Tài liệu Chẩn đoán tế bào học chải phế quản trong ung thư phế quản – phổi: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 1
CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC CHẢI PHẾ QUẢN
TRONG UNG THƯ PHẾ QUẢN – PHỔI
Nguyễn Sơn Lam*, Nguyễn Trần Phùng*, Trần Ngọc Thạch*
TÓM TẮT
Từ hơn hai năm nay, Trung Tâm Lao và Bệnh Phổi Phạm Ngọc Thạch đã bắt đầu sử dụng một trong
những kỹ thuật để chẩn đoán ung thư phế quản – phổi: chẩn đoán tế bào học chải phế quản qua nội soi phế
quản.
Kết quả của 278 trường hợp trong nghiên cứu này đã cho thấy đây là một kỹ thuật hữu dụng – Với độ
nhạy: 87,4%; độ đặc hiệu: 92,6%; giá trị tiên lượng dương: 95,8%; giá trị tiên lượng âm: 79,3% và độ chính
xác 89,2%, đặc biệt là các khối u ngoại biên mà khi nội soi phế quản không quan sát được hoặc không thực
hiện sinh thiết được. Đây cũng là một kỹ thuật ít có biến chứng và thực hiện dễ dàng.
* Trung Ta...
12 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán tế bào học chải phế quản trong ung thư phế quản – phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 1
CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC CHẢI PHẾ QUẢN
TRONG UNG THƯ PHẾ QUẢN – PHỔI
Nguyễn Sơn Lam*, Nguyễn Trần Phùng*, Trần Ngọc Thạch*
TÓM TẮT
Từ hơn hai năm nay, Trung Tâm Lao và Bệnh Phổi Phạm Ngọc Thạch đã bắt đầu sử dụng một trong
những kỹ thuật để chẩn đoán ung thư phế quản – phổi: chẩn đoán tế bào học chải phế quản qua nội soi phế
quản.
Kết quả của 278 trường hợp trong nghiên cứu này đã cho thấy đây là một kỹ thuật hữu dụng – Với độ
nhạy: 87,4%; độ đặc hiệu: 92,6%; giá trị tiên lượng dương: 95,8%; giá trị tiên lượng âm: 79,3% và độ chính
xác 89,2%, đặc biệt là các khối u ngoại biên mà khi nội soi phế quản không quan sát được hoặc không thực
hiện sinh thiết được. Đây cũng là một kỹ thuật ít có biến chứng và thực hiện dễ dàng.
* Trung Tâm Lao và Bệnh Phổi Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 2
SUMMARY
BRONCHIAL BRUSHING CYTOLOGY IN BRONCHO-PULMONARY CANCER
Nguyễn Sơn Lam, Nguyễn Trần Phùng, Trần Ngọc Thạch * Y học TP. Ho Chi Minh * Special issue of Pathology -
Vol. 5 - Supplement of No 4 – 2001: 36-47
For more than 2 years, we have been applying at Pham Ngoc Thach Tuberculosis and Lung Diseases
Center one of the techniques to diagnose broncho-pulmonary cancer: Bronchoscopic Bronchial Brushing
Cytology. The results of this study comprising 278 cases prove that this technique is quite applicable –
Sensitivity: 87.4%; Specificity: 92.6%; Positive Predictive Value: 95.8%; Negative Predictive Value: 79.3%
and Accuracy Index: 89.2%, especially in peripheral tumors that cannot be seen or biopsied during the
fiberbronchoscopies. The complications are rare and the technique is easy to carry out.
SƠ LƯỢC VỀ NỘI SOI PHẾ QUẢN
Lịch sử nội soi phế quản
Nội soi phế quản có một lịch sử từ hơn 100 năm
qua, phương pháp này đã góp phần đáng kể trong
phát hiện sớm và xử trí kịp thời nhiều tổn thương
của cây khí – phế quản. Ngày nay, nội soi phế
quản đã có những cải tiến và tiến bộ rất nhiều để
đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho chẩn đoán và
điều trị các bệnh lý về phổi. Lịch sử của nội soi phế
quản được đánh dấu bởi các cột mốc như sau:
Năm 1854, Joseph P. O’ Dwyer (1841-1894,
người Mỹ): là một thầy thuốc nổi tiếng về thủ thuật
đặt nội khí quản ở bệnh nhân bị bệnh bạch hầu, đã
chế tạo ra một ống soi bằng kim loại để gắp các dị
vật ở khí quản và phế quản. Ông là một thành viên
quan trọng trong sự phát triển của ngành phế quản
học.
Năm 1895, Kirstein (người Đức): đã khảo sát
trực tiếp bên trong thanh quản bằng ống soi O’
Dwyer có thêm bóng đèn điện tử lăng kính của
Casper qua việc đè lưỡi và nắp thanh môn. Ông là
người đã phát minh ra ống soi thanh quản đầu tiên.
Năm 1898, Gustav Killian (người Đức): là một
thầy thuốc được coi như là cha đẻ của kỹ thuật nội
soi phế quản nhờ đã khảo sát được đoạn dưới khí
quản và phế quản gốc bằng ống soi thanh quản của
Kirstein. Ông đã thuyết phục được người gác cổng
bệnh viện đã về hưu tại Freiburg, Đức, để ông
thám sát phế quản bằng ống soi cứng với ống soi
thanh quản Kirstein, tuy nhiên vì phế quản quá
cứng nên ông không thể khảo sát kỹ lưỡng hơn
nhưng cũng không gây ra biến chứng chảy máu.
Cũng trong năm 1898, một người nông dân 63 tuổi
ở Black Forest bị hóc phải một mảnh xương heo và
bị ho, khó thở dữ dội kèm khạc ra máu. Ông Killian
đã dùng ống soi thanh quản Kirstein để soi phế
quản và thấy có một vật lạ cứng khoảng 3,5 cm
nằm ở phế quản gốc bên phải. Đầu tiên ông đề
nghị mở khí quản để lấy dị vật này ra nhưng không
được cho phép vì ông không phải là thầy thuốc
ngoại khoa. Sau buổi hội chẩn, các thầy thuốc
quyết định không mổ và ông Killian đã dùng ống
soi thực quản Mikulicz – Rosenheim để lấy dị vật
ra sau khi đã gây tê bằng cocaine. Cuối năm 1898,
trong Hội nghị các nhà thanh quản học tại Tây
Nam nước Đức ở Heidelberg và Killian đã báo cáo
3 trường hợp gắp thành công dị vật ở cây khí – phế
quản. Từ các sự kiện trên đã mở ra một kỷ nguyên
về khảo sát cây khí – phế quản bằng nội soi.
Năm 1902, Max Einhorn (1865 – 1928,người
Mỹ) đã phát triển ống soi thực quản với đèn soi ở
đầu ống soi.
Năm 1904, Chevalier Jackson (1865 – 1958,
nguời Mỹ): đã chế tạo ra ống soi phế quản có chiếu
sáng ở đầu ống soi nhưng chưa có hệ thống hút rửa.
Ông đã là người phổ biến rộng rãi cách soi thanh
quản và phế quản theo kiểu Jackson va ông đã
thành lập ra Khoa Nội soi phế quản – thực quản nơi
sản sinh ra các học trò nổi tiếng như L.H. Clerf, G.
Tucker, Joe Ono và P.H. Holinger.
Năm 1908, Inokichi Kubo (người Nhật) đã trở
về Nhật vào năm 1907 với các kỹ thuật mà ông học
được từ Bác sĩ Gustav Killian ở Đức đã tiến hành
thực hiện kỹ thuật gắp dị vật phế quản tại trường
đại học Kyushu. Năm 1934, Joe Ono: đã theo học
khoá soi phế quản với Bác sĩ Jackson vào năm
1933 và một năm sau ông trở về Nhật ứng dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 3
vào lâm sàng, sau đó ông thành lập Học Viện Soi
Thực Quản – Phế Quản tại Nhật.
Năm 1962, ba bác sĩ người Nhật Shigeto Ikeda,
Shohei Horie và Kenichi Takino bằng ứng dụng
của phát triển sợi thủy tinh quang học chế tạo ra
thấu kính soi phế quản với các sợi thủy tinh dẫn
truyền ánh sáng. Hệ thống này đã giúp tạo cho
nhiều thuận lợi khi soi phế quản: độ chiếu sáng tốt
hơn, thị trường quan sát rộng hơn và giảm được
đường kính của ống soi. Nhờ vậy các ông đã có thể
quan sát tới tận các phế quản phân thùy của thùy
giữa và thùy dưới.
Năm 1966, Shigeto Ikeda chế tạo ra ống soi
phế quản mềm và ông đã báo cáo tại Hội nghị
Bệnh lồng ngực tại Copenhagen. Từ đây một kỹ
thuật mới về quan sát bệnh lý cây phế quản được
ứng dụng rông rãi và dần dần ống soi phế quản
mềm đã thay thế cho ống soi cứng. Năm 1969, Bác
sĩ Ikeda đã đến giới thiệu rộng rãi kỹ thuật nội soi
phế quản bằng ống soi mềm tại các bệnh viện tại
Mỹ như Viện Ung Thư, Bệnh Viện John Hopkins...
Từ đó nội soi phế quản bằng ống soi mềm đã trở
thành một kỹ thuật chuẩn dùng cho việc khảo sát
bệnh lý của cây phế quản phổi.
Năm 1970, bác sĩ Ryosuke Ono đã thực hiện kỹ
thuật sinh thiết phổi xuyên thành phế quản bằng
kìm bấm có hai khớp nối để chẩn đoán các ung thư
ngoại vi phổi có kích thước nhỏ khoảng 2 cm.
Năm 1971, hai ông Shigeto Ikeda và Ryosuke
Ono đã sử dụng camera ghi lại hình ảnh màu khi
soi phế quản.
Năm 1984, cũng hai bác sĩ người Nhật này đã
dùng camera với kỹ thuật số ghi lại hình ảnh soi
phế quản và được giải mã thông qua một hệ thống
điện toán. Điều này giúp cho thầy thuốc quan sát
kỹ hơn các biến đổi của niêm mạc phế quản.
Từ đó đến nay đã có nhiều thành tựu khoa học
được ứng dụng cho kỹ thuật soi phế quản với ống
soi ngày càng nhỏ hơn, các bộ nguồn sáng tốt hơn
(như bộ cảm ứng tích điện nhân đôi: Charge
Coupled Device Sensor), kỹ thuật nội soi phế quản
truyền hình (Videobronchoscopy)... đã giúp ích rất
nhiều cho các bác sĩ chuyên khoa bệnh phổi.
Một số kỹ thuật sử dụng trong nội soi phế quản
Trong chẩn đoán: sinh thiết niêm mạc phế
quản, sinh thiết phổi xuyên thành phế quản, rửa
phế quản – phế nang, chải phế quản, chọc hút
xuyên thành phế quản...
Trong điều trị: lấy dị vật khí quản – phế quản,
điều tri bằng laser, bằng liệu pháp lạnh, đốt điện ...
Giới thiệu về phương pháp chải phế quản
Một số tổn thương phổi, đặc biệt là những tổn
thương ở ngoại vi phổi hoặc ở vùng thùy trên phổi
đôi khi tạo khó khăn cho các thầy thuốc làm nội soi
phế quản, vì không thể với tới được các tổn thương
này để sinh thiết đem xét nghiệm về tổ chức học.
Phương pháp chải phế quản để chẩn đoán tế bào
học là một trong những kỹ thuật nhằm giải quyết
những trường hợp khó khăn này. Đầu tiên vào
những năm 70 của thế kỷ này, người ta chỉ dùng để
chẩn đoán các tổn thương ác tính xâm lấn trong
lòng phế quản, sau đó nhờ các tiến bộ về tế bào
học, hoá miễn dịch... đã có nhiều công trình báo
cáo về việc ứng dụng chải phế quản để chẩn đoán
các bệnh lý không phải ác tính ở phổi như: lao,
nấm...
Tại Việt Nam đã có vài công trình nghiên cứu
về kỹ thuật chải phế quản trong chẩn đoán các
bệnh lý về phổi. Riêng tại TT. Phạm Ngọc Thạch
do nhiều yếu tố như: trang thiết bị chưa đầy đủ,
kinh nghiệm chẩn đoán tế bào học chưa nhiều...
nên kỹ thuật này chưa được áp dụng trong việc
chẩn đoán các bệnh lý về phổi, đặc biệt là các ung
thư phổi nguyên phát.
PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân nhập viện vào khu C –
TT. Phạm Ngọc Thạch có chỉ định soi phế quản và
có tổn thương phổi – phế quản nghi ung thư mà nội
soi khó quan sát, không thấy được hoặc việc sinh
thiết qua nội soi gặp nhiều trở ngại (không đưa kìm
sinh thiết tới được)
Chống chỉ định
Hầu như không có chống chỉ định vì khi đã thực
hiện được soi phế quản thì đều có thể thực hiện
được chải phế quản
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 4
Chống chỉ định nếu có là của soi phế quản chứ
không phải của riêng kỹ thuật chải phế quản.
Thời gian thực hiện
Trong vòng 1 năm từ tháng 06/ 1999 đến 06/
2000.
Kỹ thuật thực hiện
Kỹ thuật làm rất đơn giản: bước đầu thực hiện
và chuẩn bị bệnh nhân cũng giống như các bước
tiến hành nội soi phế quản thông thường. Khâu
quan trọng nhất của bác sĩ nội soi là định vị cho
được nhánh phế quản nghi ngờ sẽ có tổn thương
trong sâu và thực hiện kỹ thuật chải (bằng phim X
quang thẳng và nghiêng hoặc phim CT-scan): dùng
một dụng cụ ở đầu có gắn một bàn chải nhỏ luồn
vào trong lòng nhánh phế quản đã định vị và cọ xát
tới lui trên bề mặt niêm mạc, sau đó rút ra, phết
mẫu bệnh phẩm lên lame kính để đọc tế bào học.
Lặp lại thủ thuật khoảng từ 2 - 4 lần để có được 2 -
4 mẫu lame cho mỗi trường hợp.
Phương pháp nhuộm
Lame kính sau khi đã được phết đều tế bào sẽ
được nhuộm ngay bằng phương pháp nhuộm Liu và
Papanicolaou. Phương pháp nhuộm Liu được thực
hiện qua 2 bước như sau: đầu tiên nhỏ dung dịch A
lên trên bệnh phẩm để khoảng từ 30 – 50 giây sau
đó nhỏ thêm dung dịch B, nghiêng lame kính để
trộn đều hai dung dịch, để khoảng từ 60 giây đến
90 giây và rửa nước. Khi lame kính khô quan sát
trên kính hiển vi để chẩn đoán tế bào . Phương
pháp nhuộm Papanicolaou được thực hiện ngay sau
đó để phối hợp cho ra kết quả chẩn đoán tế bào học
sau cùng.
Đọc kết quả
Kết quả tế bào học sẽ do hai bác sĩ của Khoa
Giải Phẫu Bệnh đọc độc lập với nhau và chỉ khi kết
quả trùng hợp với nhau mới chọn vào số ca nghiên
cứu.
Kết quả tế bào học sẽ được so sánh với kết
quả sinh thiết đi kèm gồm có: sinh thiết niêm mạc
phế quản, sinh thiết xuyên thành phế quản, sinh
thiết phổi xuyên thành ngực, sinh thiết màng phổi
mù và qua nội soi màng phổi, sinh thiết hạch, sinh
thiết u di căn thành ngực, phẫu thuật cắt bỏ thùy
phổi.
Nếu trường hợp nào không có kết quả chẩn
đoán mô học đi kèm thì không được đưa vào
nghiên cứu này.
Nếu trường hợp tế bào học chẩn đoán lành tính
sẽ được so sánh với kết quả định bệnh dựa trên các
kết quả xét nghiệm về vi trùng học, sinh học ngoài
kết quả chẩn đoán mô học.
Xử lý số liệu
Tổng kết các số liệu: với các số liệu quan
trọng: số dương tính thật, số dương tính giả, số âm
tính thật, số âm tính giả.
Từ các số liệu trên tính toán ra các chỉ số: độ
nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên lượng dương, giá trị
tiên lượng âm và độ chính xác của kỹ thuật.
Tổng kết các yếu tố có liên quan đến kỹ thuật
chải phế quản:
- Vị trí của các nhánh phế quản đã thực hiện
chải phế quản.
- Vị trí của các khối u.
- Biến chứng gặp phải khi thực hiện chải phế
quản.
- Số lần thực hiện chải phế quản.
- Liên quan giữa tỉ lệ các type mô học của chẩn
đoán tế bào học với chẩn đoán mô học và sự phù
hợp của nó.
Qua các số liệu thu được đưa ra các phân
tích, đánh giá và kết luận về kỹ thuật chải phế
quản chẩn đoán tế bào học trong ung thư phổi.
Thiết lập chẩn đoán sau cùng
Tiêu chuẩn chẩn đoán ác tính: có bằng chứng
của chẩn đoán mô học là ác tính.
Tiêu chuẩn chẩn đoán lành tính: có bằng chứng
xác định về chẩn đoán mô học là lành tính, có các
xét nghiệm về vi sinh, hoặc diễn tiến bệnh lành
tính: điều trị đặc hiệu bằng thuốc không phải ung
thư tình trạng bệnh cải thiện tố, tổn thương phổi
giảm trên phim X quang.
Các trường hợp ác tính sẽ được coi là dương
tính và các trường hợp lành tính sẽ được coi là âm
tính.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 5
HÌNH ẢNH TẾ BÀO HỌC CHẢI PHẾ
QUẢN
Tế bào lành tính
Tế bào biểu mô gai (nguồn gốc từ đường hô hấp trên)
Có ba loại tế bào gai từ đường hô hấp trên
trong bệnh phẩm:
(1) Tế bào bề mặt (Lớp trên cùng: Superficial
cells): Tế bào lớn mỏng, đa cực, trong suốt, bắt
màu đỏ (eosinophilic), nhân teo (pyknotic).
(2) Tế bào lớp giữa (Intermediate cells): xuất
phát từ lớp giữa (lớp trung gian) của biểu mô gai có
kích thước tương tự tế bào bề mặt, đa diện bào
tương bắt màu đỏ hoặc xanh, nhân hình tú (bầu
dục). Tế bào trung gian ưa cosmophit chiếm phần
lớn tế bào trong mẫu đàm.
(3) Tế bào cận đáy (Parabasal cells): xuất phát
từ lớp cận đáy của biểu mô, bào tương đặc, ranh
giới rõ rệt, ăn màu xanh tím. Nhân tương tự như tế
bào lớp giữa. Tế bào cận đáy ít khi thấy trong các
mẫu bệnh phẩm của phổi.
Tế bào biểu mô hô hấp (respiratory epithelial cells)
Có ba loại biểu mô hô hấp:
(1) Tế bào trụ cao có lông chuyển (High
Columnar Ciliated Cells): Có chiều dài thay đổi, có
một đầu rộng phẳng và đầu tận cùng(end plate-
terminal plate) có màng tế bào dày với nhiều lông
chuyển. Bào tương đồng nhất màu hơi xám xanh.
Nhân nằm giữa, hình bầu dục hoặc tròn có những
đám chất nhiễm sắc (chromatin) và tiểu nhân đôi
khi rất rõ và lớn; hình ảnh tế bào nhiều nhân rất ít
khi gặp; Các tế bào trụ này sắp xếp rời rạc hay
thành đám, thành dải nhỏ. Tế bào trụ nhiều nhân ít
gặp và khó tìm thấy vì các tế bào chồng chéo lên
nhau, nhân lại nhuộm đậm màu. Các lông chuyển
thường rất khó nhìn thấy; khi đó cần nhận biết rằng
các dấu hiệu như sau:
** Tế bào hình trụ, khối hoặc ba cạnh
** Đầu tận cùng phẳng
** Còn lại dấu vết lông chuyển ở một góc nào
đó của tế bào .
Cũng nhờ vào dấu hiệu này xác định chắc chắn
tế bào có nguồn gốc biểu mô lành tính. Đôi khi
thấy được dạng tế bào có hai đầu: một đầu phẳng
và một đầu dạng mái vòm. Nhân bất thường là loại
nhân lớn tăng sắc, ít khi có dạng chất nhiễm sắc
thô.
(2) Tế bào đài (Goblet Cells): Cũng bong tróc
ra từ biểu mô bề mặt. Chúng có kích thước tương tự
như tế bào trụ nhưng không có lông chuyển. Bào
tương bắt màu hơi xanh tím, thường có chứa các
không bào chứa nhầy, nhân dài có dạng ba cạnh
hoặc sắc gọn gàng. Khi bào tương chứa ít hoặc
không chứa chất nhầy, tế bào đài có dạng như các
túi giấy nhăn nheo (rumpled paper bag).
(3) Các tế bào lớp mầm biểu mô (Cells of the
Germinative Layer of The Epithelium): Gồm các
tế bào đáy, tế bào dự trữ, thường loại tế bào này
hiếm thấy trong các chất tiết. Chúng thường nhỏ,
tròn, bầu dục hoặc đa diện; bào tương màu xanh
tím, có hạt lấm tấm; nhân tròn hoặc bầu dục hoặc
dạng túi.
Tế bào gai chuyển sản (metaplastic squamous cells)
Tế bào gai chuyển sản lớn hơn tế bào cận đáy
nhưng nhỏ hơn tế bào gai niêm mạc miệng. Chúng
có dạng hình khối, đa diện hoặc hình cầu. Bào
tương thường ăn màu đỏ hoặc có khi màu tím. Nó
không mỏng như tế bào gai niêm mạc miệng mà
cũng không dày như tế bào gai sừng hóa. Nhân tế
bào gai chuyển sản tròn, đều đặn chất nhiễm sắc
thưa; kích thước lớn hơn hay bằng nhân tế bào gai
niêm mạc miệng. Tế bào gai chuyển sản dễ nhận
biết khi nằm thành đám, đặc biệt khi có lẫn tế bào
trụ cao tạo hình ảnh giống như lót trên bề mặt của
phế quản. Sự tập trung của các tế bào gai chuyển
sản phản ánh tính chất kết dính của chúng. Tế bào
gai chuyển sản cũng có thể tạo ra các nhân không
điển hình. Khi chuyển gai không điển hình nhẹ và
vừa, nhân có dạng nhân lớn, tăng sắc, đôi khi có
thể thay đổi hình dạng của nhân. Chuyển sản gai
không điển hình nặng có hình ảnh tăng sắc nhiều ở
nhân, chất nhiễm sắc vón cục, kích thước và hình
dạng nhân đều thay đổi.
Hầu hết các tế bào gai chuyển sản có bào
tương bắt màu acid (đỏ). Nếu có màu cam là đã
sừng hoá thì không phải tế bào gai chuyển sản.
Ngoài ra, cũng có sự tương xứng trên mô học có
chuyển sản gai niêm mạc phế quản và trên tế bào
học có tế bào gai chuyển sản trong mẩu dịch. Tế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 6
bào gai chuyển sản cũng có thể là kết quả của một
carcinome dạng thượng bì tại chỗ (Epidermoid
Carcinoma In Situ).
Thực bào ở phổi (pulmonary macrophages)
Thực bào ở phổi (thực bào phế nang, tế bào
bụi: Alveolar Macrophage, Dust Cell) là các mô
bào lớn xuất nguồn từ phế nang nằm sâu trong
phổi. Khi có các tế bào này chứng tỏ mẩy bệnh
phẩm là chất tiết từ sâu ở đường hô hấp dưới.
Thực bào phổi có hình tròn, bầu dục, thường
lớn hơn mô bào bình thường, đường kính khoảng
10-30 micromet, bào tương rõ bắt màu xanh tím, đỏ
hoặc hai màu; bào tương thường chứa các tiểu thể
màu xám, nâu hoặc đen; đôi khi thấy rõ được các
không bào đặc biệt khi không có các tiểu thể trên.
Đôi khi bào tương có chứa các dị vật màu nâu hoặc
đen, có khi chúng che lấp cả nhân tế bào . Nhân
của đại thực bào phế nang có kích thước cỡ tế bào
gai niêm mạc miệng; chất nhiễm sắc dạng túi hoặc
dạng mảnh; hầu hết các nhân có dạng tròn hoặc có
hình đĩa. Thực bào phế nang luôn có một nhân,
nhưng cũng có thể có nhiều nhân.
Tế bào viêm (inflammatory cells)
Các tế bào viêm đều có trong các bệnh phẩm ở
phổi đặc biệt là đàm. Số lượng và hình thái rất thay
đổi, thường chúng không cung cấp các thông tin
chẩn đoán gì đặc biệt. Tuy nhiên, trong các mẫu có
mủ thường thấy trong viêm phổi nặng; nhiều
eosinophils trong bệnh hen phế hoặc viêm phế
quản dạng hen; hay các tế bào epitheloids thường
đi với các bệnh lý mô hạt viêm như lao...
(1) Mô bào nhỏ (Small Histiocytes): Có thể
thấy xuất hiện trong các mẫu đàm hoặc chất tiết
phế quản. Các tế bào này tròn hoặc hơi méo; nhân
có hình tròn, bầu dục nằm lệch về một phía ăn màu
xanh tím hoặc xám. Trong đám mô bào nhỏ thường
có một hoặc nhiều tế bào có nhân hạt đậu, đây là
dấu hiệu quan trọng xác định tế bào này. Bào
tương các tế bào này bắt màu xanh tím có thể có
các không bào hoặc tiểu thể.
(2) Mô bào đa nhân khổng lồ (Giant
Multinucleated Histiocytes): Đây là loại đại bào ăn
dị vật với kích thước lớn gấp 2-10 lần mô bào nhỏ.
Nhân hình tròn, chất nhiễm sắc thô phân bố rải rác
hoặc tập trung lại. Bào tương có màu xanh tím hoặc
hai màu, giới hạn của tế bào rõ ràng.
(3) Tế bào dạng biểu mô (Epitheloid Cells):
Đây là loại thực bào đơn nhân tìm thấy quanh các ổ
hoại tử lao hay các mô hạt viêm đặc hiệu khác. Các
tế bào này hơi giống với tế bào biểu mô:có dạnh
bầu dục hay thon dài, bào tương màu hồng, giới
hạn tế bào không rõ. Trong mẫu bệnh phẩm tế bào
học, thường có dạnh thon dài, hình dạng có khi
tương tự như mô bào nhỏ, nằm thành đám chung
với các mô bào nhỏ. Dạng trung gian giữa thon dài
và bầu dục ít gặp hơn. Bào tương các tế bào này có
chứa không bào bắt màu xanh tím hay hai màu.
Nhân tròn hay dài và thường có nếp gấp khúc, có
khi có dạng đầu bằng, dạng hạt đậu, dạng thận hay
dạng quả lê. Đại bào Langerhans là tập hợp các tế
bào này với vị trí các nhân nằm ở ngoại vi, thường
có dạng thon dài nằm gối lên nhau tạo dạng móng
ngựa.
Các loại tế bào ác tính
Carcinôm tế bào gai (squamous cell carcinoma)
Các bướu loại này có đặc điểm tạo chất sừng
hoặc cầu liên bào . Mức độ trưởng thành của các tế
bào gai thay đổi theo số lượng chất sừng sinh ra và
các tế bào tạo sừng. Nhờ đó nó được phân chia ra
biệt hóa cao, biệt hóa vừa và kém biệt hóa.
Carcinôm tế bào gai thường được phát hiện vào
giai đoạn đã xâm lấn, ít khi phát hiện được vào giai
đoạn tại chỗ.
* Carcinôm tế bào gai tại chỗ (Insitu Squamous
Cell Carcinoma):
Đây là giai đoạn rất sớm của một ung thư phế
quản có thể chẩn đoán được lấy tế bào học qua ngã
soi phế quản. Khi đó X quang không có triệu chứng
gì cả, các triệu chứng lâm sàng thì rất nghèo nàn.
Về mặt mô học carcinôm tế bào gai tại chỗ giới
hạn ở lớp biểu mô bề mặt và ở các tuyến nhầy. Có
khi có những biến đổi ngay cả trong lớp thượng mô
mà ở giai đoạn sớm sự xâm lấn mới chớm ở niêm
mạc, hoặc lớp dưới niêm mạc (kiểu vi xâm lấn:
micro invasion). Carcinôm tế bào gai tại chỗ có đặc
điểm gồm những tế bào lớn, thay đổi kích thước,
dạng tế bào bất thường giống như tế bào gai biệt
hoá cao.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 7
Carcinôm tế bào gai xâm lấn (Invasive
Squamous Cell Carcinoma): Ở các mẫu tế bào học,
phần lớn các case tìm thấy là loại biệt hóa cao với
các tế bào có kích thước thay đổi, bào tương chứa
chất sừng màu hơi cam. Các tế bào bướu có thể
nằm riêng lẻ, thành cụm hay thành đám, rời rạc có
kích thước và hình dạng thay đổi (đây cũng là một
đặc điểm của loại bướu này). Hình dạng biến đổi dị
dạng, đa điện hình thon dài, nhân tăng sắc chất
nhiễm sắc thô, đơn dạng hoặc có dạng nhân tan
(Pyknotic) do bị thoái hóa hoặc ở trong các giai
đoạn trưởng thành, đôi khi thấy được dạng tế bào
túi (hình trái lê).
* Còn loại carcinôm tế bào gai kém biệt hoá
hoặc biệt hoá vừa có ít chất sừng. Do đó, các tế bào
màu cam ít đi và có một số tế bào có bào tương
lưỡng màu hoặc hơi xanh tím. Các tế bào bướu ít dị
dạng hơn,kích thước và hình dạng ít thay đổi. Chất
nhiễm sắc trong nhân có hạt thô và tiểu nhân rõ.
* Các tế bào bướu trên nằm riêng lẻ hoặc thành
đám. Dạng thường gặp của carcinôm tế bào gai
xâm lấn trong mẫu dịch gồm nhiều mảnh tế bào ,
lẫn với dịch viêm và hồng cầu.
Carcinôm tế bào nhỏ (small cell carcinoma)
Bướu loại này gồm những tế bào loại nhỏ
không biệt hóa và có sự tương xứng giữa hình thái
mô học và tế bào học. Các tế bào này có kích thước
nhỏ, nhân lớn có hình tròn hay bầu dục, viền quanh
nhân khó nhận ra và có màu xanh tím. Nhân tày
sắc có dạng như những hạt muối tiêu (salt and
pepper) đó là các hạt nhiễm chất sắc nhỏ, tiểu nhân
khó nhìn thấy được; các tế bào này xếp thành đám
nhỏ hoặc nằm riêng rẽ, chúng xếp dọc theo các sợi
chất nhầy, đôi khi thấy được mô tạng của bướu đi
kèm, kích thước của tế bào này cũng có thể thay
đổi lớn hoặc nhỏ hơn.
Carcinome tuyến (adeocarcinoma)
Các tế bào bướu có đặc điểm tạo khoảng trống
giống tuyến có thể có dạng nhũ hay chứa chất nhầy
trong tế bào . Sự phân loại phụ thuộc vào mức độ
biệt hóa,vị trí nguồn gốc với kiểu phát triển của tế
bào trong nhu mô phổi.
Carcinome tuyến phế quản (Bronchogenic
Adenocarcinome). Các tế bào bướu biến đổi tùy
theo độ biệt hóa của tế bào . Chúng thường xếp
thành đám tế bào ít khi nằm riêng lẻ, đây là một
đặc điểm để giúp chẩn đoán carcinome tuyến. Đặc
biệt loại carcinome tuyến biệt hóa vừa và cao tạo
ra các dạng tuyến hay dạng nhú. Các tế bào có đặc
điểm là kích thước lớn hơn tế bào biểu mô phế
quản với nhân tương đối lớn, tỷ lệ nhân / bào tương
thay đổi. Chất nhiễm sắc thể, mảnh phân tán và có
thể có dạng như bột. Tiểu nhân lớn và rõ. Bào
tương có màu hơi xanh tím bên trong chứa các
không bào hay các bóng tạo dạng bọt bào (foamy
cells), hoặc có thể chứa các chất nhầy dạng hạt.
Các biến đổi trên tùy thuộc vào độ biệt hóa của tế
bào nhiều trường hợp không thể phân biệt được một
carcinome tuyến kém biệt hóa với một carcinome
không biệt hóa tế bào lớn.
Carcinome tiểu phế quản - phế nang
(Bronchiolalveolar Adenocarcinoma): Loại
carcinome này nếu biệt hóa cao sẽ có cấu trúc
dạng nhú hay dạng tuyến. Loại này thường nằm ở
ngoại vi phổi lan rộng vào trong nhu mô phởi tới
các vách phế nang như mạng lưới. Mẩu tế bào học
có thể thấy các tế bào dạng cầu hay dạng nhú với
các tế bào biệt hóa cao, kích thước và hình dạng
đơn giản, với nhân tròn hay bầu dục. Chất nhiễm
sắc mảnh, có dạng hạt, hạt nhân nhỏ hoặc không
thấy, ngoài ra còn có các tế bào giống với các thực
bào phế nang, bào tương có thể có các không bào .
Các tế bào này thường tạo dạng túi tuyến tròn nhỏ.
Carcinôm tế bào lớn (large cell carcinoma)
Đây là loại ung thư tế bào không biệt hóa với
kích thước lớn. Có thể ở dạng tế bào sáng hoặc tế
bào khổng lồ. Các loại tế bào này kích thước lớn:
nhân bất sản, to; màng nhân không đều rải rác có
các đám chất nhiễm sắc thô không đều; hạt nhân
lớn cũng không đều,bào tương ít, bắt màu lưỡng
cực hoặc xanh tím. Do tính chất như vậy nên việc
chẩn đoán carcinôm tế bào lớn là một chẩn đoán
loại trừ vì các tế bào rụng ra từ một carcinome
tuyến hoặc carcinôm tế bào gai kém biệt hóa rất dễ
lầm vói carcinome không biệt hóa tế bào lớn.
Các loại tế bào khác
Ngoài những loại ung thư thường gặp kể trên,
tại phổi còn có nhiều loại tổn thương ác tính khác
như: u carcinoid, ung thư màng phổi... và ung thư
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 8
do di căn tới phổi, tuỳ theo loại tế bào di căn hình
ảnh tế bào học sẽ phản ánh loại tế bào gốc đó.
KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
Tổng số ca thực hiện
278 trường hợp
Chẩn đoán ác tính: 167 trường hợp (chiếm tỉ lệ
60,1%) trong đó:
Phân loại mô học tế bào ác tính:
@Tế bào tuyến 104 trường hợp chiếm tỉ lệ
62,3%, trong đó số trường hợp có kết quả phù hợp
với chẩn đoán mô học (cùng chẩn đoán là
carcinome tuyến) là 97 trường hợp: tỉ lệ 93%.
@Tế bào gai 13 trường hợp chiếm tỉ lệ
7,8%,trong đó số trường hợp có kết quả phù hợp với
chẩn đoán mô học(cùng chẩn đoán là carcinôm tế
bào gai) là 12 trường hợp: tỉ lệ 92%.
@ Tế bào nhỏ 31 trường hợp chiếm tỉ lệ
18,6%,trong đó số trường hợp có kết quả phù hợp
với chẩn đoán mô học (cùng chẩn đoán là carcinôm
tế bào nhỏ) là 27 trường hợp: tỉ lệ 87%.
@ Tế bào lớn 02 trường hợp chiếm tỉ lệ 1,1%
trong đó số trường hợp có kết quả phù hợp với chẩn
đoán mô học(cùng chẩn đoán là carcinome tế bào
lớn) là 2 trường hợp: tỉ lệ 100%.
@ Không xác định rõ loại tế bào 17 trường hợp
tỉ lệ 10,2%, trong đó kết quả chẩn đoán mô học là:
9 trường hợp carcinome tuyến, 3 trường hợp
carcinôm tế bào gai, 2 trường hợp carcinôm tế bào
nhỏ và 3 trường hợp không rõ loại tế bào .
Các chẩn đoán sinh thiết đi kèm gồm có:
. Sinh thiết niêm mạc phế quản: 45 trường hợp
. Sinh thiết xuyên thành phế quản: 47 trường
hợp
. Sinh thiết phổi xuyên thành ngực bằng kim
Melghinii: 29 trường hợp
. Sinh thiết màng phổi mù bằng kim Abrams và
Castellain 13 trường hợp
. Sinh thiết hạch di căn 07 trường hợp
. Sinh thiết qua phẫu thuật cắt thùy phổi: 15
trường hợp
. Sinh thiết u di căn thành ngực 11 trường hợp
Tổng số ca chẩn đoán dương giả (chẩn đoán tế
bào học là ác tính, chẩn đoán mô học là lành tính):
07 trường hợp (5 ca lao, 2 ca nấm)
Tổng số ca chẩn đoán dương thật (ác tính thực
sự có xác định bằng chẩn đoán mô học) 160 trường
hợp.
Chẩn đoán lành tính: 111 trường hợp (chiếm tỉ
lệ 39,9%) trong đó:
Có tổn thương lao: 62 trường hợp (có sinh thiết
đi kèm: tổn thương lao ở phế quản 32 ca và 30 ca
có kết quả vi trùng học AFB (+) hoặc PCR lao
(+),trong đó có 9 ca vừa có kết quả chẩn đoán mô
học,vừa có kết quả chấn đoán vi trùng học).
Viêm mãn tính không đặc hiệu hoặc viêm hoại
tử mủ: 49 trường hợp (có 23 trường hợp âm tính giả:
sau khi sinh thiết phế quản qua nội soi, sinh thiết
phổi hoặc phẫu thuật chẩn đoán mô học là ác tính)
Như vậy: tổng số ca âm tính thật: 88 trường
hợp,
tổng số ca âm tính giả: 23 trường hợp
Đánh giá kết quả thu được:
Với các số liệu thu đượckể trên, chúng tôi có
được các kết quả như sau:
Dương tính thật: 160 trường hợp
Dương tính giả: 07 trường hợp
Aâm tính thật: 88 trường hợp
Aâm tính giả: 23 trường hợp
Các số liệu được tính toán gồm có:
Độ nhạy cảm:
Độ đặc hiệu:
Giá trị tiên lượng dương:
Giá trị tiên lượng âm:
Dương tính thật
(Dương tính thật + Dương tính giả)
=
160
(160+ 7)
95,8% =
Dương tính thật
(Dương tính thật + Aâm tính giả)
=
160
(160+ 23)
87,4% =
Âm tính thật
(Âm tính thật + Dương tính giả)
=
88
(88+ 7)
92,6% =
Âm tính thật
(Âm tính thật + Âm tính giả)
=
29
(29+ 9)
79,3% =
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 9
* Độ chính xác:
Số bệnh nhân có chẩn đoán sau cùng
(1) So sánh với các số liệu khác:
@ Với phương pháp chẩn đoán tế bào học dịch
rửa phế quản: (Độ nhạy cảm)
Kỹ thuật rửa phế quản tìm tế bào ác tính cũng
là một phương pháp thường được sử dụng trong nội
soi phế quản và cũng được thực hiện một cách
thường qui ở nhiều phòng nội soi phế quản trên thế
giới và cả ở Việt Nam.
Rửa phế quản
Tổng kết tại TT.PNT Từ 30 – 50% (1995 – 1999)
Phạm Thanh Chương (1995) 40 - 53%
Viện Lao Trung Ương (1992) 51%
WHO (1977) 55- 65%
Béjui – Thivolet và cs (1992) 84%
Melisa (ĐH Havard 1992) 61 – 74%
De Villaine (1996) 61%
@ Với các nghiên cứu khác về chải phế quản:
Sau đây là bảng so sánh kết quả nghiên cứu
của chúng tôi với một số nghiên cứu khác trên thế
giới và tại Việt Nam:
Độ nhạy cảm Độ đặc hiệu
Nghiên cứu tại TT.PNT 87,4% 92,6%
Phạm Thanh Chương
(1995)
75%
Viện Lao Trung Ương
(1992)
51%
WHO (1977) 70 - 80% Khoảng 80%
Béjui – Thivolet và cs
(1992)
91% 74%
Melisa (ĐH Havard 1992) 67 - 86% 89,4%
De Villaine (1996) 90,5% 94,5%
Biến chứng gặp phải khi thực hiện kỹ thuật
chải phế quản
Xuất huyết khi soi phế quản
Có 57 trường hợp (chiếm 20,5%) bị xuất huyết,
tuy nhiên tất cả các trường hợp này đều là chảy
máu nhẹ do kỹ thuật này khi thực hiện rất nhẹ
nhàng. Các ca bị chảy máu sau khi được dùng
adrenaline tại chỗ đều được kiểm soát tốt.
Ho ra máu
Sau khi chải phế quản: đây cũng là một tai biến
khi soi phế quản: có 68 ca (chiếm 24,4%) bị ho ra
máu. Tuy nhiên, tất cả đều nhẹ với lượng ít, sau khi
được dùng thuốc cầm máu và an thần bằng đường
uống đều khỏi hẳn.
Đau ngực
Thường nhẹ và tự khỏi: có 12 (chiếm 4,3%) ca
bệnh nhân than bị đau ngực nhẹ.
Suy hô hấp
Thường nhẹ và sau khi xử trí bằng thở ôxy,
nằm nghỉ và dùng kháng viêm corticoid đều có cải
thiện tốt. Thường nguyên nhân là do bệnh cảnh ác
tính gây suy hô hấp chứ không phải do chải phế
quản. Tổng cộng có 34 bệnh nhân có biểu hiện suy
hô hấp nhẹ (chiếm 12,2%) sau khi soi phế quản có
thực hiện chải phế quản.
Tử vong
Không có trường hợp nào.
Vị trí nhánh phế quản đã thực hiện chải phế
quản
Bên phải: 135 trường hợp và bên trái 143
trường hợp, được phân bố ở các nhánh phế quản
như sau:
Bên phải: Phế quản gốc (P): 8 trường hợp
S1: 23 trường hợp (a + b)
S2: 12 trường hợp
S1 + S2: 9 trường hợp
S3: 21 trường hợp
S6: 33 trường hợp
S7: 03 trường hợp
S8 S9 S10: 26 trường hợp
Bên trái: Phế quản gốc (T): 6 trường hợp
S1: 18 trường hợp (a+b)
S2: 9 trường hợp
S1 + S2: 13 trường hợp
S3: 2 trường hợp
S6: 53 trường hợp
S8 S9 S10: 42 trường hợp.
Dương tính thật + Âm tính thật
n
=
(160+ 88)
278
89,2% =
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 10
Vị trí khối u
Đa số các trường hợp chải phế quản đều thực
hiện ở các nhánh phế quản nhỏ ở xa như S1a, S1b
do tổn thương phổi chủ yếu nằm ở ngoại vi phổi,
khó qua sát và sinh thiết khi nội soi phế quản. Do
đó,vị trí các khối u trong nghiên cứu này phần lớn
nằm ở ngoại biên với 180 trường hợp (chiếm
64,7%) và 98 trường hợp u ở trung tâm (chiếm
35,3%).
Với số liệu kể trên chúng tôi tính toán được độâ
nhạy cảm và độ đặc hiệu của chải phế quản đối với
khối u ngoại biên và trung tâm như sau:
Khối u ngoại biên:
Số dương tính thật: 97 trường hợp
Số dương tính giả: 06 trường hợp
Số âm tính thật: 55 trường hợp
Số âm tính giả: 22 trường hợp
Độ nhạy cảm:
Độ đặc hiệu:
Khối u trung tâm: Số dương tính thật: 63 trường
hợp
Số dương tính giả: 01 trường hợp
Số âm tính thật: 33 trường hợp
Số âm tính giả: 01 trường hợp
Độ nhạy cảm:
Độ đặc hiệu:
Số lần chải phế quản
Số lần ít nhất là 01 lần và cao nhất là 5 lần với
số liệu như sau:
01 lần: 124 trường hợp.
02 lần: 59 trường hợp.
03 lần: 32 trường hợp.
04 lần: 12 trường hợp.
05 lần: 04 trường hợp.
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Phương pháp chải phế quản dùng để chẩn đoán
những thương tổn trong lòng phế quản khi mà các
kỹ thuật khác như sinh thiết phế quản, rửa phế
quản... không cho chẩn đoán rõ ràng đặc biệt là
thương tổn ở ngoại biên phổi hoặc một số ở đỉnh
phổi có xâm lấn các nhánh phế quản S1a – S1b...
không thể sinh thiết được hoặc thậm chí không thấy
được tổn thương qua nội soi. Với kết quả nêu trên
phương pháp có độ nhạy và chuyên biệt khá cao so
với những nghiên cứu khác.
Qua nghiên cứu này cũng cho thấy biến chứng
của kỹ thuật chải phế quản ít gặp và nhẹ nhàng,
không đáng kể. Số lần chải chỉ cần 1 – 2 lần, do đó
thao tác thực hiện cũng nhanh chóng.
Kết quả phù hợp chẩn đoán týp mô học của
chẩn đoán tế bào học và chẩn đoán mô học khá cao
cho thấy kỹ thuật chẩn đoán tế bào chải phế quản
đáng tin cậy và có thể coi đây là một kết quả chẩn
đoán xác định cho ung thư phế quản - phổi. Trong
nghiên cứu này số lượng loại tế bào tuyến
(carcinome tuyến) chiếm tỉ lệ cao nhất cũng phản
ánh tình hình của ung thư phổi loại tuyến hiện nay
ngày càng cao (nghiên cứu của các tác giả Âu
Nguyệt Diệu, Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Sào
Trung... tại TT. Ung Bướu báo cáo năm 1999 cũng
cho thấy tỉ lệ ung thư phổi loại carcinome tuyến
chiếm gần bằng với loại tế bào gai: 37,4% so với
39,8%), hơn nữa trong nghiên cứu này số lượng các
trường hợp u ngoại biên của phổi cũng chiếm đa số
(64,7%) và nơi đây cũng là nơi tổn thương ác tính
của loại tế bào tuyến chiếm đa số. Điều này cũng
phù hợp với những nghiên cứu khác như của tác giả
Leslie A. Litzky năm 1998 đã có nhận định rằng tỉ
lệ các ung thư tế bào tuyến của phổi những năm
gần đây dần dần chiếm đa số các trường hợp. Năm
1997 nghiên cứu của tác giả Arthur S. Patchefsky
cho thấy tỉ lệ ung thư tế bào tuyến chiếm 45% ung
thư phế quản - phổi và chủ yếu nằm ở ngoại vi
phổi.
Trong nghiên cứu khi nhận xét về vị trí của các
nhánh phế quản có thực hiện chải phế quản thì các
Dương tính thật
(Dương tính thật + Aâm tính giả)
=
97
(97+ 22)
81,5% =
Âm tính thật
(Âm tính thật + Dương tính giả)
=
55
(55+ 6)
90,2% =
Dương tính thật
(Dương tính thật + Aâm tính giả)
=
63
(63+ 1)
98,4% =
Âm tính thật
(Âm tính thật + Dương tính giả)
=
33
(33+ 1)
97,1% =
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh g 11
nhánh phế quản thùy trên chiếm số lượng khá lớn:
bên phải: S1 + S2 + S3 là 65 trường hợp; bên trái:
S1 + S2 + S3 là 42 trường hợp, tổng cộng có 107
trường hợp thực hiện chải phế quản ở thùy trên.
Điều này cho thấy khả năng chẩn đoán các khối u
khó chẩn đoán ở thùy trên hai phổi là rất lớn. Đặc
biệt các khối u ở đỉnh phổi trước đây thường gặp rất
nhiều khó khăn trong chẩn đoán vì không với tới
được khi nội soi phế quản, mặt khác khi thực hiện
sinh thiết phổi xuyên thành ngực ở vùng này cũng
dễ gặp tai biến và gặp không ít khó khăn. Trong
nghiên cứu này khối u ở đỉnh phổi (nhánh S1 + S2)
chiếm một số lượng khá lớn: 44 trường hợp bên
phải và40 trường hợp ở bên trái cho thấy khả năng
chẩn đoán các u đỉnh phổi như loại Pancoast –
Tobias cũng khá tốt và nhờ đó giảm bớt những kỹ
thuật có thể gây tai biến như sinh thiết xuyên thành
ngực vùng đỉnh phổi, sinh thiết qua ngã thượng
đòn... Ngoài ra, trong nghiên cứu này do đa số là
các khối u ngoại biên, đây cũng là những khối u có
khả năng phẫu thuật được. Cũng cần lý giải thêm
trong nghiên cứu này, để có bằng chứng xác định
về giải phẫu bệnh, chúng tôi đã dựa vào kết quả
chẩn đoán mô học của các kỹ thuật sau: sinh thiết
niêm mạc phế quản (13 trường hợp); sinh thiết
xuyên thành phế quản (25 trường hợp); sinh thiết
phổi xuyên thành ngực (16 trường hợp); sinh thiết
màng phổi (09 trường hợp); sinh thiết hạch (06
trường hợp); phẫu thuật cắt bỏ thùy phổi (11 trường
hợp) và sinh thiết u di căn thành ngực (04 trường
hợp).
Một nhận xét khác cho thấy nhánh phế quản S6
cũng có số lần thực hiện chải phế quản khá lớn:
bên phải 33 trường hợp và 51 trường hợp bên trái
(tổng cộng 84 trường hợp): điều này cho thấy khả
năng thực hiện chải phế quản ở nhánh này có thể
thực hiện được dễ dàng và khối u phân bố ở vùng
này cũng khá lớn.
Việc thực hiện kỹ thuật này cũng đòi hỏi người
thầy thuốc làm nội soi phế quản nắm vững giải
phẫu học của chẩn đoán hình ảnh cũng như giải
phẫu học của cây phế quản để có thể lấy được bệnh
phẩm đúng nơi tổn thương, có đủ số lượng tế bào
cho chẩn đoán tế bào học. Kỹ thuật này cũng đòi
hỏi ở người thầy thuốc giải phẫu bệnh kinh nghiệm
chẩn đoán, kỹ thuật nhuộm mẫu và quan sát nhanh
chóng qua kính hiển vi để cho ra chẩn đoán một
cách chính xác và kịp thời. Và qua việc thực hiện
kỹ thuật này cũng nói lên một mô hình liên kết chặt
chẽ giữa các thầy thuốc lâm sàng và thầy thuốc cận
lâm sàng (giải phẫu bệnh) trong chẩn đoán và điều
trị cho bệnh nhân.
Trong nghiên cứu có 7 trường hợp dương tính
giả: 5 trường hợp lao và 2 trường hợp nấm cho thấy
một số trường hợp viêm mãn tính niêm mạc phế
quản cũng chuyển sản khá nặng tạo hình ảnh giả
ung thư khi chẩn đoán tế bào học. Điều này đòi hỏi
kinh nghiệm của người thầy thuốc giải phẫu bệnh
và sự cẩn trọng khi có sai biệt về chẩn đoán lâm
sàng – giải phẫu bệnh. Đặc biệt là các tổn thương ở
thùy giữa và ở bệnh nhân trẻ với tổn thương X-
quang không rõ ràng của ung thư phế quản – phổi.
Việc thực hiện soi phế quản – chải phế quản lại
kèm tham khảo các xét nghiệm khác về sinh hoá,
vi trùng và lâm sàng ở các trường hợp này là rất
cần thiết.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật chải phế quản chẩn đoán tế bào học
dùng cho các bệnh lý về phổi đặc biệt là ung thư
phổi là một phương pháp đã được dùng từ lâu trên
thế giới. Bước đầu áp dụng tại TT. Phạm Ngọc
Thạch qua 278 trường hợp đã cho một kết quả đáng
khích lệ và tin cậy được. Về mặt kỹ thuật, đây là
một phương pháp đơn giản, thực hiện nhanh chóng
và chưa thấy tai biến gì nghiêm trọng cho bệnh
nhân. Do đó có thể mạnh dạn áp dụng rộng rãi hơn
tại TT. Phạm Ngọc Thạch cũng như ở những bệnh
viện chuyên khoa về phổi có nội soi phế quản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ALFRED FISHMAN – Pulmonary Cytology – Fishman’s
Pulmonary Diseases and Disorders – 1998 – 487.504
2. ÂU NGUYỆT DIỆU – Đặc điểm Giải Phẫu Bệnh – Lâm sàng
của Ung thư phổi nguyên phát – Y học TP.Hồ Chí Minh – 1199
– 67.74.
3. BÙI XUÂN TÁM – Bệnh Hô Hấp – 1999 – Nhà Xuất Bản Y
Học – 270.274
4. DARRYL CARTER – Tumors and Tumor –like Lesions of The
Lung – 1998 – 17.120
5. DE MAY – Cytology – Chapter 21 Lung – 1996 – 949.989
6. DE VILLAINE – Evalution du Rôle de La Cytologie dans Le
Diagnostic des Cancers du Poumon – Rev.Mal.Resp.- 1996 –
295.299
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 5 * Phụ bản của Số 4 * 2001 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Giải Phẫu Bệnh 12
7. GIA KHANH NGUYEN & TILDE S.KLINE – Essentials of
Exfoliative Cytology – 1992 – 109.144
8. H.SPENCER – Pathology of The Lung – 1987 – 854.864
9. LIANG CHE TAO – Cytopathology of Bronchoscopy – 1997 –
221.262
10. LIU & SUO HONG KUO – Laboratory Techniches – National
Taiwan University Hospital – 1996 – 50.54
11. MC.KENZIE – Atlas of Cytopathology – 1997 – 134.155
12. RYOSUKE ONO – Bronchoscopy-Practical Methods and Case
Reports – 1994 –2.15
13. VIỆN LAO VÀ BỆNH PHỔI – Bệnh Học Lao và Bệnh Phổi
(Tập II) – 1996 – Nhà Xuất Bản Y học – 79.89
14. WINIFRED GRAY – Diagnostic Cytopathology – 1995 –
13.119
15. WORLD HEALTH ORGANIZATION – Cytology of Non-
Gynaecological Sites – Geneva – 1977 – 19.50
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chan_doan_te_bao_hoc_chai_phe_quan_trong_ung_thu_phe_quan_ph.pdf