nữ 42 41,6
Tổng 101 100
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng trước và sau điều trị (
N=101)
So với thời điểm điều trị (%) Triệu chứng
Trứớc Kết thúc 2 tuần sau 6 tuần sau
Đau thượng vị 85,1 34,7 21,8 14,9
Đau bụng 61,4 13,9 5 3
Đau nửa đêm 21,8 1 0 0
Đầy hơi 38,6 10,9 5 2
Oùi tái diễn 31,7 2 0 1
Oùi máu 19,8 1 0 0
Biếng ăn 46,5 4 0 0
Bảng 3: Kết quả Clotest và HpSA trước và sau điều trị
Clotest (+) HpSA (+)
Trước điều trị 76,2% (n=101) 75,2% (n=101)
2 tuần sau điều trị 56,4% (n=39) 55,1% (n=49)
6 tuần sau điều trị 62,5% (n=8) 63,6% (n=11)
Đa số bệnh nhi trong nhóm tuổi 7 đến 12 tuổi, và
nam nhiều hơn nữ (Bảng 1). Sau điều trị, tỉ lệ các
biểu lâm sàng đều giảm so với trước điều trị có ý
nghiã thống kê với p < 0,001 (Bảng 2). Tỉ lệ dương
tính của Clotest và HpSA tương đương ở trước và sau
điều trị. Ngoài ra, số lượng bệnh nhi từ chối làm xét
nghiệm theo dõi sau điều trị thì cao, đặc biệt là với
phương pháp nội soi (Bảng 3). Theo Bảng 4, trong
toàn bộ 101 bệnh nhân có hội chứng dạ dày, có 77
trường hợp dương tính với Clotetst, tỉ lệ là 76,2%. Hệ
số Kappa giữa hai thử nghiệm là rất thấp. Vào thời
điểm 2 tuần sau khi ngưng điều trị (Bảng 5), sự phù
hợp giữa hai thử nghiệm là cao hơn, với hệ số Kappa
tính được là 0,57 (p < 0,001). Tuy nhiên, sau 6 tuần
ngưng điều trị, kết quả theo dõi được trên 7 bệnh
nhân cho thấy hệ số Kappa là 100%, với p=0,047.
Bảng 4. Kết quả HpSA so sánh với Clotest trước điều trị
So với thời điểm điều trị
Trước 2 tuần sau 6 tuần sau
Clotest
(+) (-) (+) (-) (+) (-)
HpSA (+) 58 18 18 4 5 0
HpSA (-) 19 6 4 13 0 2
Tổng 77 24 22 17 5 2
BÀN LUẬN
Nhiễm trùng H. pylori là biểu hiện thường gặp ở
bệnh nhân người lớn và trẻ em và có thể là nguyên
nhân của nhiều bệnh lý dạ dày. Với phác đồ OAC, tất
cả các triệu chứng lâm sàng gây khó chịu cho trẻ đều
giảm có ý nghiã thống kê (Bảng 2). Ở người lớn, nội
soi kèm sinh thiết vùng hang vị và thân vị là phương
pháp ban đầu được chọn lựa để chẩn đoán ở các bệnh
nhân khó tiêu. Đo urea qua hơi thở là công cụ được ưa
chuộng để đánh giá điều trị thành công. Đối với bệnh
nhi, phương pháp xâm lấn như nội soi có các bất lợi
nặng nề (nguy cơ của gây mê, sự lo âu, và sợ hãi của
bệnh nhi và cha mẹ). Hơn nữa, một số lớn bệnh nhi
từ chối thực hiện nội soi, nhất là sau khi điều trị.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng bệnh nhân
thực hiện xét nghiệm sau điều trị thì giảm và giảm
đặc biệt ở thời điểm 6 tuần sau khi kết thúc điều trị
cho cả hai xét nghiệm nội soi-Clotest và HpSA. Các
đối tượng đồng ý làm xét nghiệm sau điều trị thường
còn các triệu chứng gây khó chịu như đau bụng, đầy
hơi, khó tiêu, v.v., và điều này có thể giải thích được tỉ
lệ Clotest và HpSA dương tính còn cao sau điều trị
(Bảng 3).
Một xét nghiệm có độ nhạy cao và không xâm lấn
để tìm nhiễm trùng H. pylori luôn được mong muốn
áp dụng ở trẻ em. Phương pháp không xâm lấn đo
urea qua hơi thở có bất lợi là trang thiết bị mắc tiền.
Huyết thanh chẩn đoán là phương pháp không được
tin cậy ở trẻ em để chẩn đoán nhiễm trùng H. pylori
Chuyên đề Nhi Khoa 170
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
cấp tính cũng như đánh giá thành công sau điều trị.
Phản ứng kháng thể miễn dịch còn dương tính nhiều
tháng sau điều trị tiệt trùng thành công, hoặc sau khi
loại bỏ vi trùng tự nhiên(5), vì thế, không giúp ích
trong việc chứng minh hoặc bác bỏ sự thành công
của điều trị tiệt trùng. Tế bào thượng bì dạ dày đổi
mới một lần mỗi một đến ba ngày, và cùng lúc H.
pylori được thải ra trong phân, mà có thể được phát
hiện bởi kháng thể kháng H. pylori ở lớp vỏ
polyclonal. Xét nghiệm miễn dịch men HpSA là
không xâm lấn, không tốn nhiều thời gian thực hiện
(phân tích mất khoảng 70 phút), và rẻ tiền hơn
phương pháp đo urea qua hơi thở cũng như nội soi-
Clotest(6). Kỹ thuật này có thể được thực hiện dễ dàng
ở bất kỳ phòng xét nghiệm nào. Mẫu phân cũng dễ
thu thập, ngay cả ở trẻ sơ sinh. HpSA đã được đánh
giá bởi nhiều nghiên cứu với độ nhạy và độ đặc hiệu
là 90%-98%(7). Tuy nhiên, Elitsur ghi nhận rằng
HpSA có độ nhạy thấp ở Mỹ và cho đến nay biểu hiện
mô học vẫn là tiêu chuẩn vàng không thể thay thế
được cho nhiễm trùng H. pylori ở trẻ em(8,10).
Theo bảng 4, ngay tại thời điểm đầu chẩn đoán,
thì kết quả giữa Clotest và HpSA phù hợp nhau rất
thấp. Tuy nhiên, tính phù hợp giữa hai thử nghiệm
này tăng dần ở thời điểm 2 và 6 tuần sau khi ngưng
điều trị. Một nghiên cứu tại Peru, so sánh thử nghiệm
tìm HpSA trong phân với thử nghiệm đo urea qua hơi
thở, cho thấy hệ số Kappa giảm dần, có ý nghĩa thống
kê, từ 0,58 ngay thời điểm chẩn đoán, đến 0,04 sau 9
tháng(12). Nghiên cứu này được thực hiện ở những
bệnh nhân từ 18 đến 55 tuổi, với cỡ mẫu khá lớn. Các
tác giả cho rằng HpSA có độ nhạy cao trong chẩn
đoán nhiễm H. pylori, nhưng tính giá trị là kém, và
có độ nhạy thấp trong theo dõi sau điều trị. Một điểm
hạn chế trong nghiên cứu là tiêu chí áp dụng của thử
nghiệm hơi thở là khác nhau ở thời điểm chẩn đoán
và những thời điểm theo dõi sau điều trị. Một nghiên
cứu khác, với mục tiêu tương tự(13), cho thấy độ nhạy
và độ đặc hiệu của HpSA là 94% và 97%, so với 94%
và 100%, tương ứng của thử nghiệm hơi thở, vào
ngày thứ 35 sau điều trị. Ở nghiên cứu của Arens,
nhận thấy HpSA có độ chính xác cao trong phát hiện
H. pylori ở bệnh nhân chưa điều trị, nhưng thất bại
khi dùng để theo dõi hữu hiệu của điều trị(9), tuy
nhiên dân số mẫu ở nghiên cứu này là người lớn.
Ngược lại, theo các nhà nghiên cứu Đức, HpSA là
thích hợp để theo dõi sự thành công của điều trị diệt
H. pylori ở trẻ em(11).
Trong những nghiên cứu xác định tính giá trị của
HpSA, tất cả các tác giả đều sử dụng chuẩn vàng là
cấy vi trùng, hoặc thử nghiệm hơi thở. Hai thử
nghiệm này là không khả thi trong nghiên cứu của
chúng tôi, vì đắt tiền, do đó, Clotest đã được sử dụng
như một công cụ để so sánh với HpSA trong quá
trình điều trị hội chứng dạ dày do nhiễm H. pylori, từ
lúc chẩn đoán đến các thời điểm theo dõi sau điều trị.
Nhưng Clotest không được sử dụng như một chuẩn
vàng, do đó, những chỉ tố về tính giá trị của HpSA
không được tính. Tuy nhiên, tính giá trị cao của
HpSA trong chẩn đoán nhiễm H. pylori ở dạ dày đã
được xác nhận qua nhiều nghiên cứu ở cả người lớn
lẫn trẻ em(3,11,7). Nghiên cứu của chúng tôi bị hạn chế
khá lớn do mất mẫu trong quá trình theo dõi, nhưng
với hệ số Kappa tăng dần ở thời điểm 2, và 6 tuần sau
điều trị, kết quả nghiên cứu gợi ý rằng thử nghiệm
HpSA có thể được sử dụng thay thế Clotest trong
đánh giá hiệu quả điều trị diệt H. pylori ở trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huang J-Q, Sridhars CY, Hunt RH. Meta-anlysis of the
relationship between Helicobacter pylori
seropositivityand gastric cancer. Gastroenterology.
1998;114:1169-79
2. Dohil R, Hassal E, et al. Gatritis and gastropathy of
childhood. J Pediatr Gastroenterol Nutr. 1999;29:378-94
3. Braden B, Posselt HG, et al. New immunoassay in stool
provides an acurate noninvasive diagnostic method for
Helicobacter pylori screening in children. Pediatrics.
2000; 106: 115-7
4. Vaira D, Malfertheiner P, Megraud F, et al, and
European Helicobacter pylori HpSA Study Group.
Diagnosis of Helicobacter pylori infection using anovel,
non-invasive antigen based assay in a European
multicentre study. Lancet 1999;354: 30-33
5. Cutler AF, Prasad VM. Long-term follow-up of
Helicobacter pylori serology after successful eradication.
Am J Gastrenterol. 1996;91:85-88
6. Tanaka A, Watanabe K, et al. Evaluation of Helicobacter
pylori stool antigen test before and after eradication
therapy. J Gastroenterol Hepatol 2003;18:732-738
7. Monterio L, de Mascarel A, et al. Diagnosis of
Helicobacter pylori infection: noninvasive methods
compared to to invasive methods and evaluation of two
new tests. Am J gastrenterol 2001;96:353-358
Chuyên đề Nhi Khoa 171
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
8. Elitsur Y, Lawrence Z, Hill I. Stool antigen test for
diagnosis of Helicobacter pylori infection in children with
symptomatic disease: a prospective study. J Pediatr
Gastroenterol Nutr. 2004 Jul;39(1):64-7
9. Arens LA, van Zwet A, et al. The accuracy of the
Helicobacter pylori Stool Antigen test (HpSA test) in
diagnosing Helicobacter pylori in treated and untreated
patients. Eur J of Gastroenterol & Hepato. 2001;13: 383-
386
10. Focht DR. Stool antigen test for Helicobacter pylori
specific but insensitive in children. American Academy of
Pediatrics. 2004;12:36-37
11. Konstantopoulos N, Russmann H, et al. Evaluation of the
Helicobacter pylori stool antigen test (HpSA) for
detection of Helicobacter pylori infection in children. Am
J Gastroenterol. 2001 Mar;96(3):677-83
12. Roth D, Taylor D, et al. Posttreatment follow-up of
Helicobacter pylori infection using a stool antigen
immunoassay. Clinical and Diagnostic Laboratory
Immunology, 2001 July;8(4):718-723
13. Vaira D, Vakil N, et al. Stool antigen test for detection of
Helicobacter pylori after eradication therapy. Annal of
Internal Medicine. 2002;136(4):280-287.
Chuyên đề Nhi Khoa 172
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chan_doan_va_theo_doi_sau_dieu_tri_nhiem_helicobacter_pylori.pdf