Câu tồn tại tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu

Tài liệu Câu tồn tại tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 39 Câu tồn tại tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu Vietnamese Existential Sentences from the Prototype Theory Nguyễn Thị Thanh Thảo, Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng Nguyen Thi Thanh Thao, Ly Tu Trong College Ho Chi Minh City TS. Trần Thị Phương Lý, Trường Đại học Sài Gòn Tran Thi Phuong Ly, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Với hướng phát triển mới, lí thuyết điển mẫu thuộc ngôn ngữ học tri nhận đã tạo nên một cách phân loại mới đối với ngôn ngữ học, trong đó có vấn đề câu tồn tại- một trong những vấn đề hiện còn nhiều tranh luận trong giới ngôn ngữ học. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các đặc trưng điển mẫu của câu tồn tại tiếng Việt; từ đó tìm ra thành viên điển mẫu và thành viên không điển mẫu của phạm trù câu tồn tại tiếng Việt. Từ khóa: lí thuyết điển mẫu, câu tồn tại. Abstract The existential sentence, which has been a controversial issue in linguistics, is a broad su...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Câu tồn tại tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 39 Câu tồn tại tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu Vietnamese Existential Sentences from the Prototype Theory Nguyễn Thị Thanh Thảo, Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng Nguyen Thi Thanh Thao, Ly Tu Trong College Ho Chi Minh City TS. Trần Thị Phương Lý, Trường Đại học Sài Gòn Tran Thi Phuong Ly, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Với hướng phát triển mới, lí thuyết điển mẫu thuộc ngôn ngữ học tri nhận đã tạo nên một cách phân loại mới đối với ngôn ngữ học, trong đó có vấn đề câu tồn tại- một trong những vấn đề hiện còn nhiều tranh luận trong giới ngôn ngữ học. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các đặc trưng điển mẫu của câu tồn tại tiếng Việt; từ đó tìm ra thành viên điển mẫu và thành viên không điển mẫu của phạm trù câu tồn tại tiếng Việt. Từ khóa: lí thuyết điển mẫu, câu tồn tại. Abstract The existential sentence, which has been a controversial issue in linguistics, is a broad subject for research with a variety of sentence types. Cognitive linguistics has suggested several detailed explanations of language phenomena related to people’s knowledge (cognition). Prototype theory of categorization method has created a new way of classification in linguistics. Prototype is a theory concerning the symbolic level of the components. Based on this theory, this research presents the typical types of existential sentences in Vietnamese, then considers each category and finds out the typical and untypical constituents among them. Keywords: existential sentence, prototype theory. 1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, ngôn ngữ học tri nhận ngày càng phát triển mạnh mẽ, chứng tỏ vai trò của tư duy, tri nhận của con người đối với ngôn ngữ.Lí thuyết điển mẫu là một vấn đề quan trọng trong ngôn ngữ học tri nhận.Việc ứng dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên cứu các vấn đề thực tiễn của tiếng Việt là một hướng nghiên cứu mới mẻ, hứa hẹn mang lại những kết quả khả thi. Hiện nay, sự thừa nhận có hay không có câu tồn tại trong tiếng Việt là một vấn đề quan yếu của ngôn ngữ học.Bên cạnh đó, các nhà Việt ngữ học cũng đã đào sâu nghiên cứu các khía cạnh của câu tồn tại từ các khía cạnh đặc trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Xem xét câu tồn tại từ lí thuyết điển mẫu sẽ giúp khám phá được các đặc trưng điển mẫu của câu tồn tại tiếng Việt; từ đó tìm ra thành viên điển mẫu và thành viên không điển mẫu của phạm trù câu tồn tại tiếng Việt. 2. Lí thuyết điển mẫu (prototype) Con người nhận thức các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan bằng phương thức phạm trù hóa. Dựa vào cách thức phạm CÂU TỒN TẠI TIẾNG VI T NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐIỂN MẪU 40 trù hóa, con người nhận thức được mọi sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể, hệ thống, tất cả đều có mối quan hệ với nhau, mọi tư duy trở nên logic, chặt chẽ. Là vấn đề trung tâm của phạm trù hóa, lí thuyết điển mẫu là một lí thuyết phân loại dựa vào mức độ đáp ứng các đặc trưng, thuộc tính của phạm trù. Rosch là người đầu tiên đề xuất thuật ngữ “prototype” (điển mẫu) và định nghĩa điển mẫu “là thành viên trung tâm của loại, thể hiện có hệ thống những đặc điểm nổi bật nhất hay tính chất tiêu biểu nhất so với các thành viên khác” [5, 19]. Các phạm trù sẽ được xác định bởi các đặc trưng, thuộc tính điển mẫu của các thành viên. Để xét một thành viên có được xếp vào phạm trù này hay không cần dựa vào các đặc trưng điển mẫu của phạm trù. Ví dụ phạm trù “chim” đươc xác định bởi những đặc trưng của các thành viên điển mẫu trong thực tế. Phạm trù “chim” có những thuộc tính điển hình như [lông vũ], [có cánh], [bay], [đẻ trứng] Các thành viên như “chim bồ câu”, “chim én” là những thành viên điển mẫu của phạm trù “chim”, các thành viên này đáp ứng được các tiêu chí điển mẫu của phạm trù. Còn “chim cánh cụt” là thành viên không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí điển mẫu (không đáp ứng được tiêu chí [bay]). “Chim cánh cụt” là một thành viên của phạm trù “chim”, tuy nhiên không phải là thành viên điển mẫu. Lakoff trong công trình Women, Fire and Dangerous thing (Đàn bà, lửa và những thứ hiểm nguy) đã từng nhận định: “Bên trong phạm trù có hiệu quả điển mẫu, tức là một số thành viên dùng làm thành viên mẫu cho phạm trù tốt hơn những thành viên khác” [5, 25]. Như vậy, thành viên “chim bồ câu, chim én” là những thành viên điển mẫu nhất cho phạm trù “chim”. Theo tác giả Lý Toàn Thắng [12], phạm trù điển dạng (điển mẫu) bao gồm: “1. Các thành viên điển dạng của phạm trù tri nhận có nhiều nhất các thuộc tính chung với các thành viên khác của cùng phạm trù và có ít nhất các thuộc tính cũng thấy ở các phạm trù lân cận; nghĩa là về phương diện các thuộc tính thì các thành viên điển dạng sẽ khác biệt tối đa với các thành viên điển dạng của các phạm trù khác. 2. Các thí dụ tồi (hay các thành viên phạm trù ngoại vi) chỉ có chung một, hai thuộc tính với các thành viên khác cùng phạm trù, nhưng có một số thuộc tính vốn cũng thấy ở các phạm trù khác, nghĩa là ranh giới giữa các phạm trù là ranh giới mờ. 3. Các điển dạng của các phạm trù tri nhận không phải là bất biến, mà chúng có thể thay đổi; cấu trúc nội tại tổng thể của một phạm trù cũng khả biến như vậy, tùy thuộc vào bối cảnh (actual context) tri nhận cụ thể, các mô hình (model) tri nhận và văn hóa” [12; 36]. Tóm lại, lí thuyết điển mẫu không phân chia rạch ròi giữa hai phạm trù “có hoặc không”. Các thành viên tùy vào mức độ đáp ứng các đặc trưng điển mẫu của phạm trù để xét thành viên có thuộc vào phạm trù này hay không; nếu thuộc vào phạm trù thì là thành viên điển mẫu (“thí dụ tốt”) hay là thành viên không điển mẫu (“thí dụ tồi”) (phi điển mẫu). Thành viên điển mẫu là những thành viên đáp ứng đầy đủ các đặc trưng điển hình của phạm trù, và không sở hữu các đặc tính của các phạm trù khác. Thành viên không điển mẫu là những thành viên đáp ứng không đầy đủ các đặc trưng và có những đặc trưng thuộc phạm trù khác. Các thành viên của phạm trù sẽ có những điểm chung theo kiểu họ hàng, thành viên A sẽ có những đặc trưng NGUYỄN THỊ THANH THẢO – TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ 41 giống thành viên B, thành viên B có những đặc trưng tương tự C, A và C có những đặc trưng gần gủi nhau. Tuy nhiên, các đặc trưng của chúng không trùng lặp nhau.Các thành viên điển mẫu sẽ là trung tâm của phạm trù. Những thành viên không điển mẫu sẽ tùy thuộc vào mức độ đáp ứng các tiêu chí thuộc tính để nằm ở gần trung tâm hay là xa dần ngoại biên. 3. Ứng dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên cứu câu tồn tại tiếng Việt Theo quan điểm của Diệp Quang Ban, câu tồn tại là những câu thể hiện được sự tồn tại, xuất hiện hay tiêu biến của sự vật. Trong tiếng Việt, cấu trúc chung của câu tồn tại là: Thể từ vị trí + vị từ + thể từ Hay cụ thể hơn: = + <Vị từ> + Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp cho rằng câu tồn tại cho ta biết ở một không gian xác định đang tồn tại hoặc không tồn tại đối tượng nào đó và đưa ra “vị từ khuôn hình trong câu tồn tại có thể là: Các từ chuyên dụng biểu thị ý nghĩa tồn tại như: có, còn, hết, các từ chỉ lượng: nhiều, ít, đông, đầy Các từ tượng hình (hay tượng thanh) như: lấp lánh, chồm chỗm, lù lù Một số động từ chỉ hoạt động có tính chất hoạt động “thoả mãn các điều kiện sau đây: 1. Những động từ này phải là những động từ chứa sẵn mối liên hệ tham biến trong không gian nội dung ý nghĩa của mình. 2. Những động từ này phải là những động từ lưu kết quả, vì đó là cơ sở cần thiết để tạo ra ý nghĩa về trạng thái tĩnh tại” [11; 308]. Ví dụ: (a). Trên bàn có một cuốn sách. (b). Đằng xa tiến lại hai người đàn bà. (c). Sau vườn trồng hai cây na. (d). Có tiền. Trong bài viết này, chúng tôi tổng kết lại câu tồn tại điển mẫu có những thuộc tính cơ bản sau: 1. Câu chứa vị từ tồn tại điển mẫu: “có”. “Có” là một động từ mang ý nghĩa tồn tại điển mẫu, bản thân nghĩa của từ “có” là sự tồn tại của sự vật, hiện tượng một cách thuần túy và khách quan. 2. Xác định sự tồn tại của đối tượng trong một không gian, phạm vi cụ thể, rõ ràng. 3. Thể hiện được phạm trù khẳng định hay phủ định, hay tồn tại hay không tồn tại của đối tượng. 4. Mục đích ngữ nghĩa chính của câu là xác định sự tồn tại hay không tồn tại của đối tượng. Đối chiếu với các thuộc tính điển mẫu của phạm trù câu tồn tại tiếng Việt, chúng tôi nhận thấykiểu câu điển mẫu nhất của phạm trù câu tồn tại tiếng Việt chính là câu vị từ trung tâm là động từ “có” và có cấu trúc: Thể từ vị trí + “có” + thể từ Hay: = + + Ví dụ: (a). Trên bàn có cuốn sách. (e). Trong phòng có người. (f). Dưới hồ có cá. Kiểu câu tồn tại có cấu trúc như trên có vị từ trung tâm là động từ “có” xác định được sự tồn tại của đối tượng trong một không gian cụ thể (“trên bàn”, “trong phòng”, “dưới hồ”). Với sự vắng mặt của yếu tố phủ định “không”, các câu trên đều khẳng định sự tồn tại của các đối tượng, thể hiện phạm trù khẳng định của câu. Câu CÂU TỒN TẠI TIẾNG VI T NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐIỂN MẪU 42 mang phạm trù phủ định, phủ nhận sự tồn tại của sự vật, yếu tố phủ định “không” sẽ kết hợp với động từ “có” tạo thành cụm phủ định “không có” (ví dụ: Trên bàn không có cuốn sách; Trong phòng không có người; Dưới hồ không có cá). Động từ “có” làm trung tâm của câu, vì vậy trung tâm ngữ nghĩa của câu chính là sự tồn tại của đối tượng chứ không phải là vị trí không gian. Để xác định thành phần chính của câu, chúng ta đặt câu hỏi “Có cái gì ở trên bàn?” hoặc “Trên bàn có cái gì?” và câu trả lời sẽ là “Trên bàn có cuốn sách”. Nếu trung tâm ngữ nghĩa là vị trí không gian thì câu hỏi sẽ là “Cuốn sách ở đâu” => “Cuốn sách ở trên bàn” chứ không phải “Trên bàn có cuốn sách”. Như vậy, thành viên điển mẫu của phạm trù câu tồn tại chính là câu có cấu trúc “thể từ vị trí + “có” + thể từ”. Tinh thần của lí thuyết điển mẫu là thang độ của các thành viên. Ngoài thành viên điển mẫu trung tâm của phạm trù, câu tồn tại tiếng Việt còn có những thành viên không điển mẫu sau: a. Câu tồn tại có cấu trúc: “thể từ vị trí + vị từ tư thế, trạng thái tĩnh + thể từ”. Hay: + <vị từ tư thế, trạng thái tĩnh> + Ví dụ: (g). Trên ghế để hai tờ báo mới. (h). Giữa phòng đặt một bộ bàn ghế uống nước. Nguyễn Văn Hiệp cho rằng đây là một kiểu kết cấu thường gặp trong câu tồn tại. Ví dụ: Trên bàn đặt một lọ hoa. Ông đã phân tích trên hai phương diện ngữ pháp và ngữ nghĩa, phân tích cụ thể: - Về phương diện ngữ nghĩa: Trên bàn/ đặt/ một lọ hoatương ứng với vai vị trí/ vị từ tồn tại/ chủ thể tồn tại. - Về phương diện ngữ pháp: Trên bàn/ đặt/ một lọ hoa tương ứng với “chủ ngữ/ vị ngữ/ bổ ngữ” [6; 331]. Nguyễn Văn Hiệp bác bỏ quan điểm “đồng nhất vai nơi chốn với vai trạng ngữ của câu” và khẳng định “trên bàn” là một thành phần bắt buộc phải có trong câu tồn tại. Trong kiểu cấu trúc này, vị trí không gian được xác định. Trong phạm vi không gian, đối tượng được đề cập biểu thị trạng thái, tính chất hoặc tư thế. Cũng như kiểu câu điển mẫu, không gian ở đây được xác định một cách cụ thể và rõ ràng. Điều đáng lưu ý, vị trí không gian trong trường hợp này có mối quan hệ chặt chẽ với vị trí hay điểm nhìn của người nói. Trung tâm vị từ của câu tồn tại không còn là động từ mang ý nghĩa tồn tại, nhưng xét về mặt ngữ nghĩa, bằng cách gián tiếp, kiểu câu này vẫn mang ý nghĩa thể hiện sự tồn tại của sự vật, đối tượng, trong vị trí không gian cụ thể. Vị từ trung tâm là tư thế, trạng thái, tính chất nên cốt lõi của sự tình là sự tồn tại của chủ thể trong một tư thế, trạng thái, cách thức tồn tại cụ thể. Ví dụ: “để” (“hai tờ báo”); “đặt” (“bộ bàn ghế uống nước”). Sự tình trong câu được xác định ở phạm trù khẳng định hay phủ định (ví dụ: Trên ghế để hai tờ báo mới là câu mang ý nghĩa khẳng định). Thành phần vị ngữ trong kiểu câu này thường được phát triển, sau danh từ/ danh ngữ thường có định ngữ bổ sung ý nghĩa (“mới”, “uống nước”). Như vậy, trong bốn đặc trưng của câu tồn tại điển mẫu, kiểu kết cấu “thể từ vị trí + vị từ tư thế, trạng thái tĩnh + thể từ” đáp ứng được ba tiêu chí, là thành viên không điển mẫu của phạm trù. b. Câu tồn tại có cấu trúc “thể từ vị trí + vị từ quá trình, hành động + thể từ”. Hay: + <vị từ quá NGUYỄN THỊ THANH THẢO – TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ 43 trình, hành động> + Ví dụ: (b). Đằng xa tiến lại hai người đàn bà. (i). Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống dồn dập, vội vã. (k). Đằng xa văng vẳng tiếng còi đêm. Trong kiểu câu này, vị từ trung tâm của câu tồn tại là vị từ thể hiện một quá trình, hành động, đặc biệt vị từ ở trong trạng thái động kèm theo hướng vận động. Ví dụ: Đằng xa tiến lại hai người đàn bà, vị từ trung tâm “tiến lại” thể hiện một hành động có chủ đích và hướng không gian từ xa đến phía người nói. Vị từ trung tâm không mang ý nghĩa tồn tại, nhưng là một quá trình, hành động nên gián tiếp thể hiện sự tồn tại của đối tượng trong một không gian xác định. Ví dụ: Đằng xa văng vẳng tiếng còi đêm, mang ý nghĩa tồn tại“đằng xa và ở đây có tiếng còi đêm”. Kiểu câu này vẫn được cấu tạo bởi “thể từ vị trí” nên không gian, địa điểm được xác đinh.Nhờ vào vị từ mang yếu tố hướng, vị trí không gian được mở rộng. Đặc trưng của vị từ trong kiểu câu này là vị từ thể hiện một quá trình, một hành động có chủ đích, hoặc là từ tượng thanh mô phỏng các âm thanh của sự vật, hiện tượng; gắn liền với hướng không gian. Câu tồn tại thể hiện được sự tồn tại hay không tồn tại của đối tượng. Ví dụ: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống dồn dập, vội vã, khẳng định sự tồn tại của “hồi trống”. Kiểu kết cấu này của câu tồn tại cũng đáp ứng được 3/4 tiêu chí điển mẫu của phạm trù câu tồn tại. c. Câu tồn tại có cấu trúc “Có” + thể từ” Hay: + <Danh từ/ danh ngữ/ kết cấu C-V> Ví dụ: (l). Có tiền. (dẫn theo Diệp Quang Ban) (m). Có khách. (dẫn theo Diệp Quang Ban) (n). Có tiếng trở mình khe khẽ. Tương tự như thành viên điển mẫu của câu tồn tại, trường hợp này không đáp ứng được tiêu chí số 3 là “xác định sự tồn tại của đối tượng trong một không gian, phạm vi cụ thể, rõ ràng”. Câu không có sự tham gia của “thể từ vị trí” nên không gian, địa điểm của câu không được xác định. Tuy nhiên, kiểu câu này vẫn đáp ứng được ba tiêu chí còn lại: vị từ trung tâm là động từ “có”, thể hiện được sự tồn tại của đối tượng (“tiền, khách”); thể hiện phạm trù khẳng định hoặc phủ định của câu. d. Câu tồn tại có cấu trúc “vị từ + thể từ” Hay: + Ví dụ: (o). Còn nước. (ô). Nhiều sao quá. (dẫn theo Diệp Quang Ban) Tác giả Diệp Quang Ban đã chỉ ra “các lớp từ con có thể làm vị tố của câu tồn tại: động từ mang ý nghĩa tồn tại, tính từ chỉ lượng. Trong kiểu kết cấu này, thành phần “thể từ vị trí” bị lược bỏ, trung tâm vị từ không phải là động từ “có”.Vì vậy, kiểu câu tồn tại này không đáp ứng được tiêu chí 1 và 2 của câu tồn tại điển mẫu.Câu chỉ đáp ứng được hai tiêu chí là câu thể hiện được sự tồn tại hay không tồn tại; nghĩa của câu là sự tồn tại của đối tượng. Tóm lại, câu tồn tại có những thành viên khác nhau, mỗi thành viên đáp ứng được các đặc trưng, thuộc tính điển mẫu theo từng mức độ khác nhau. Mức độ điển mẫu của các thành viên được tổng kết trong bảng sau: CÂU TỒN TẠI TIẾNG VI T NHÌN TỪ LÍ THUYẾT ĐIỂN MẪU 44 Bảng 1. Phân loại cấp độ điển mẫu của các thành viên câu tồn tại Kiểu câu tồn tại có cấu trúc: Mức độ đáp ứng đặc trưng Phân loại cấp độ 1. Thể từ vị trí + “có” + thể từ 4/4 Thành viên điển mẫu 2. Thể từ vị trí + vị từ tư thế, trạng thái tĩnh + thể từ 3/4 Không điển mẫu cấp 1 3. Thể từ vị trí + vị từ quá trình, hành động + thể từ 3/4 Không điển mẫu cấp 1 4. “Có” + thể từ 3/4 Không điển mẫu cấp 1 5. Vị từ + thể từ 2/4 Không điển mẫu cấp 2 Bảng phân loại đã thể hiện mức độ điển mẫu của các thành viên trong phạm trù câu tồn tại tiếng Việt. Từ bảng phân loại trên, chúng tôi tiến hành xây dựng được sơ đồ tỏa tia cho phạm trù câu tồn tại trong tiếng Việt như sau: Trung tâm của sơ đồ sẽ là thành viên điển mẫu, các thành viên không điển mẫu sẽ xếp xa dần về phía ngoại biên. Chú thích: Theo tinh thần của lí thuyết điển mẫu, ranh giới giữa các thành viên là ranh giới mờ.Trung tâm của phạm trù câu tồn tại tiếng Việt là câu tồn tại có cấu trúc “thể từ vị trí + “có” + thể từ”. Kiểu kết cấu này nằm ở tâm sơ đồ tỏa tia, là điển mẫu của phạm trù câu tồn tại. Xa dần ngoại biên là các thành viên không điển mẫu.Kiểu kết cấu “vị từ + thể từ” là thành viên nằm ở ngoại biên của phạm trù. Câu tồn tại điển mẫu Câu tồn tại không điển mẫu cấp 1 Câu tồn tại không điển mẫu cấp 2 NGUYỄN THỊ THANH THẢO – TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ 45 4. Lời kết Lí thuyết điển mẫu là một lí thuyết quan trọng của ngôn ngữ học tri nhận. Lí thuyết điển mẫu đã soi sáng nhiều vấn đề trong ngôn ngữ, đặc biệt là những vấn đề về ngữ pháp, cụ thể là vấn đề câu tồn tại trong tiếng Việt. Dựa vào lí thuyết điển mẫu của ngôn ngữ học tri nhận, bài viết đã khái quát được những đặc trưng điển mẫucâu tồn tại tiếng Việt và tìm ra thành viên điển mẫu của phạm trù chính là câu có cấu trúc: “thể từ vị trí + “có” + thể từ”. Các thành viên không điển mẫu có mức độ đáp ứng các đặc trưng điển hình khác nhau và được xếp vào những cấp độ điển mẫu khác nhau.Những kết quả nghiên cứu của bài viết có thể trở thành tài liệu tham khảo có ích cho những người đang học tập và giảng dạy tiếng Việt và tiếng Việt cho người nước ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diệp Quang Ban, Một số vấn đề Câu tồn tại trong tiếng Việt ngày nay (Luận án phó Tiến sĩ), Hà Nội, 1980. 2. Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005. 3. Trần Văn Cơ, Ngôn ngữ học tri nhận, Nxb KHXH, Hà Nội, 2007. 4. Đỗ Hồng Dương, Khảo sát chủ ngữ dưới góc nhìn của lí thuyết điển mẫu (Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ), Hà Nội, 2011. 5. Võ Kim Hà, Ẩn dụ tiếng Việt dưới góc nhìn của lí thuyết nguyên mẫu (Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn), TP. Hồ Chí Minh. 6. Nguyễn Văn Hiệp, Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008. 7. Nguyễn Văn Hiệp, Cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009. 8. Nguyễn Văn Hiệp, “Câu đặc biệt tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu (prototype)”, Tạp chí Ngôn ngữ số 6/2010, trang 4 -13, 2010. 9. Vi Tường Phúc, “Thử áp dụng lí thuyết điển dạng vào nghiên cứu từ loại”, Tạp chí Ngôn ngữ số 10/2009, trang 37-44, 2009. 10. Jonh R. Tayor, Linguistic categorization – Prototype in Linguistic Theory, Clarendon Press, Oxford, 1995. 11. Lý Toàn Thắng, Bàn thêm về kiểu câu “P- N” Trong tiếng Việt, 1984. 12. Lý Toàn Thắng, Ngôn ngữ học tri nhận - Từ lí thuyết đến đại cương thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005. 13. Nguyễn Minh Thuyết - Nguyễn Văn Hiệp, Thành phần câu tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998. Ngày nhận bài: 11/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5_6057_2215057.pdf
Tài liệu liên quan