Cấu trúc giới trong gia đình và cộng đồng ở nông thôn tỉnh Tiền Giang

Tài liệu Cấu trúc giới trong gia đình và cộng đồng ở nông thôn tỉnh Tiền Giang: 618 CẤU TRÚC GIỚI TRONG GIA ĐÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG Ở NÔNG THÔN TỈNH TIỀN GIANG ThS. Trần Khánh Hưng TÓM TẮT Quan hệ giới trong gia đình là chủ đề được quan tâm nghiên cứu đặc biệt trong lĩnh vực xã hội học và nhân học. Một dòng phân tích quan trọng trong chủ đề này là nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng tồn tại khá dai dẳng giữa vợ và chồng trong các hộ gia đình ở Việt Nam. Với việc khảo sát mối quan hệ giới trong gia đình nông hộ ở ba xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (gồm 240 bản hỏi đại trà, 10 cuộc phỏng vấn sâu và một cuộc thảo luận nhóm được thực hiện năm 2014 và 2015), bài viết lập luận rằng (1) mối quan hệ giới trong các trường hợp khảo sát là sự đối ngẫu các đặc tính xã hội của nam giới và nữ giới. (2) Sự đối ngẫu ở cấp độ nông hộ là cơ sở tạo nên diện mạo về giới của cộng đồng nông thôn tỉnh Tiền Giang. (3) Sự đối ngẫu này không phải là một cấu trúc cố định mà có những chuyển biến qua thời gian. Về phương pháp, bài viết cũng hàm ý rằng mối quan hệ...

pdf26 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 470 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Cấu trúc giới trong gia đình và cộng đồng ở nông thôn tỉnh Tiền Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
618 CẤU TRÚC GIỚI TRONG GIA ĐÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG Ở NÔNG THÔN TỈNH TIỀN GIANG ThS. Trần Khánh Hưng TÓM TẮT Quan hệ giới trong gia đình là chủ đề được quan tâm nghiên cứu đặc biệt trong lĩnh vực xã hội học và nhân học. Một dòng phân tích quan trọng trong chủ đề này là nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng tồn tại khá dai dẳng giữa vợ và chồng trong các hộ gia đình ở Việt Nam. Với việc khảo sát mối quan hệ giới trong gia đình nông hộ ở ba xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (gồm 240 bản hỏi đại trà, 10 cuộc phỏng vấn sâu và một cuộc thảo luận nhóm được thực hiện năm 2014 và 2015), bài viết lập luận rằng (1) mối quan hệ giới trong các trường hợp khảo sát là sự đối ngẫu các đặc tính xã hội của nam giới và nữ giới. (2) Sự đối ngẫu ở cấp độ nông hộ là cơ sở tạo nên diện mạo về giới của cộng đồng nông thôn tỉnh Tiền Giang. (3) Sự đối ngẫu này không phải là một cấu trúc cố định mà có những chuyển biến qua thời gian. Về phương pháp, bài viết cũng hàm ý rằng mối quan hệ giới có thể được hiểu tốt hơn bằng cách mở rộng phân tích ra các lãnh địa khác bên ngoài phạm vi gia đình. Từ khóa: cấu trúc giới, nông hộ, cộng đồng nông thôn. 1. Giới thiệu Gia đình thường là đối tượng được quan tâm đặc biệt trong việc nghiên cứu xã hội dù với tư cách một định chế hay một đơn vị phân tích. Trong đó, mối quan hệ theo chiều ngang của vợ-chồng và theo chiều dọc giữa các thế hệ được xem là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại của gia đình. Khi xem xét các quan hệ này theo góc độ giới, người ta thường đặt trọng tâm vào mối tương quan giữa vai trò của người chồng và người vợ. Ở Việt Nam, một cách tiếp cận khá phổ biến và quan trọng đối với chủ đề này là nhấn mạnh đến tính bất bình đẳng trong vai trò của cả hai mà phần ưu thế thường nghiêng về phía người chồng. Việc quy giản mối quan hệ giữa vợ-chồng thành chỉ còn giữa nữ giới-nam giới tuy một mặt giúp nhấn mạnh khía cạnh giới trong phân tích, nhưng mặt khác có khả năng đưa đến việc xem xét hai vai trò này như hai thái cực đối lập, thậm chí mâu thuẫn nhau; tức là nhìn các vai trò như thể rất cố định và có tính cấp bậc. Ngoài ra, vì định chế gia đình gần như có tính phổ quát nên việc quá tập 619 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH trung vào phạm vi gia đình khi phân tích mối quan hệ vợ-chồng có thể làm mờ đi những hệ quả về phương diện cộng đồng do mối quan hệ này tạo ra (hoặc ngược lại, những yếu tố cộng đồng định hình trở lại mối quan hệ vợ-chồng trong gia đình). Bài viết này là một sự nỗ lực nhằm bổ khuyết hai vấn đề trên. Dữ liệu của bài viết bao gồm các thông tin từ bản hỏi đại trà và phỏng vấn sâu được thực hiện tại ba xã nông nghiệp Phú Nhuận, Mỹ Thành Bắc và Phú Cường thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang vào năm 2014 và 20151. Qua các trường hợp được khảo sát, bài viết lập luận bước đầu rằng (1) mối quan hệ giới trong gia đình nông hộ tỉnh Tiền Giang là sự đối ngẫu các đặc tính xã hội của nam giới và nữ giới. (2) Sự đối ngẫu ở cấp độ nông hộ là cơ sở tạo nên diện mạo về giới của cộng đồng nông thôn tỉnh Tiền Giang. (3) Tuy nhiên, sự đối ngẫu này không phải là một cấu trúc cố định mà có những biến chuyển qua thời gian. 2. Vài nét chính trong việc nghiên cứu mối quan hệ giới trong gia đình ở Việt Nam thời gian qua Trong khoảng 10 năm trở lại đây (2006-2016), mối quan hệ giới trong gia đình được nghiên cứu bài bản với nhiều cuộc khảo sát ở cấp độ địa phương hoặc có quy mô trên bình diện cả nước. Một trong những câu hỏi được quan tâm xuyên suốt là có hay không sự bất bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam. Nhiều công trình chia sẻ quan niệm về bình đẳng giới như là sự ngang nhau giữa vợ và chồng về tiếng nói và quyền quyết định đối với những công việc của gia đình (Vũ Thị Cúc, 2007; Đỗ Thị Lệ Hằng, 2008; Trần Thị Cẩm Nhung, 2009; Vũ Thị Thanh, 2009; Lê Thị Hồng Hải, Phạm Thanh Vân, 2012; Lê Thị Thục, 2014) hay theo cách gọi khác là “làm chủ gia đình” (Lê Ngọc Văn, 2008; Lê Thi, 2009). Dù có nhiều tranh luận nhưng phần lớn các cuộc khảo sát cho rằng có tình trạng bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng với phần ưu thế nghiêng về người chồng, nhưng tình trạng này đang có xu hướng được cải thiện với việc phụ nữ tham gia ngày càng nhiều và dần trở thành một trụ cột trong các hoạt động quan trọng của gia đình. 1 Tác giả bài viết trân trọng cảm ơn PGS.TS. Trần Hữu Quang, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu “Nhận diện những mô thức ứng xử kinh tế của nông hộ châu thổ sông Cửu Long ngày nay” do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ (mã số I3.1-2012.13), đã cho phép tác giả sử dụng một phần dữ liệu của đề tài để phân tích trong bài viết này. 620 Cụ thể, mối quan hệ vợ-chồng thường được khảo sát theo ba tiêu chí có liên quan trực tiếp đến đời sống gia đình. Thứ nhất, sự phân công lao động dù vẫn còn phản ánh những khuôn mẫu truyền thống nhưng đã ngày càng bình đẳng hơn, thể hiện qua việc ranh giới phân định công việc giữa vợ và chồng đã không còn thật đậm nét (Lê Thị Thục 2014; Vũ Thị Thanh 2009; Lê Thi 2009). Thứ hai, việc đứng tên các tài sản quan trọng như bất động sản chủ yếu là nam giới đã làm hạn chế quyền quyết định của phụ nữ đối với những tài sản có giá trị trong nhà, từ đó làm giảm tiếng nói của họ trong gia đình (Trần Thị Hồng 2009; Trần Thị Cẩm Nhung 2009; Trần Thị Hồng 2009; Lê Thị Hồng Hải, Nguyễn Hữu Minh, An Thanh Ly 2012). Thứ ba, về mức đóng góp kinh tế cho gia đình, nhiều công trình cho thấy cả vợ và chồng đều tham gia tạo thu nhập cho gia đình (Trần Thị Vân Anh 2007; Đỗ Thị Lệ Hằng 2008; Lê Ngọc Văn 2008; Trần Thị Anh Thư 2010; Trần Thị Vân Anh 2007; Đỗ Thị Lệ Hằng 2008). Dù có sự khác biệt trong nhận định các yếu tố tác động nhưng những công trình này gần như xem việc cải thiện mức đóng góp thu nhập cho phụ nữ là nền tảng để nâng cao vị thế của họ trong gia đình. Phần tổng quan mang tính sơ lược trên đây cho thấy khi khảo sát mối quan hệ giới trong gia đình ở Việt Nam, các công trình được dẫn ra chủ yếu tập trung khảo sát một số phương diện trong phạm vi đời sống gia đình, rồi xem xét tương quan giữa những phương diện này với các tiêu chí về nhân khẩu học. Trong khuôn khổ đánh giá về sự bất bình đẳng giới, dù đa phần không đề cập nhưng các công trình trên có khuynh hướng tiếp cận vấn đề theo thuyết phân bổ nguồn lực tương đối (relative resource theory), với luận điểm chủ yếu là người có đóng góp nguồn lực nhiều hơn, bao gồm trình độ học vấn, thu nhập, uy tín và loại nghề nghiệp, thường là người có quyền quyết định trong công việc gia đình và từ đó sẽ trội hơn trong tương quan quyền lực với những người còn lại (Trần Thị Cẩm Nhung 2009: 32). Cách tiếp cận phân bố nguồn lực tương đối về cơ bản đã giúp ích rất nhiều để trả lời cho câu hỏi có hay không sự bất bình đẳng giới trong mối quan hệ vợ-chồng trong gia đình. Tuy nhiên, với thao tác so sánh, cách tiếp cận này có nguy cơ quy giản mối quan hệ vợ-chồng thành hai cực cố định và đối lập nhau. Về mặt lý thuyết, cách tiếp cận phân bổ nguồn lực tương đối sẽ hoàn thiện hơn khi được bổ sung thêm cách nhìn về vai trò giới cũng như tính đến các “tư tưởng về giới” với tư cách là những yếu tố văn hóa của cộng đồng (Trần Thị Cẩm Nhung 2009: 33). Bởi nếu không, những nhận định của người nghiên 621 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH cứu hoàn toàn độc lập với các quan niệm chung của cộng đồng, như việc người dân không nhận thấy tình trạng “bất bình đẳng giới” (Lê Thị Thục 2014: 23) hay “bạo hành gia đình” (Trần Thị Anh Thư 2010: 84) mà họ được cho là đang sống trong đó (xem thêm Trần Hạnh Minh Phương 2016). Việc xem xét các yếu tố văn hóa dẫn đến hệ quả về phương pháp là cấp độ phân tích cần được mở rộng từ gia đình ra cộng đồng. Bởi một vài yếu tố có thể có tương quan mạnh với quan hệ giới ở cấp độ gia đình nhưng lại không có vai trò đáng kể ở cấp độ cộng đồng (xem thêm Hoàng Bá Thịnh 2009); cũng như các quan hệ giới trong gia đình có thể chịu sự quy định từ những quan niệm mang tính cấu trúc về giới của cộng đồng (Silvasti 2003; dẫn theo Phạm Văn Bích 2011). Như thế, việc xem xét thêm các yếu tố văn hóa cũng như lồng ghép hai cấp độ phân tích gia đình và cộng đồng là một công việc có ý nghĩa, hứa hẹn mang lại những cách nhìn khác về mối quan hệ giới trong gia đình ở Việt Nam. 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu Bài viết này được thực hiện dựa vào việc khảo sát đời sống nông hộ tại ba địa bàn thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, bao gồm ấp Phú Thuận - xã Phú Nhuận, ấp 2 - xã Mỹ Thạnh Bắc và ấp 5 - xã Phú Cường1. Ở cả ba địa phương này, trồng trọt là ngành kinh tế chính, trong đó lúa là cây trồng phổ biến nhất. Ngoài ra cây màu cũng là loại cây trồng quan trọng mang lại thu nhập cho các nông hộ, nhất là dưa hấu. Với nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, địa phận của ba địa phương này hoặc được bao quanh, hoặc bị chia cắt bởi các con sông và kênh. Ấp 2 - xã Mỹ Thành Bắc và ấp Phú Thuận - xã Phú Nhuận là địa bàn có mức độ chuyên canh cây lúa cao, trong khi ấp 5 - xã Phú Cường có mức độ trồng màu tương đối nhiều. Do mức độ chuyên canh cây lúa và cây màu khác nhau nên mức độ phát triển kinh tế của ba địa bàn cũng khác nhau; xã Phú Cường là địa phương khá hơn về kinh tế, kế đến là xã Phú Nhuận và sau cùng là xã Mỹ Thành Bắc. Các dữ liệu trong bài viết này được thu thập chủ yếu qua ba kĩ thuật chính là điều tra bản hỏi đại trà, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Việc điều tra bản hỏi đại trà được tiến hành vào tháng 9/2014, khoảng đầu vụ Đông-Xuân. Ở ba địa bàn này, 240 hộ đã được chọn theo nguyên tắc xác suất dựa theo danh 1 Dân cư của các địa bàn được chọn hầu hết là người Việt nhằm kiểm soát biến số tộc người trong quá trình phân tích. Diện tích ruộng đất của mỗi hộ tương đối nhỏ, việc luân canh cây lúa và màu tương đối phổ biến, cũng như việc hợp tác sản xuất giữa các hộ mang tính tự phát và phần nào còn gắn với cấu trúc cộng đồng (như bài viết này cố gắng chỉ ra). 622 sách dân cư của địa phương (mỗi địa bàn 80 hộ). Người thay mặt gia đình (không phải toàn bộ là chủ hộ) tham gia trả lời bản hỏi gồm 143 nam và 97 nữ, hầu hết đã lập gia đình và đang sống cùng vợ hoặc chồng mình (220 người). Đa phần các hộ sống nhờ vào nghề nông (197 hộ, chiếm 82%). Bên cạnh đó, tác giả bài viết cũng sử dụng tư liệu từ 10 cuộc phỏng vấn sâu và một cuộc thảo luận nhóm nam giới được thực hiện vào tháng 12/2014. Các mẫu phỏng vấn sâu được chọn ra có chủ đích từ mẫu khảo sát đại trà tùy theo đặc điểm của hộ, bao gồm 2 nữ và 8 nam1. Việc phỏng vấn sâu cũng bao gồm kỹ thuật phỏng vấn hồi cố về những chi tiết liên quan đến lịch sử cộng đồng. Tên của những người này đã được thay bằng tên giả trong bài viết, nhưng các thông tin về nhân khẩu là xác thực để hỗ trợ cho việc phân tích. Kĩ thuật thảo luận nhóm được tiến hành ở ấp Phú Thuận - xã Phú Nhuận, gồm 5 người, là những người có ruộng liền kề nhau và cùng liên kết sản xuất với nhau2. Do hộ trồng lúa trong tổng mẫu khảo sát đại trà cũng như phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm chiếm số lượng lớn nên việc phân tích trong bài được đặt trọng tâm vào những hộ này. 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Ba phạm vi phân tích được gợi ý từ thao tác phân tích nhân tố các mệnh đề Như đã chỉ ra ở trên, việc khảo sát mối quan hệ giới trong gia đình cần được liên hệ với các yếu tố văn hóa vốn là nguồn cung cấp ý nghĩa và cũng là không gian cho các thực hành về giới. Trong bài viết này, để xác định các yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đến đời sống của các cộng đồng được khảo sát, chúng tôi đã tiến hành phân tích nhân tố đối với kết quả trả lời 28 mệnh đề trong bản khảo sát đại trà có liên quan đến quan niệm về kinh tế và đời sống nông thôn3. 1 Mẫu phỏng vấn sâu ban đầu được chọn theo tiêu chí đặc điểm hộ gia đình, nhưng để ngỏ việc ai trong hộ sẽ tham gia trả lời phỏng vấn, việc này tùy vào hoàn cảnh và cách sắp xếp công việc của mỗi nhà. Kết quả là nam giới luôn là người thay mặt gia đình để tiếp phỏng vấn viên. Dù họ đi vắng, chỉ có vợ ở nhà thì họ cũng được gọi về để trả lời. Hai trường hợp nữ trên đây có một người góa chồng, còn một người có chồng đi làm xa vài ngày mới về nhà một lần. Đây là một chi tiết thú vị và quan trọng cho thấy phần nào cấu trúc giới ở ba cộng đồng được khảo sát. 2 Đáng tiếc chúng tôi đã không tổ chức một cuộc thảo luận nhóm cho nữ giới như là nhóm đối chứng. Khuyết điểm này phần nào được khắc phục bằng cách tận dụng các cuộc phỏng vấn sâu nữ giới và những cuộc trò chuyện với người dân tại địa bàn trong các đợt khảo sát. 3 Mỗi mệnh đề có ba lựa chọn trả lời là “không đồng ý”, “không ý kiến” và “đồng ý”. Các mệnh đề này trước tiên được kiểm tra độ tin cậy bằng cách tính hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể 623 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Các mệnh đề này tuy không thể phản ánh toàn bộ các khía cạnh của đời sống nông thôn và chỉ là quan điểm của người trả lời, nhưng cũng gợi ra một số phương diện có ý nghĩa đối với các cộng đồng được khảo sát. Chúng tôi nhận thấy có ba nhân tố nổi bật nằm bên dưới các câu trả lời mà chúng tôi tạm gọi tên là quan niệm trọng nam, tính cố kết trong dòng họ-cộng đồng và niềm tin vào số phận. Cụ thể, nhân tố quan niệm trọng nam gồm các mệnh đề: nên để đàn ông quyết định hầu hết các công việc trong gia đình, người vợ phải phục tùng người chồng, phụ nữ không giỏi kinh doanh bằng nam giới, nếu vợ không nghe lời thì chồng có thể đánh vợ. Nhân tố cố kết trong dòng họ-cộng đồng gồm các mệnh đề: nên cưới hỏi với người cùng xã, cần có sự đồng ý của người trưởng họ đối với việc cưới gả trong gia đình, nên hợp tác làm ăn với người cùng dòng họ. Nhân tố niềm tin vào số phận gồm các mệnh đề: thành công hay thất bại là do số may rủi, giàu nghèo là do số phận, cần phải coi ngày và cúng kiếng để ăn nên làm ra (xem Bảng 1). Ba nhân tố này có thể được quy chiếu đến các chiều kích xã hội vốn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau là gia đình (quan niệm trọng nam), dòng họ-cộng đồng (tính cố kết trong dòng họ-cộng đồng) và đời sống tâm linh (niềm tin vào số phận). Theo đó, việc xem xét mối quan hệ giới gắn với các yếu tố văn hóa trong trường hợp này có nghĩa là đặt mối quan hệ giới trong các địa hạt phân tích vốn có ý nghĩa với đời sống ở nông thôn là gia đình, dòng họ-cộng đồng và đời sống tâm linh. Đồng thời, việc cần làm tiếp theo là tìm xem các đặc trưng trong mối quan hệ giới ở các chiều kích xã hội này có liên hệ gì với nhau; và nếu các đặc trưng ấy có sự tương đồng và chi phối lẫn nhau thì có thể đặt ra giả thuyết về tính cấu trúc trong mối quan hệ giới ở các địa bàn được khảo sát. Ngoài ra, tỉ lệ lựa chọn ở các mệnh đề phân theo giới tính cũng cung cấp một số gợi ý cho việc phân tích (xem bảng 2). Với nhân tố đầu tiên, cả hai nhóm nam và nữ đều có sự phân cực đối với quan niệm về quyền quyết định các mệnh đề, cũng như giữa từng mệnh đề với tổng thể. Kết quả có 15 mệnh đề đảm bảo đủ độ tin cậy (có điểm lớn hơn 0,3) để đưa vào phân tích nhân tố với hệ số Cronbach’s Alpha là 0,828. Thao tác phân tích nhân tố được thực hiện hai lần. Ở mỗi lần, những mệnh đề có hệ số tải nhân tố (factor’s loading) dưới 0,5 sẽ được loại ra. (Trong lần phân tích nhân tố đầu tiên, mệnh đề m8: “Thành công hay thất bại là do số may rủi của mỗi người” với hệ số tải nhân tố là 0,498 vẫn được giữ lại). Kết quả phân tích nhân tố còn lại mười mệnh đề, được nhóm thành ba nhân tố, đảm bảo điều kiện về hệ số tải nhân tố và sự thích hợp của thao tác phân tích nhân tố (hệ số KMO) là 0,826. Do ở kết quả ban đầu, các mệnh đề chỉ tập trung vào một nhân tố nên chúng tôi đã tiến hành xoay trục (Varimax with Kaiser Normalization) để có ba nhân tố với các mệnh đề được phân bố đồng đều hơn và phân tích dựa trên kết quả xoay trục này. 624 của nam giới trong nhà (m23). Trên thực tế, như sẽ được phân tích dưới đây, quyền quyết định này không tập trung ở người chồng hay người vợ mà đa số là cả hai cùng bàn bạc và ra quyết định, dù ở một vài lĩnh vực, vai trò của nười chồng có phần chiếm ưu thế hơn. Ở hai mệnh đề tiếp theo là người vợ phải phục tùng chồng (m17) và nữ giới không giỏi kinh doanh bằng nam giới (m21), nhóm nữ tỏ ra là những người bảo lưu quan niệm trọng nam nhiều hơn khi có tỉ lệ đồng ý cao hơn. Cuối cùng, cả hai nhóm cùng không đồng tình về việc chồng có quyền đánh vợ (m25) như là biểu hiện rõ nhất của bạo lực gia đình. Với nhân tố thứ hai, đa số ở cả hai nhóm đều không đồng ý với việc chỉ nên cưới hỏi với người cùng xã (m5); trong khi lại có sự phân cực với quan niệm chỉ nên hợp tác làm ăn với người cùng dòng họ (m10); cũng như phần lớn cho rằng cần có sự đồng ý của trưởng họ với việc cưới gả trong gia đình (m13). Như thế, tính cố kết dòng họ dường như nhấn mạnh đến quan hệ huyết thống hơn là quan hệ hôn nhân, và quan hệ dòng họ cũng là cơ sở cho việc hợp tác làm ăn trong cộng đồng. Còn đối với nhân tố niềm tin vào số phận (m1, m8, m18), tỉ lệ đồng ý của cả nam và nữ đều quá bán. Điều này cho thấy đời sống tâm linh là một phương diện tương đối quan trọng trong đời sống của các cộng đồng nông thôn. Bảng 1. Các nhân tốnổi bật trong đời sống của các cộng đồng nông thôn tỉnh Tiền Giang Nhân tố: Nội dung các mệnh đề Qu an niệm trọng nam Tính cố kết dòng họ-cộng đồng Ni ềm tin vào số phận m23. Hầu hết những quyết định trong gia đình nên để đàn ông quyết định ,86 0 m17. Người vợ lúc nào cũng phải phục tùng người chồng ,68 4 m21. Phụ nữ thường không giỏi kinh doanh bằng nam giới ,58 1 m25. Nếu vợ không biết nghe lời chồng thì không nên trách chồng đánh vợ ,53 4 625 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH m5. Nên cưới hỏi với người cùng xã hơn là với người ngoài ,735 m13. Việc cưới gả trong gia đình cần phải được sự đồng ý của người trưởng họ (trưởng tộc) ,717 m10. Trong công việc làm ăn, chỉ nên hợp tác với người trong cùng dòng họ ,568 m8. Thành công hay thất bại là do số may rủi của mỗi người ,7 81 m1. Giàu nghèo là do số phận ,7 66 m18. Phải biết coi ngày và cúng kiếng thì mới ăn nên làm ra ,5 95 Nguồn: Tác giả tổng hợp và xử lý từ số liệu khảo sát năm 2014. Bảng 2. Tỉ lệ lựa chọn phân theo giới tính ở các mệnh đề của ba nhân tố (đơn vị: %) Kh ông đồng ý Kh ông ý kiến Đồ ng ý m23. Hầu hết những quyết định trong gia đình nên để đàn ông quyết định n am n ữ 44, 8 47, 4 0,7 1,0 54, 5 51, 5 m17. Người vợ lúc nào cũng phải phục tùng người chồng n am n ữ 51, 7 36, 1 2,8 2,1 45, 5 61, 9 626 m21. Phụ nữ thường không giỏi kinh doanh bằng nam giới n am n ữ 61, 5 44, 3 6,3 7,2 32, 2 48, 5 m25. Nếu vợ không biết nghe lời chồng thì không nên trách chồng đánh vợ n am n ữ 71, 3 61, 9 4,9 3,1 23, 8 35, 1 m5. Nên cưới hỏi với người cùng xã hơn là với người ngoài n am n ữ 76, 2 69, 1 8,4 10, 3 15, 4 20, 6 m13. Việc cưới gả trong gia đình cần phải được sự đồng ý của người trưởng họ (trưởng tộc) n am n ữ 37, 1 33, 0 3,5 6,2 59, 4 60, 8 m10. Trong công việc làm ăn, chỉ nên hợp tác với người trong cùng dòng họ n am n ữ 49, 0 41, 2 2,8 9,3 48, 3 49, 5 m1. Giàu nghèo là do số phận n am n ữ 39, 2 27, 8 2,8 0,0 58, 0 72, 2 m8. Thành công hay thất bại là do số may rủi của mỗi người n am n ữ 26, 6 14, 4 4,9 2,1 68, 5 83, 5 627 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH m18. Phải biết coi ngày và cúng kiếng thì mới ăn nên làm ra n am n ữ 32, 9 17, 5 4,9 7,2 62, 2 75, 3 Nguồn: Số liệu khảo sát năm 2014. 4.2. Mối quan hệ giới trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn Tại ba địa bàn khảo sát, sản xuất nông nghiệp được xem là sinh kế chủ. Đời sống kinh tế của nông hộ chủ yếu xoay quanh việc trồng lúa, hoa màu và làm thuê nông nghiệp. Mỗi năm các nông hộ canh tác ba vụ, có thể hoàn toàn trồng lúa hoặc có xen canh cây màu. Sự đặc thù trong sinh kế của nông hộ như thế có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ giới xét ở ba phạm vi gia đình, dòng họ-cộng đồng và đời sống tâm linh. Thông qua các số liệu thống kê và trường hợp phỏng vấn sâu, phần này của bài viết phác họa một vài phương diện cơ bản của mối quan hệ giới đặt trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp. 4.2.1. Mối quan hệ giới trong phạm vi gia đình Đối với các nông hộ, quá trình sản xuất nông nghiệp gồm nhiều công việc cần phải được thực hiện hàng ngày. Ở từng khâu và loại hình công việc, các thành viên trong gia đình có sự phân công lao động với nhau, trong đó có tính đến khía cạnh giới. Nhìn chung, khi xem xét mức độ tham gia vào một số hoạt động sản xuất nông nghiệp cơ bản của gia đình, nam giới có phần chiếm ưu thế hơn so với nữ giới. Cụ thể trong lĩnh vực trồng trọt, nam giới nổi trội ở hầu hết các khâu như làm đất, gieo cấy, chăm sóc cây trồng, rải phân, phun thuốc, thu hoạch, với tỉ lệ chênh lệch ít nhất gần gấp đôi so với nữ giới. Thậm chí, ở những khâu cần phải thuê mướn máy móc như làm đất và thu hoạch, tỉ lệ thuê mướn cũng nổi trội hơn so với sự tham gia của lao động nữ. Nữ giới chỉ thực sự nổi bật trong hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm. Với các hoạt động hỗ trợ cho việc trồng trọt và chăn nuôi như vay vốn, bán sản phẩm, mua giống và vật tư, nam giới vẫn là người thực hiện nhiều hơn (xem Biểu đồ 1). Trên thực tế, gần 2/3 số nữ giới (207 trên 312 nhân khẩu đang lao động) của tất cả các hộ được khảo sát xem sản xuất nông nghiệp là nghề chính của mình. Số còn lại ngoài làm nội trợ thì tham gia vào các công việc phi nông nghiệp, như làm 628 công nhân, buôn bán nhỏ tại nhà (thường là bán tạp hóa), làm tiểu thủ công nghiệp như nấu rượu, may tụng, lột vỏ hạt điều. Trong đó, nội trợ và tiểu thủ công nghiệp là hai hoạt động nổi trội hơn rất nhiều so với nam giới. Ở đây, mức độ tham gia vào các hoạt động kinh tế trong gia đình giữa nam và nữ chưa thể nói lên tính chất bất bình đẳng giới, bởi họ đảm trách những công việc khác nhau góp phần tạo thu nhập cho hộ. Hơn nữa, khi xem xét quyền quyết định một số công việc trong gia đình - tiêu chí được xem là biểu hiện trực tiếp cho sự (bất) bình đẳng giới - bao gồm việc làm ăn, mua sắm đồ đạc, việc học hành của con cái và giao tế trong gia đình-họ hàng, kết quả thu được là số hộ mà cả hai vợ chồng cùng quyết định luôn chiếm tỉ lệ quá bán. Còn đối với những hộ mà có chỉ vợ hoặc chồng quyết định thì có sự phân công khá rõ ràng về lĩnh vực. Trong phần đông số nông hộ, người chồng sẽ quyết định công việc làm ăn cũng như giao tế trong gia đình-họ hàng. Còn người vợ phần nhiều sẽ lo việc học hành của con cái. Số hộ có chồng hoặc vợ quyết định việc mua sắm đồ đạc trong nhà là như nhau. Nam giới chỉ thực sự nổi bật trong việc giao tế với cộng đồng bên ngoài và là tỉ lệ cao nhất ở lựa chọn “chủ yếu là chồng” quyết định, chiếm 42% (xem Biểu đồ 2). Điều này dường như phù hợp với thái độ của nhóm nam và nữ khi được hỏi về quyền quyết định của nam giới trong gia đình cũng như việc vợ phải phục tùng chồng (xem lại Bảng 2). Ngoài việc đánh giá sự bình đẳng giới trong nông hộ, có thể điều đáng quan tâm ở đây là dường như có ranh giới nào đó ngăn cách nữ giới với lĩnh vực trồng trọt, ngay cả khi họ bị đặt vào tình huống phải đảm nhận công việc đồng áng. Sự ngăn cách này ít nhiều có liên hệ với nhân tố quan niệm trọng nam trong phạm vi gia đình. Ngoài các số liệu thống kê, có thể nhận biết điều này rõ hơn qua một trường hợp đặc biệt là bà Đào (sinh năm 1956, xã Mỹ Thành Bắc). Chồng bà mất sớm, hiện bà phải nuôi hai người con gái đang đi học và mẹ chồng đã lớn tuổi. Cuộc sống của gia đình phụ thuộc vào sáu công ruộng và việc nấu rượu của bà. Do nhà không có nam giới nên bà đã nhờ những người anh em trai của mình đỡ đần công việc trồng lúa. Người em trai út sống gần nhà bà thường giúp bà sạ lúa và ngủ lại ruộng để canh chừng thóc giống sau khi sạ, vì những công việc này có phần nặng nhọc và bất tiện với bà. Còn người em rể thứ tư sống ở xã bên cạnh giúp tư vấn cho bà việc phun thuốc và cũng nhờ người này mà bà biết cách bón phân. Hiện tại, mỗi lần cần phun thuốc hay bón phân, bà đều hỏi ý kiến người em này. Với các khâu như làm đất và thu 629 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH hoạch, bà đều thuê mướn máy móc theo thỏa thuận với những hộ có ruộng gần kề. Thỉnh thoảng bà cũng thuê mướn nhân công để phun thuốc và sạ lúa. Dù có hoàn cảnh đặc biệt nhưng trường hợp bà Đào lại phản ánh một mẫu hình phổ biến ở địa phương rằng nam giới luôn là người chiếm ưu thế trong lĩnh vực trồng trọt. Hai người em của bà có thể đại diện cho hai kiểu diễn ngôn mà cộng đồng thường dùng để lý giải cho vị trí ưu thế của nam giới trong hoạt động nông nghiệp: nam giới có cơ thể khỏe mạnh hơn do đó có thể đảm đương những công việc đồng áng nặng nhọc hoặc được xem là bất tiện với phụ nữ; và nam giới là những người am hiểu, có thể vận dụng tốt các kĩ thuật canh tác để vụ mùa có năng suất cao. Diễn ngôn đầu có thể đã từng đúng theo cách thức canh tác truyền thống (từ sau năm 1975 đến cuối những năm 1990). Những công việc đòi hỏi sức khỏe như làm đất, gieo sạ, điều tiết nước tưới tiêu đều do nam giới đảm trách. Còn phụ nữ được cho là có tính tỉ mỉ và kiên nhẫn hơn, nên thường tham gia vào các khâu cấy giặm, làm cỏ và thu hoạch. Việc thuê mướn nhân công chỉ diễn ra lúc thu hoạch khi cần phải hoàn thành công việc trong thời gian ngắn. Từ cuối những năm 1990 - khi có sự cơ giới hóa cũng như việc sử dụng nhiều loại giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu, cũng như kể từ năm 2000 - khi việc trồng xen canh cây màu xuất hiện và trở nên phổ biến ở Tiền Giang cho đến nay, sự tham gia của nam giới vào hoạt động nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế nhưng không hoàn toàn dựa vào sức lực cơ bắp. Bởi những khâu trước đây vốn cần nhiều sức lực như làm đất và thu hoạch thì nay đã có sự tham gia mạnh mẽ của phương tiện cơ giới; cũng như việc thuê mướn nhân công diễn ra ở hầu hết các khâu trong quá trình canh tác. Thay vào đó, nam giới lại thực sự nổi bật ở những khâu rải phân, phun thuốc, cũng như việc mua giống và vật tư, nhất là trong việc trồng màu vốn đòi hỏi quy trình kĩ thuật công phu hơn. Ở những khâu này, tỉ lệ tham gia của họ gấp 4-5 lần so với của nữ giới (xem Biểu đồ 1). Đây là những khâu được nhấn mạnh trong canh tác nông nghiệp hiện nay. Việc sử dụng giống lúa ngắn ngày, thay đổi cơ cấu cây trồng, cùng với việc rải phân, phun thuốc được xem là những biểu hiện cụ thể của việc áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào canh tác nông nghiệp. Những hoạt động này cần sự hiểu biết lẫn kinh nghiệm thực hành nếu muốn đạt kết quả tốt, và nam giới được xem là gắn liền với những khả năng đó. Từ điểm này, giả thuyết có thể được đặt ra là về mặt biểu hiện, nam giới vẫn giữ vị trí ưu thế trong hoạt động nông nghiệp; còn về tính chất, vị trí của nam giới so với nữ giới đã có sự dịch chuyển trong những thập kỷ qua: từ lao động chính chủ yếu dựa vào sức mạnh thể lực sang lao động chính chủ yếu dựa vào việc làm chủ tri thức kĩ 630 thuật canh tác. Xét theo phương diện ngược lại, sự xuất hiện của tri thức và thực hành kĩ thuật canh tác hiện đại một mặt thay đổi tỉ lệ tham gia lao động của các thành viên nông hộ, mặt khác lại củng cố trật tự giới trong hoạt động canh tác của nông hộ1. Ở một khu vực thuần nông, vị trí ưu thế của nam giới trong việc trồng trọt - dù là về thể lực hay khả năng làm chủ kĩ thuật canh tác - có lẽ cũng khiến người ta duy trì mong muốn sinh con trai để sớm có người đỡ đần gia đình trong việc đồng áng. Ngoài ra, theo cách tính phụ hệ, con trai sẽ là người được thừa kế ruộng đất từ ông bà cha mẹ. Việc tiếp nhận tài sản bất động sản như thế cũng có nghĩa là thừa hưởng cả nghề làm nông và những kinh nghiệm canh tác của các thế hệ trước. Những người con trai trong trường hợp này trở thành biểu tượng cho sự nối dài công việc làm nông của thế hệ cha mẹ. Bên cạnh đó, do các mảnh ruộng có vị trí nằm kề nhau tạo thành những cánh đồng có chung hệ thống thủy lợi và giao thông, nên việc thừa kế ruộng đất cũng đồng nghĩa với việc bắt đầu tham gia và duy trì mối quan hệ với những gia đình có ruộng liền kề vốn đã tồn tại từ nhiều thế hệ trước. Là hình ảnh của sức mạnh thể lực, tri thức kĩ thuật canh tác, sự nối tiếp nghề nông cũng như các quan hệ làng xóm, nam giới một mặt thường được gắn với vai trò chủ hộ, mặt khác được gắn với không gian bên ngoài của ruộng đồng. Còn nữ giới thường sẽ về nhà chồng sau khi kết hôn, và việc họ tham gia vào nông nghiệp là để duy trì công việc của gia đình chồng. Trong khi gia đình bên chồng cũng thực hiện những nguyên tắc nối nghiệp theo những người con trai, do đó không gian ruộng đồng có vẻ không dành cho nữ giới, dù là bên nhà cha mẹ ruột hay bên nhà chồng. Thay vào đó, họ được đặt vào không gian gia đình với vai trò là người coi sóc sự êm ấm trong nhà. Họ được khuyến khích làm những công việc mà họ có thể ở nhà hoặc gần nhà để chu toàn vai trò được gắn với phụ nữ. Nhưng điều này không hàm ý một nguyên tắc chia tách công việc giữa nam và nữ; bởi trên thực tế, cả hai đều tham gia vào các công việc nông nghiệp và phi nông nghiệp; nhưng là gắn họ với những tính chất khác 1 Sự chuyển dịch này hàm ý việc nhấn mạnh vai trò nào hơn ở nam giới qua các giai đoạn, sức mạnh thể lực hay việc làm chủ tri thức kĩ thuật canh tác. Bởi trước đây nông hộ vẫn có những kĩ thuật canh tác (như cho ruộng ngập nước và thả vịt vào để diệt rầy, hoặc dùng dây trâm bầu để rẩy một thứ nước chiết xuất từ các loại cây có độc tính để diệt sâu), cũng như thể lực vẫn rất cần trong việc sản xuất nông nghiệp hiện nay. Hơn thế, một thực tế nữa là cả hai loại diễn ngôn này vẫn cùng tồn tại và phổ biến ở các địa bàn vào thời điểm khảo sát. 631 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH nhau và định hình những vai trò khác nhau của họ trong gia đình: nam giới được hướng ra bên ngoài cộng đồng, còn gia đình là nơi dành cho nữ giới.Theo đó, nam giới có ưu thế quyết định các công việc làm ăn và giao tế, trong khi nữ giới nổi trội trong gia đình như việc chăm lo học hành cho con cái (xem Biểu đồ 2); hoặc nam giới lo công việc sản xuất, còn nữ giới giữ tiền và quản lý việc thu chi của gia đình. Những phác họa bước đầu ở trên cho thấy mối quan hệ giới trong nông hộ không chỉ là sự phân chia vai trò theo giới giữa các thành viên trong gia đình với nhau, mà những vai trò này còn phần nào được tạo nên và duy trì bởi những diễn ngôn của cộng đồng. Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp là sinh kế chủ yếu, nam giới dường như có vị trí ưu thế trong đời sống của nông hộ. Tuy nhiên, sự ưu thế này chỉ là một mặt trong sự đối ngẫu với vị trí của nữ giới, như là sự đối ngẫu giữa không gian bên ngoài ruộng đồng và không gian bên trong gia đình. Biểu đồ 1. Phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp của nông hộ tỉnh Tiền Giang Nguồn: Số liệu điều tra của đề tài năm 2014. Biểu đồ 2. Việc quyết định một số công việc trong gia đình của nông hộ tỉnh Tiền Giang 632 Nguồn: Số liệu điều tra của đề tài năm 2014. 4.2.2. Mối quan hệ giới trong phạm vi dòng họ-cộng đồng Những tính chất gắn với nam và nữ ngoài việc định hình vai trò của họ trong gia đình mà còn chi phối đến mạng lưới quan hệ xã hội của họ. Theo đó, sự đối ngẫu về vai trò của hai giới trong phạm vi gia đình ít nhiều cũng định hình tương quan giữa các nhóm xã hội theo giới trong phạm vi dòng họ-cộng đồng1. Khi xem xét không gian sinh hoạt giữa nam giới và nữ giới nơi nhà ở, một điều có thể được quan sát thấy là khi giữa lối xóm có việc cần bàn và cuộc nói chuyện không quá trang trọng, người ta thường ngồi ở bàn trà (được đặt trước hiên hoặc cạnh bàn giữa trong gian khách của mỗi nhà) để trao đổi. Nếu cuộc nói chuyện mang tính trang trọng hơn, hoặc nhà không có bàn trà thì khách sẽ được mời vào ngồi bàn giữa. Điều này có một chút khác biệt trong cuộc nói chuyện giữa nam và nữ. Với cuộc nói chuyện thông thường, họ thường đứng trao đổi trước nhà; hoặc khách nam sẽ được mời ngồi vào bàn trà, còn nữ chủ nhà sẽ ngồi võng được mắc cạnh bên hoặc kéo ghế ngồi ra xa bàn trà một chút (như dấu hiệu của việc không ngồi chung bàn, việc này cũng tương tự với trường hợp nam chủ nhà tiếp khách nữ) và cuộc nói chuyện thường rất ngắn. Ở các tình huống trang trọng, khách nam (ít thấy khách nữ) sẽ được mời ngồi ở bàn giữa, còn nữ chủ nhà sẽ ngồi ở bộ phản được đặt cạnh bên để trao đổi. Đối 1 Ở đây, cộng đồng được hiểu là mối quan hệ làng xóm tại những địa bàn được khảo sát. Ở những nơi này, mối quan hệ dòng họ và mối quan hệ làng xóm thường chồng lấp vào nhau bởi việc con cái khi có gia đình và ra riêng, được thừa kế ruộng đất từ cha mẹ thì ở lại địa phương và sống gần kề nhau. Trong số 240 hộ được khảo sát, có đến 235 hộ sinh sống tại các địa phương từ lâu đời. Chỉ có 5 hộ chuyển đến từ nơi khác, hộ đến lâu nhất là vào năm 1976, còn gần đây nhất là vào năm 2008. 633 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH ngược với không gian ở hiên nhà và gian khách, những nơi như gian bếp vốn gắn với công việc nội trợ và nhất là phòng ngủ vốn là biểu trưng hữu hình của đời sống vợ chồng là nơi rất hạn chế sự có mặt của khách nam. Bên ngoài ngôi nhà, nam giới có thể tụ họp ở nhiều địa điểm, từ nhà ở của những hộ khác, đồng ruộng, đến hàng ăn quán uống để thăm hỏi, thảo luận về những việc có liên quan đến sản xuất nông nghiệp, kinh nghiệm làm ăn. Trong khi nữ giới thường đến nhà của nhau để làm những việc tương tự hơn là tụ tập ở những không gian bên ngoài. Nếu có đi ăn ở hàng quán thì nữ giới thường đi với chồng và con cái, cũng như hạn chế ngồi lâu tán gẫu với những người xung quanh như ở nam giới. Tại những nơi này, thỉnh thoảng họ cũng trao đổi với lối xóm là nam giới về việc làm ăn, hỏi thăm khi nào thì làm việc gì trong mùa vụ để có thể thực hiện đồng loạt, hay về năng suất và giá cả đầu ra. Họ hiếm khi hỏi về các kĩ thuật gieo trồng, phun thuốc hay bón phân thuần túy. Một vài chi tiết kể trên cho thấy rằng không gian sinh hoạt của nam giới có vẻ trải rộng hơn so với của nữ giới. Những vị trí trong nhà gắn với việc giao tế với các mối quan hệ bên ngoài gia đình, như không gian trước nhà, bàn trà, bàn giữa, cũng như những không gian bên ngoài ngôi nhà được dành cho nam giới. Còn những vị trí mang tính tư riêng như võng, bộ phản, phòng ngủ, hoặc gắn với việc nội trợ như gian bếp được dành cho nữ giới. Như thế, tính chất hướng ra không gian bên ngoài ruộng đồng gắn với nam giới và tính chất hướng vào bên trong không gian gia đình gắn với nữ giới không chỉ hàm ý về những không gian vật lý dành riêng cho mỗi giới, mà có lẽ còn là một sự phân định về vai trò xã hội, bởi nó xảy ra ở bên ngoài lẫn bên trong ngôi nhà của nông hộ. Về quan hệ xã hội hay về nhân tố cố kết trong dòng họ-cộng đồng, giữa nam giới và nữ giới có xu hướng liên kết xã hội khác nhau. Mạng lưới xã hội của nam giới có xu hướng gắn với việc sản xuất nông nghiệp và rộng khắp trong cộng đồng. Những người mà họ xem là có uy tín và có thể tham khảo về kĩ thuật canh tác khá đa dạng, trong đó quan trọng nhất là lối xóm. Còn ở nữ giới, nguồn thông tin uy tín để họ tham khảo không đa dạng bằng, chủ yếu là người trong gia đình-dòng họ và lối xóm; theo đó, quan hệ lối xóm có vai trò quan trọng ngang bằng với các quan hệ gia đình-dòng họ. Về nơi ở của những người được xem là có uy tín, phạm vi những nguồn tin của nam giới có khuynh hướng trải rộng hơn, chủ yếu ở trong ấp và trong xã, một số ít ở tỉnh khác; còn nguồn tin của nữ giới có khuynh hướng tập trung hơn, phần đông là ở trong ấp, một số ít hơn trong xã và ở xã khác. Điều này cũng tương tự đối với những 634 nguồn thông tin mà thông qua đó cả hai giới học được kĩ thuật canh tác mới hoặc cách làm ăn mới. Nam giới có một danh sách các nguồn thông tin đa dạng hơn so với nữ giới, và ở mỗi nguồn thông tin, nam giới cũng có tỉ lệ tiếp cận cao hơn (trừ nguồn tin từ bà con họ hàng). Trong đó, ba nguồn tin có vai trò quan trọng ngang nhau là truyền hình, hàng xóm và hội thảo hay tập huấn của các công ty tại địa phương. Ngược lại, ở hầu hết các nguồn tin, nữ giới có tỉ lệ tiếp cận thấp hơn, chỉ có nguồn tin từ bà con họ hàng là cao nhất và nổi bật hơn so với nam giới. Ba nguồn tin quan trọng với nam giới thì cũng quan trọng đối với nữ giới, nhưng tỉ lệ tiếp cận với những nguồn tin này của họ không bằng của nam giới (xem Biểu đồ 3). Điều này một lần nữa minh họa cho hiệu lực của diễn ngôn rằng nam giới là hình ảnh của tri thức kĩ thuật canh tác, cũng như cho thấy hai xu hướng tiếp cận thông tin khác nhau ở cả hai giới. Một trong những mối quan hệ xã hội quan trọng của nam giới là mạng lưới của nhóm bạn kề ruộng. Mạng lưới này gồm những người có ruộng liền kề nhau nằm trong một cánh đồng, cùng dùng chung hệ thống tưới tiêu và đường giao thông và tự liên kết với nhau để có thể canh tác đồng loạt. Cách thức này được họ gọi là “hợp đồng”. Việc này giúp ích rất nhiều cho các nông hộ. Khi sử dụng cùng một loại giống lúa hay làm đất, gieo sạ và thu hoạch cùng thời điểm, các hộ có ruộng liền kề có thể dễ dàng thuê mướn máy móc để làm đất và gặt lúa; cũng như có thể chủ động thương lượng và hợp đồng với thương lái trong việc bán lúa. Ngoài ra, với lịch thời vụ giống nhau, họ có thể chủ động nguồn nước cũng như tăng hiệu quả trong việc phòng trừ sâu bệnh và các loài phá hoại. Tuy nhiên, nhóm bạn kề ruộng không phải là một mạng lưới quan hệ bình đẳng, mà quyền đại diện cho nhóm để quyết định các công việc mùa vụ thuộc về những hộ có nhiều ruộng đất nhất; hoặc am hiểu,vận dụng kĩ thuật canh tác hiệu quả nhất trong cánh đồng; hoặc có ruộng gần với trục giao thông (đường bộ hay đường sông) tùy tình huống, trong đó nhiều ruộng đất thường là tiêu chí quan trọng nhất. Những hộ có ít ruộng đất, hoặc lúa xấu, hoặc nằm cách xa các trục giao thông dù cũng được tham khảo ý kiến nhưng phần lớn họ tùy thuận theo quyết định của những hộ kia. Những hộ có nữ giới đứng chính trong việc làm ruộng thường cũng sẽ theo quyết định của những hộ khác trong cánh đồng, mà phần lớn là của nam giới. Khi xem xét nhóm bạn kề ruộng, điều cần lưu tâm là mạng lưới quan hệ này không chỉ là những mối quan hệ lối xóm của nam giới, nhưng cũng là những mối quan hệ mà họ được tiếp nhận cùng với việc thừa kế đất đai từ thế hệ trước. Theo đó, bên cạnh những khía cạnh về bất động 635 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH sản, nghề nghiệp và các quan hệ xã hội, với những ưu thế từ diện tích và vị trí của đồng ruộng được thừa kế, nam giới cũng kế thừa luôn vị thế của hộ trong cộng đồng nơi cha mẹ họ và họ sinh sống, mà cụ thể là trong mạng lưới bạn kề ruộng. Do các địa bàn đều có sông và kênh bao quanh hoặc cắt qua, nên đồng ruộng ở đây thường ngập nước vào giữa vụ Thu-Đông và Đông-Xuân. Để khởi đầu cho vụ Đông-Xuân, vụ quan trọng nhất do luôn có sản lượng cao nhất trong năm, những hộ có ruộng cùng nằm chung trong một cánh đồng hợp tác với nhau thành những tổ bơm nước dưới sự điều phối của một nhóm gồm ba người (gần như hoàn toàn là nam giới) do các hộ trong cánh đồng bầu ra. Nhóm người điều phối sẽ lên danh sách những hộ có máy bơm nước trong cánh đồng; sắp xếp vị trí bơm nước và theo dõi số nhiên liệu hao tốn để rút hết nước trong cánh đồng; sau đó tính toán chi phí rồi chia bình quân lại cho các hộ theo diện tích đất và công góp máy (nếu có) để thu hoặc trả tiền cho hộ. Có một điểm tương đồng là những người trong nhóm điều phối thường cũng là người đại diện của chính quyền xã/ấp, và/hoặc là những người sản xuất giỏi của địa phương. Khi đó, với thẩm quyền và uy tín về kinh nghiệm sản xuất, họ có thể vận động và điều phối sự tham gia của những hộ khác. Ngoài ra, người dân ở các địa bàn khảo sát cũng được khuyến khích đi học nghề theo chủ trương của Chính phủ. Theo đó, những nông dân sản xuất giỏi của địa phương (và cũng là đại diện của chính quyền xã/ấp) chịu trách nhiệm về việc vận động người dân tham gia và quản lý các lớp học về kĩ thuật làm ruộng. Lớp kéo dài ba tháng, do các kỹ sư ở Phòng Nông nghiệp thị xã Cai Lậy dạy và học viên của các lớp này chủ yếu là nam giới. Như thế, dường như có sự liên hệ giữa hai kiểu quan hệ: mối quan hệ giữa những người nông dân (xét như là lối xóm, bạn kề ruộng) với quan hệ giữa đại diện chính quyền địa phương và người dân (xét trong việc tổ chức các tổ bơm nước và các lớp học nghề). Trong giới hạn của dữ liệu, có thể thấy sự liên hệ này theo kiểu sự thể chế hóa của mối quan hệ sau được dựa trên cơ sở của mối quan hệ trước, mà ở đó nam giới có vai trò nổi bật. Nếu các mối quan hệ của nam giới phần lớn tập trung vào việc sản xuất nông nghiệp thì nữ giới lại hình thành nên những nhóm hụi với mục tiêu tích lũy vốn và kiếm lời. Hẳn nhiên việc quyết định tham gia dây hụi nào xuất phát từ sự bàn bạc của hai vợ chồng trong các gia đình, nhưng phần nhiều nữ giới là người đảm nhận chính trong việc chơi hụi, cả ở vai trò người chơi lẫn người chủ hụi (còn được gọi là “đầu thảo”). Có nhiều hình thức hụi tại các địa phương 636 (như hụi tháng, hụi mùa), trong đó hụi mùa được nhiều người tham gia do gắn với chu kỳ sản xuất nông nghiệp của các nông hộ. Hụi thường được gom sau mỗi mùa vụ, khi các nông hộ đã bán nông sản. Mức đóng mỗi lần khoảng từ 1,5 đến 2,5 triệu đồng. Tùy địa phương mà quy định của các nhóm hụi có sự khác nhau. Do ba tháng mới đóng một lần và tổng số người chơi thường trên 10 người nên mỗi dây hụi phải kéo dài nhiều năm, thường từ ba đến năm năm và số tiền hốt được mỗi kỳ rất lớn. Với số tiền này, nông hộ có thể mua máy móc phục vụ sản xuất, dành dụm để mua thêm đất đai; hoặc sắm đồ dùng lâu bền trong nhà, xây sửa nhà cửa; hoặc đầu tư học hành cho con cái. Ở một số nông hộ, tiền hụi là khoản vốn dài hạn dành để đầu tư hoặc mở rộng công việc làm ăn1, còn thu nhập từ vụ mùa - vốn là thành quả lao động của nam giới - lại chủ yếu dành cho các khoản chi tiêu trong ngắn hạn, bao gồm cả tái đầu tư cho vụ sau. Còn đối với những hộ không đủ điều kiện để vay vốn - công việc phần nhiều do nam giới thực hiện - thì hụi là một khoản đóng góp có ý nghĩa cho việc sản xuất và chi tiêu của họ. Như thế, dù không chiếm ưu thế trong công việc sản xuất, nhưng việc quản lý tài chính trong nhà bao gồm việc tham gia các nhóm hụi, đặc biệt là quản lý các khoản vốn dài hạn từ hụi mùa, phần nào khiến nữ giới có thể tham gia bàn bạc và ra quyết định cùng với nam giới ở hầu hết các công việc trong gia đình (xem lại Biểu đồ 2); hoặc cùng với nam giới dự trù những kế hoạch lớn trong tương lai, bao gồm cả những việc liên quan đến sản xuất nông nghiệp vốn là thế mạnh của nam giới. Với thời gian chơi hụi kéo dài, giá trị của dây hụi lớn và các hoạt động tín dụng trong dây hụi chủ yếu dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, người đầu thảo có những tiêu chí để đánh giá khả năng tham gia của người chơi, và bản thân người chơi cũng đánh giá mức độ tin cậy của nhau. Tiêu chí đầu tiên là khả năng đóng hụi. Ngoài xét xem người chơi có từng nợ hụi ở những lần chơi trước hay không, người ta còn đánh giá thông qua số ruộng đất mà người chơi hụi đang có. Nếu không có đất thì ít nhất hộ đó phải có công việc tạo thu nhập cao hơn mức đóng hụi ở mỗi vụ. Như thế, 1 Như hộ bà The (sinh năm 1964, xã Mỹ Thành Bắc), nhờ chơi hụi mùa và nhất là hụi vàng mà bà mua được hai miếng đất, mỗi miếng năm công; mua được ghe để chồng và con trai lớn cùng đi chở hàng. Do thu nhập có được sau khi hốt hụi vàng không chỉ là khoản lời mà những người hốt trước bỏ ra, mà còn do giá vàng tăng liên tục trong thời gian bà chơi hụi. Hiện bà không còn chơi hụi vàng nhưng vẫn chơi hụi mùa. Dự định của bà là chơi hụi dành dụm để mua thêm ghe cho người con trai út (hiện vẫn còn là học sinh). Chiếc ghe hiện tại có thể để cho người con lớn. Nếu công việc làm ăn thuận lợi, bà còn dự định chơi hụi để xây sửa nhà cửa vì hiện tại nhà bà vẫn là nhà gỗ, lợp tole và khá nóng vào mỗi trưa nắng. 637 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH việc có ít hay nhiều ruộng đất cũng có ảnh hưởng đến việc tham gia các mạng lưới tín dụng ở địa phương của nữ giới. Tiêu chí thứ hai là dây hụi cần có sự tham gia của những người khác trong dòng họ (và cũng thường là nữ giới). Việc những người tham gia có mối quan hệ dòng họ với nhau sẽ làm tăng mức độ tin cậy của dây hụi. Dù thế, nữ giới xem việc chơi hụi như là một công việc làm ăn hơn là nhấn mạnh khía cạnh tương trợ lẫn nhau. Có thể nhận ra một vài điểm khác biệt khi so sánh nhóm bạn kề ruộng (chủ yếu của nam giới) với nhóm hụi (chủ yếu của nữ giới), cũng như có thể nhận thấy mối quan hệ giới trong cộng đồng có phần tương đồng và ít nhiều chịu ảnh hưởng từ mối quan hệ giới trong gia đình. Với nam giới, từ việc là hình ảnh của tri thức kỹ thuật canh tác và được gắn với không gian bên ngoài đồng ruộng, việc vận dụng các mối quan hệ lối xóm để giúp ích cho công việc sản xuất là điều quan trọng. Những mối quan hệ này có thể được thể chế hóa ít nhiều khi được gắn với các kế hoạch, hoạt động của chính quyền địa phương. Ngoài ra, mạng lưới quan hệ bạn kề ruộng cũng có thể được xem là cơ sở về mặt xã hội giúp đáp ứng yêu cầu sản xuất đồng loạt và sử dụng phương tiện cơ giới trong canh tác nông nghiệp của các địa phương. Còn với nữ giới vốn được gắn với không gian bên trong gia đình, mối quan hệ dòng họ có vị trí quan trọng ngang bằng hoặc hơn quan hệ lối xóm, và các mối quan hệ này được vận dụng nhằm tạo ra những lợi ích về mặt tín dụng. Nói cách khác, mạng lưới quan hệ dòng họ và lối xóm có thể được xem như những dòng lưu chuyển vốn để hỗ trợ cho việc đầu tư sản xuất và chi tiêu của hộ, bên cạnh những dòng vốn khác ở các địa phương. Dù nam giới và nữ giới có xu hướng tham gia vào các mạng lưới quan hệ xã hội khác nhau với những mục tiêu khác nhau, nhưng những vai trò này có sự tương hỗ với nhau: một phần thu nhập từ các vụ mùa - thành quả từ lao động và sự liên kết của nam giới - được tích lũy và sinh lời thông qua các nhóm hụi - gồm mạng lưới các quan hệ dòng họ và lối xóm của nữ giới, sau đó được tái đầu tư cho việc sản xuất và chi tiêu của gia đình. Thực ra với kiểu canh tác truyền thống trước đây khi việc gieo mạ và cắt lúa bằng tay vẫn còn phổ biến, phụ nữ ở các địa phương cũng liên kết thành những nhóm cấy giặm và cắt lúa, có thể làm thuê cho những nông hộ khác hoặc vần công cho nhau. Nhưng việc thay đổi kỹ thuật canh tác từ gieo cấy sang sạ lúa, cũng như việc sử dụng máy gặt đập liên hợp đã khiến những hình thức liên kết này của nữ giới không còn tồn tại. Như thế, sự thay đổi kỹ thuật canh tác cũng góp phần thúc đẩy xu hướng đưa nữ giới ra khỏi phạm vi đồng ruộng, để vị trí ưu thế lại cho 638 nam giới, cũng như định hình những mạng lưới quan hệ xã hội có các chức năng khác nhau cho cả hai giới. Biểu đồ 3. Việc tiếp cận các nguồn thông tin về kĩ thuật canh tác mới hoặc cách làm ăn mới theo tiêu chí giới Nguồn: Số liệu điều tra của đề tài năm 2014. 4.2.3. Mối quan hệ giới trong đời sống tâm linh Do đời sống tâm linh ở nông thôn là một địa hạt nghiên cứu rộng lớn nên trong khuôn khổ có giới hạn, bài viết tập trung trình bày mối quan hệ giới trong một nghi lễ gắn liền với sản xuất nông nghiệp của nông hộ, cụ thể là tục cúng ruộng, đối chiếu với một vài nghi thức trong tục thờ cúng tổ tiên. Nghi lễ cúng ruộng có mục đích là cầu xin mưa thuận gió hòa, cây trồng ít mắc sâu bệnh để có một vụ mùa bội thu. Đối tượng được cúng trong nghi lễ khá đa dạng tùy theo mỗi gia đình, nhưng nhìn chung các hộ đều cầu khấn với Thần Nông và ông bà tổ tiên. Nghi lễ thường được thực hiện tại mảnh ruộng hương hỏa, hoặc mảnh có diện tích lớn nhất, hoặc thường đạt năng suất cao nhất của hộ. Các nông hộ thường cúng vào đầu vụ, trước khi sạ lúa, và dịp cúng quan trọng nhất là vụ Đông-Xuân. Lúc sáng sớm, người vợ sẽ đi chợ để chuẩn bị thức cúng. Ngoài những món bắt buộc phải có là nhang đèn và hoa quả, tùy điều kiện mỗi nhà mà nông hộ có thể chuẩn bị đồ mặn như gà hoặc vịt luộc, cháo và rượu; hoặc đồ ngọt như xôi, chè và trà. Sau đó cả hai vợ chồng cùng ra đồng, bày mâm cúng và khấn vái. Cả vợ và chồng đều có thể đại diện gia đình trong việc cầu khấn. Khi nghi lễ kết thúc, người chồng sẽ mời bạn bè lối xóm, nhất là những bạn kề ruộng đến ăn uống và thảo luận chuyện đồng áng, còn phụ nữ sẽ trở về nhà. Với những hộ kề ruộng có kế hoạch sạ chung để vần công với nhau, họ cũng góp tiền hoặc thức cúng để cúng chung. Xét về quan hệ giới, tục cúng ruộng dường như giúp tái khẳng định những biểu trưng trong gia đình và cộng đồng của nam và nữ. Với nam giới, trước đây khi nông hộ còn gieo cấy, mâm cúng ruộng được bày trên bàn so mạ - 639 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH công cụ gắn với hình ảnh về sức mạnh thể lực và kinh nghiệm làm nông của nam giới1. Còn hiện nay, do các nông hộ đã chuyển sang hình thức sạ lan nên họ không còn sử dụng bàn so mạ trong canh tác lẫn cúng kính. Thay vào đó, họ thường bày mâm cúng trên đất khi cúng ruộng. Sự thay đổi về hình thức cúng ruộng như thế ít nhiều có liên hệ với sự suy giảm hiệu lực của diễn ngôn về sức mạnh của nam giới mà nguyên nhân là có sự thay đổi về kỹ thuật canh tác. Kế đến, việc chọn cúng tại mảnh ruộng hương hỏa, mảnh có diện tích lớn nhất, hoặc mảnh có năng suất cao phần nào phản ánh quan hệ kế thừa tài sản theo dòng phụ hệ hoặc mong muốn thành công trong việc làm nông mà nam giới là nhóm chiếm ưu thế. Theo đó, thông qua tục cúng ruộng, sự nối tiếp giữa các thế hệ mà chủ yếu là của những người nam trong gia đình được duy trì, bởi việc nhắc nhớ công ơn các tiền nhân trong quá trình thực hành nghi lễ, cũng như xác định trách nhiệm thờ cúng, duy trì nghề nghiệp vốn gắn liền với việc thừa kế đất hương hỏa của thế hệ sau đối với những thế hệ trước đó. Cuối cùng, tục cúng ruộng cũng góp phần tái xác nhận hình ảnh của nam giới với mạng lưới quan hệ xã hội bên ngoài qua việc củng cố mạng lưới bạn kề ruộng của nam giới. Trong nghi lễ, quan hệ bạn kề ruộng - với nền tảng là việc “hợp đồng” sản xuất - một lần nữa được tái tạo và thể hiện qua việc họ cùng chia sẻ thế giới quan và những thực hành tâm linh chung. Đây cũng là một dịp quan trọng, thời điểm khởi đầu mùa vụ để họ gặp gỡ, trao đổi và giúp đỡ nhau, từ đó giúp thắt chặt mối quan hệ giữa họ, tạo điều kiện để họ cùng nhau hợp tác sản xuất. Mặt khác, vai trò nổi bật của nam giới trong tục cúng ruộng như thế không đồng nghĩa với vai trò thứ yếu của nữ giới trong nghi lễ này nói riêng, trong đời sống tâm linh của nông hộ nói chung. Ngược lại, số liệu từ khảo sát đại trà cho thấy giữa nam và nữ có sự khác biệt về niềm tin vào số phận (và cũng là nhân tố duy nhất có sự khác biệt về giới). Ở nhân tố thứ ba này, tỉ lệ nữ giới đồng ý với các mệnh đề được khảo sát có xu hướng cao hơn so với nam giới và sự khác biệt này có ý nghĩa về thống kê. Trong tục cúng ruộng, nữ giới có thể cùng chồng, 1 Với kiểu canh tác truyền thống, nam giới vẫn tham gia công việc cấy mạ qua việc nhổ, so và bó mạ. Dụng cụ hỗ trợ cho công việc này là bàn so mạ (gồm một mặt bàn thường được đan bằng tre, kích thước 30x50cm; chân bàn là một cột gỗ dài gần đến ngực người so mạ, một đầu lắp vào mặt bàn tre, một đầu được vót nhọn để cắm xuống đất). Để so mạ, họ đặt bàn trước mặt mình, nhổ một bó mạ rồi đặt lên bàn để so cho bó mạ bằng gốc, đồng thời ước lượng số cây mạ cho vừa cấy, rồi quấn lạt quanh gốc mạ và ném trở lại ruộng. Người so mạ nhổ mạ đến đâu thì nhấc bàn đem theo đến đấy. Do việc so mạ đòi hỏi người có sức khỏe để nhổ mạ, đồng thời có kinh nghiệm để ước lượng số cây mạ nên hầu như chỉ có nam giới làm việc này, và một xóm cũng chỉ có vài người như thế. 640 hoặc thậm chí có thể đại diện gia đình để đứng ra cầu khấn. Nhưng trong việc tổ chức nghi lễ, nữ giới đảm nhận công việc chuẩn bị thức cúng vốn liên quan với vai trò nội trợ của họ trong gia đình và họ hầu như không tham gia vào những bữa tiệc sau lễ cúng của nhóm nam giới. Điều này có vẻ tương tự với việc thờ cúng tổ tiên trong nhà. Với những trường hợp quan sát được, nữ giới cũng có thể thay mặt gia đình thắp nhang và cúng nước vào rạng sáng mỗi ngày (hoặc cuối mỗi ngày) trên bàn thờ ông bà, kể cả khi ở bên gia đình chồng. Nhưng trong dịp cúng giỗ, họ thường đảm nhận công việc bếp núc, trong khi việc tiếp đãi khách thường được xem là công việc của nam giới. Như thế, những biểu trưng dành cho nam và nữ trong gia đình và cộng đồng phần nào cũng được phản ánh trong đời sống tâm linh. Ở phương diện ngược lại, những thực hành tín ngưỡng của nông hộ cũng tái tạo và củng cố các vai trò của nam giới và nữ giới trong phạm vi gia đình và cộng đồng. 5. Kết luận Trong phạm vi của dữ liệu thu thập được, bài viết là sự nỗ lực nhằm cung cấp một vài chiều cạnh nổi bật của mối quan hệ giới trong gia đình và cộng đồng ở các địa bàn nông thôn tỉnh Tiền Giang, đồng thời đặt ra một vài giả thuyết từ việc xâu chuỗi những chiều cạnh được ghi nhận. Theo đó, bài viết bổ sung cho cách nhìn nam và nữ như là hai cực hoàn toàn đối lập bằng cách tìm kiếm các cặp đối ngẫu trong mối quan hệ giới và đặt chúng vào những phạm vi phân tích khác nhau để kiểm tra về mức độ phổ biến của chúng, từ đó giúp nhận ra cấu trúc giới nằm bên dưới các dữ kiện đó. Cấu trúc này sau đó được đặt vào tiến trình thời gian để kiểm tra liệu có những biến đổi nào đã xảy ra và nguyên nhân chủ yếu là do đâu. Bên cạnh việc phân tích theo tiến trình thời gian, việc vận dụng các thao tác định lượng cũng phần nào cho thấy hiệu lực của cấu trúc được rút ra. Trong trường hợp này, sự khác biệt về số liệu thống kê giữa nam và nữ thường không quá lớn. Điều này dự báo rằng cấu trúc được rút ra chỉ tồn tại như là những xu hướng trong đời sống của các gia đình và cộng đồng được khảo sát, chứ không phải là những khuôn mẫu có tính chi phối hay kiểm soát. Các trường hợp được khảo sát cho thấy dường như có sự đối ngẫu các đặc tính xã hội trong mối tương quan giữa nam giới và nữ giới, cũng như ở hai giới có sự tương hỗ để duy trì sự tồn tại của nông hộ. Nam giới được gắn với không gian bên ngoài ruộng đồng - với hình ảnh của sức mạnh thể lực; tri thức 641 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH kỹ thuật canh tác; người thừa kế đối với đất đai, nghề nông, các quan hệ xã hội liên quan đến việc canh tác nông nghiệp và vị thế gia đình từ những thế hệ trước. Trong khi đó, nữ giới bị tách khỏi không gian ruộng đồng và được gắn với không gian bên trong gia đình với công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, quản lý thu chi của gia đình hoặc cũng có thể làm những công việc ở gần nhà. Những đặc trưng xã hội của hai giới trong gia đình phần nào định hình các mạng lưới xã hội ở cộng đồng mà họ sẽ tham gia. Nam giới có mạng lưới xã hội rộng khắp bên trong lẫn ngoài cộng đồng, trong đó các quan hệ xã hội có liên hệ với sản xuất nông nghiệp trở nên nổi bật. Còn nữ giới lại chủ yếu tập trung vào các mối liên hệ với dòng họ và lối xóm, trong đó đáng chú ý là mạng lưới tín dụng của hụi mùa. Trong chiều ngược lại, nam giới vận dụng các mối quan hệ của họ để hỗ trợ việc canh tác, tạo thu nhập cho gia đình. Nữ giới sử dụng một phần thu nhập này để tích lũy và kiếm lời qua nhóm hụi mùa của họ và giúp nông hộ mua thêm ruộng đất hoặc tạo thêm cơ sở làm ăn. Sự bổ trợ lẫn nhau này có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc quyền quyết định những công việc quan trọng trong nhà ở các trường hợp khảo sát đa phần đều có sự tham gia của cả vợ lẫn chồng. Như thế, mối quan hệ giới ở cấp độ cộng đồng cũng giúp củng cố mối quan hệ giới ở cấp độ gia đình. Ngoài ra, các đặc trưng xã hội của hai nhóm nam và nữ, cùng với đó là các mối liên hệ xã hội của họ cũng được phản ánh vào đời sống tâm linh, ít nhất qua tục cúng ruộng và thờ cúng tổ tiên. Những điều này có thể đưa đến phán đoán về tính cấu trúc trong mối quan hệ giới ở các trường hợp khảo sát. Bởi những hình ảnh biểu trưng cho nam giới và nữ giới (hay giữa vợ và chồng) trong mối quan hệ của cả hai vừa là cơ sở, vừa lồng ghép với mối quan hệ giới trong phạm vi gia đình nói chung, trong phạm vi cộng đồng, cũng như trong hoạt động cúng kính. Theo đó, cấu trúc giới dường như tồn tại xuyên suốt hay thẩm thấu trong từng cấp độ xã hội nhờ vào việc đảm bảo cho các biểu trưng gắn với mỗi giới luôn có hiệu lực tương tự nhau ở các cấp độ xã hội khác nhau. Điều này có nghĩa là mỗi cá nhân chỉ có thể thực hiện tốt vai trò giới của mình khi hành động của họ là sự tái khẳng định cấu trúc của các biểu trưng, bao gồm cả việc tham gia vào các mạng lưới xã hội được hình thành từ cấu trúc đó. Tuy nhiên, cấu trúc này không phải là những ý niệm có sẵn một cách tiên khởi và trường tồn. Thay vào đó, nó tồn tại dưới dạng những diễn ngôn, những biểu trưng, hoặc các hành vi cụ thể; và nó có sự dịch chuyển ít nhiều khi cộng 642 đồng có những thay đổi về mặt kỹ thuật sản xuất. Chẳng hạn như mô hình giới trong sự phân công lao động không cố định mà đã có sự dịch chuyển trong gần ba thập kỉ qua, và một trong những nguyên nhân là do sự thay đổi kỹ thuật canh tác. Cụ thể là hình ảnh của nam giới trước đây vốn gắn liền với sức mạnh thể lực thì nay đã chuyển sang nhấn mạnh đến việc làm chủ tri thức kỹ thuật. Còn với nữ giới, sự tham gia của họ vào mùa vụ cũng như các kiểu liên kết canh tác bên ngoài phạm vi gia đình-dòng họ bị suy giảm, khiến họ dường như vắng mặt hoặc trở nên kém nổi bật trong việc canh tác ngoài đồng ruộng. Theo đó, việc cải tiến kỹ thuật canh tác đã góp phần làm cho các đặc trưng xã hội của hai nhóm nam và nữ - cùng với đó là các mối liên hệ xã hội của họ - trở nên rạch ròi hơn. Như thế, ở các trường hợp khảo sát, nam giới có vẻ nổi bật trên diện mạo của gia đình và cộng đồng bởi gắn với công việc làm nông vốn là công việc chủ đạo, nhưng họ chỉ là một phía trong một cấu trúc về giới tồn tại xuyên suốt qua các cấp độ xã hội. Bởi thực sự, nữ giới vẫn có những cách thức tham gia và giữ vai trò quan trọng trong đời sống của gia đình và cộng đồng. Cả hai giới được sắp xếp vào những vai trò có thể hỗ trợ nhau; và ngược lại, việc thực hiện vai trò của họ giúp duy trì cách thức sắp xếp đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Thị Lệ Hằng. 2008. “Ứng xử giữa vợ chồng trong hoạt động kinh tế và quản lý ngân sách sinh hoạt gia đình”. Hà Nội: Tạp chí Tâm lý học, số 7(112)-2008, tr. 36-42. 2. Hoàng Bá Thịnh. 2009. “Quan hệ giới trong cộng đồng vạn đò”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 2-2009, tr. 3-13 3. Lê Ngọc Văn. 2008. “Quan niệm về người chủ gia đình”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5-2008, tr. 3-12. 4. Lê Thị Hồng Hải, Nguyễn Hữu Minh, An Thanh Ly. 2012. “Vai trò trụ cột kinh tế trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay: Nam giới và những chiến lược khẳng định nam tính”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 6-2012, tr. 88-97. 5. Lê Thị Hồng Hải, Phạm Thanh Vân. 2012. “Quyền quyết định đối với nhà, đất ở của vợ chồng trong gia đình hiện nay (Qua cuộc khảo sát tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc)”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5-2012, tr. 54-64. 6. Lê Thị Thục. 2014. “Biến đổi cấu trúc quyền lực giới trong gia đình Việt 643 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Nam thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa”. TPHCM: Tạp chí Khoa học xã hội TPHCM số 09(193)-2014, tr. 13-24. 7. Lê Thi. 2009. “Phân công lao động và quyết định công việc gia đình (qua nghiên cứu ở Hưng Yên và Hà Nội)”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5-2009, tr. 16-25. 8. Lỗ Việt Phương. 2011. “Quan hệ cha mẹ-con cái trong gia đình nhìn từ góc độ giới (Tổng quan kết quả nghiên cứu Việt Nam từ năm 2005 đến nay)”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5-2011, tr. 32-43. 9. Nguyễn Văn Tiệp. 2015. Bất bình đẳng giới về cơ hội giáo dục ở Đồng bằng sông Cửu Long”. TPHCM: Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 18, số X5-2015, tr. 75-86. 10. Phạm Văn Bích. 2011. “Giới và quan hệ giới ở nông thôn châu Âu qua tạp chí Sociologia Ruralis”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 1-2011, tr. 44-56. 11. Trần Hạnh Minh Phương. 2016. "Phân công lao động trong gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long từ góc nhìn giới". TPHCM: Tạp chí Khoa học xã hội TPHCM, số 3(211)-2016, tr. 21-37. 12. Trần Thị Anh Thư. 2010. “Quan niệm và thái độ của vợ chồng trẻ về bình đẳng giới trong gia đình”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5-2010, tr. 74-84. 13. Trần Thị Cẩm Nhung. 2009. “Quyền lực của vợ và chồng trong việc quyết định các công việc của gia đình”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4-2009, tr. 31-43. 14. Trần Thị Hồng. 2009. “Quan hệ vợ chồng trong đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất ở: Thực trạng và các yếu tố tác động”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 2-2009, tr. 14-25. 15. Trần Thị Vân Anh. 2007. “Đóng góp kinh tế của vợ và chồng”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5-2007, tr. 3-14. 16. Vũ Thị Cúc. 2007. “Vấn đề thu nhập và quyền quyết định trong gia đình nông thôn hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội)”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 6-2007, tr. 41-52. 17. Vũ Thị Thanh. 2009. “Bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay (Qua khảo sát tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội)”. Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 1-2009, tr. 35-46.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf49_7285_2207266.pdf