Tài liệu Cập nhật về chống nắng bôi: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
10
CẬP NHẬT VỀ CHỐNG NẮNG BÔI
Lê Thái Vân Thanh*, Phạm Thị Kim Ngọc**
ĐẠI CƯƠNG
Hoạt chất chống nắng khá phổ biến trong các
sản phẩm chăm sóc da. Với mục đích ban đầu
nhằm phòng ngừa bỏng nắng, chất chống nắng
chủ yếu có tác dụng ngăn ngừa tác hại của tia
cực tím (UV). Tia UVB (bước sóng 280-320 nm)
chủ yếu gây đỏ da và tổn thương trực tiếp DNA
thông qua pyrimidine dimer. Trong khi đó, tia
UVA (bước sóng 320-400nm) liên quan chủ yếu
với trình trạng sạm da và lão hóa da. Tia UVA
cũng sinh ra các gốc oxy hóa gây tổn thương trực
tiếp lên DNA. Mặc dù các tế bào da có sẵn các
chất chống oxy hóa, các men sửa chữa DNA và
các con đường tín hiệu nhằm làm giảm các tổn
thương, tuy nhiên việc tiếp xúc một lượng lớn tia
cực tím sẽ dẫn tới sự mất ổn định của gien và
hình thành các đột biến. Tiếp xúc với tia UVA
còn làm tăng số lượng các tế bào viêm ở lớp bì,
đồng thời làm giảm hoạt động c...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cập nhật về chống nắng bôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
10
CẬP NHẬT VỀ CHỐNG NẮNG BÔI
Lê Thái Vân Thanh*, Phạm Thị Kim Ngọc**
ĐẠI CƯƠNG
Hoạt chất chống nắng khá phổ biến trong các
sản phẩm chăm sóc da. Với mục đích ban đầu
nhằm phòng ngừa bỏng nắng, chất chống nắng
chủ yếu có tác dụng ngăn ngừa tác hại của tia
cực tím (UV). Tia UVB (bước sóng 280-320 nm)
chủ yếu gây đỏ da và tổn thương trực tiếp DNA
thông qua pyrimidine dimer. Trong khi đó, tia
UVA (bước sóng 320-400nm) liên quan chủ yếu
với trình trạng sạm da và lão hóa da. Tia UVA
cũng sinh ra các gốc oxy hóa gây tổn thương trực
tiếp lên DNA. Mặc dù các tế bào da có sẵn các
chất chống oxy hóa, các men sửa chữa DNA và
các con đường tín hiệu nhằm làm giảm các tổn
thương, tuy nhiên việc tiếp xúc một lượng lớn tia
cực tím sẽ dẫn tới sự mất ổn định của gien và
hình thành các đột biến. Tiếp xúc với tia UVA
còn làm tăng số lượng các tế bào viêm ở lớp bì,
đồng thời làm giảm hoạt động của các tế bào
trình diện kháng nguyên và đại bào Langerhans.
Tình trạng ức chế miễn dịch này đóng vai trò
gián tiếp trong tính sinh ung của tia cực tím.(15)
Kem chống nắng ra đời từ năm 1928 và ngày
nay đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ da đối
với ánh sáng mặt trời và phòng ngừa ung thư
da. Ngành sản xuất kem chống nắng ban đầu chỉ
tập trung vào khả năng phòng chống tia UVB
với việc liên tục tìm kiếm các chất chống tia UVB
và tối ưu chỉ số SPF. Tuy nhiên, từ năm 2007,
Cục quản lý dược và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA)
nhấn mạnh vai trò của việc phòng chống tia
UVA. Ở ngang mực nước biển, tia UVA chiếm
khoảng 95% lượng tia UV chiếu đến mặt đất,
trong khi tia UVB chỉ chiếm 5%. Do đó, việc
phòng ngừa tia UVA đóng vai trò quan trọng và
là mục tiêu trong việc nâng cao hiệu quả của
kem chống nắng.(14)
Các nghiên cứu gần đây cho thấy tác hại của
ánh sáng khả kiến và tia hồng ngoại lên da. Các
nghiên cứu in vitro ghi nhận ánh sáng khả kiến
và tia hồng ngoại sinh ra hơn 50% lượng gốc oxy
hóa tự do ở da khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
Bên cạnh đó, ánh sáng khả kiến còn gây nên tình
trạng tăng sắc tố kéo dài sau khi tiếp xúc ánh
sáng mặt trời ở những người týp da sậm màu, từ
đó đóng vai trò chính trong việc hình thành tình
trạng tăng sắc tố sau viêm hay nám má ở những
người này.(6)
CÁC CHẤT CHỐNG NẮNG
Hiện tại có 16 chất chống nắng được chấp
thuận ở Hoa Kỳ, ít hơn so với 34 chất ở Úc và 28
chất ở châu Âu. Sự khác biệt này là do ở Hoa Kỳ,
chất chống nắng được xem là thuốc không kê
toa, do đó quá trình chấp thuận đòi hỏi khắt khe
và lâu dài hơn. Không có chất chống nắng nào
được chấp thuận ở Hoa Kỳ trong 10 năm trở lại
đây. Chất chống nắng thường được chia thành 2
nhóm chính là chất chống nắng vô cơ và hữu cơ,
hay trước đây gọi là chất chống nắng vật lý và
hóa học.
Chất chống nắng vô cơ
Chất chống nắng vô cơ có tác dụng phản
chiếu và phân tán tia cực tím, tia khả kiến và tia
hồng ngoại trên một phổ rộng. Chất chống nắng
vô cơ chính được sử dụng hiện nay là kẽm oxit
(ZnO) và titanium dioxit (TiO₂), tương đối bền
vững với ánh sáng mặt trời và cần bôi một lớp
dày mới đủ hiệu quả. Kẽm oxit cho hiệu quả bảo
vệ với tia UVA cao hơn, trong khi titanium dioxit
ưu thế hơn trong việc bảo vệ với tia UVB và tạo
vệt trắng trên da nhiều hơn do chỉ số khúc xạ cao
hơn. Sắt oxit, một chất chống nắng vật lý khác, có
màu sắc gần giống với màu da, thường được
thêm vào để che phủ vệt trắng do kẽm oxit và
titanium oxit tạo nên. Vì kém thẩm mỹ, chất
chống nắng vô cơ ít được sử dụng cho đến khi ra
đời vi hạt nano. Các hạt có kích thước siêu nhỏ
này (10-50 nm) cải thiện tính thẩm mỹ khá nhiều
so với các phân tử trước đó với kích thước 200-
500nm. Chúng cũng có khả năng hấp thụ tia cực
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
11
tím, song đỉnh hấp thụ ngắn hơn, ít bảo vệ với
tia UVA hơn. Những vi hạt này cũng có xu
hướng kết cụm, do đó làm giảm hiệu quả chống
nắng. Để tránh tình trạng này, các vi hạt này
được bọc trong một lớp dimethicone hoặc silica,
nhờ đó cũng làm giảm sự hình thành các gốc oxy
hóa tự do và tăng tính bền vững với ánh sáng
mặt trời. Nhờ tính ổn định với ánh sáng mặt trời,
các chất chống nắng vô cơ được sử dụng nhiều
trong các sản phẩm dành cho trẻ em và người da
nhạy cảm. Chất chống nắng vô cơ cũng bảo vệ
với tia khả kiến ở những người có các bệnh lý da
nhạy cảm ánh sáng.(4)
Chất chống nắng hóa học
Chất chống nắng hóa học chủ yếu hấp thụ tia
cực tím và chuyển chúng thành nhiệt. Có 5
nhóm chất chống nắng hóa học chính: các dẫn
xuất paraaminobenzoic acid (PABA),
benzophenone, salicylate, cinnamate và các chất
khác.
PABA có hoạt tính chống tia UVB cao nhất,
liên kết chặt với các tế bào sừng, do đó khá bền
vững với nước. Có khá nhiều báo cáo về viêm da
tiếp xúc dị ứng với PABA(3), vì thế nó được thay
thế bởi các dẫn xuất khác như padimate O, ít
hiệu quả hơn song dữ liệu an toàn cao hơn. Vì
hiệu quả thấp, nên padimate O thường được kết
hợp với các chất chống nắng khác để tăng hiệu
quả chống UVB.
Nhóm cinnamate, bao gồm octinoxate và
cinoxate, là chất chống tia UVB được sử dụng
phổ biến nhất ở Hoa Kỳ vì chúng không gây
nhuộm da và ít kích ứng. Tuy nhiên, chúng khá
kém bền vững với nước và ánh sáng mặt trời, do
đó hiệu quả cũng bị giảm theo.
Nhóm salicylate, bao gồm octisalate,
homosalate và trolamin salicylate, là những chất
chống tia UVB yếu nhất. Tuy nhiên, do độ an
toàn khá cao nên chúng thường được cho thêm
vào sản phẩm với nồng độ cao để tăng hiệu quả
bảo vệ với tia UVB.
Nhóm bezophenone có tác dụng bảo vệ đối
với cả tia UVA và UVB, song dễ bị phân hủy
dưới ánh sáng mặt trời. FDA hiện chấp thuận 3
chất chống nắng thuộc nhóm này là oxybenzone,
sulisobenzone, và dioxybenzone. Oxybenzone
được sử dụng nhiều nhất nhưng kèm với tần
suất viêm da tiếp xúc ánh sáng cao nhất.
Avobenzone là chất hấp thụ tia UVA mạnh.
Đây là chất chống nắng duy nhất được FDA
chấp thuận có khả năng hấp thụ tia UVA bước
sóng dài (UVA1). Tuy nhiên, avobenzone lại rất
kém bền vững với ánh sáng, sau 1 giờ tiếp xúc
với ánh sáng mặt trời, hiệu quả bảo vệ giảm 50-
60%. Hiện tại, octocrylene và tinosorb S được
nghiên cứu để làm tăng tính ổn định khi kết hợp
với avobenzone.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BẢO VỆ ĐỐI VỚI TIA
CỰC TÍM
Đối với tia UVB
SPF (sun protection factor) được sử dụng
rộng rãi để đánh giá mức độ bảo vệ của kem
chống nắng với tia UVB. Một sản phẩm với
SPF15 có thể chống được 94% lượng tia UVB,
trong khi SPF30 có thể chống được 97%. SPF
được tính bằng tỉ lệ giữa liều gây đỏ da tối thiểu
(MED) của tia UV ở vùng da được bảo vệ so với
ở vùng da không được bảo vệ. Tuy nhiên, điều
này không hoàn toàn chính xác, vì tiêu chuẩn
FDA cho việc xác định SPF yêu cầu lượng chống
nắng 2mg/cm² da. Thực tế, lượng chất chống
nắng được thoa trong dân số khoảng 0,5-
1mg/cm², do đó hiệu quả bảo vệ thực sự sẽ thấp
hơn.
Đối với tia UVA
Có nhiều phương pháp in vivo và in vitro
được sử dụng để đánh giá hiệu quả bảo vệ đối
với tia UVA: UVA-PF, PPD, SPF/UVA-PF, bước
sóng tới hạn. Hiện nay ở Hoa Kỳ, sản phẩm
chống nắng được gọi là phổ rộng khi bước sóng
tới hạn ≥370nm.(2)
VỀ TÁ DƯỢC VÀ CHẾ PHẨM SỬ DỤNG
Tá dược trong kem chống nắng đóng vai trò
quan trọng, góp phần quyết định hiệu quả của
sản phẩm. Để duy trì hiệu quả bảo vệ cũng như
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
12
tính ổn định với ánh sáng mặt trời, các tá dược
phải làm giảm được các tương tác giữa các chất
có hoạt tính và các chất trơ trong sản phẩm. Các
tá dược cũng quyết định tính bền vững với nước
của sản phẩm. FDA quy định kem chống nắng
mà tính chất bảo vệ với ánh nắng nguyên vẹn
sau 2 đợt tiếp xúc với nước 20 phút được gọi là
‘kháng nước”, và nguyên vẹn sau 4 đợt thì gọi là
“rất kháng nước”. Tuy nhiên, các sản phẩm này
sẽ giảm SPF sau các lần tiếp xúc nước tiếp theo.
Các chế phẩm chống nắng bao gồm
kem/lotion, gel, thỏi, xịt và trong các mỹ phẩm.
Kem và lotion là các nhũ tương nước trong dầu
hoặc dầu trong nước, có độ phân tán cao, do đó
được sử dụng phổ biến. Gel dễ bị trôi khi bơi
hoặc đổ mồ hôi, nhưng khá thích hợp với týp da
dầu, xu hướng mụn. Dạng thỏi đươc sử dụng ở
vùng có diện tích nhỏ như mũi, môi. Dạng xịt sử
dụng khá tiện lợi, song lượng dùng thường
không đủ. Các chất chống nắng cũng có trong
dầu gội, màu nhuộm tóc nhằm giảm thay đổi
màu sắc do ánh nắng cũng như những tổn
thương protein của tóc(11).
Các tá dược cũng góp phần quan trọng trong
việc chấp nhận và sự tuân thủ của người sử
dụng. Sự tạo vệt trắng mờ của chất chống nắng
vô cơ, cũng như tính nhờn rít của kem chống
nắng hữu cơ dẫn đến việc thoa không đủ lượng
chất chống nắng, từ đó hiệu quả bảo vệ giảm
theo. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kém hiệu
quả của chống nắng chính là việc thoa không đủ
lượng và không thoa lặp lại(13). Việc sản xuất các
kem chống nắng chỉ thoa 1 lần trong cả ngày với
các tiến bộ trong công nghệ, tuy nhiên các khảo
sát cho thấy việc sử dụng các loại kem chống
nắng này sẽ dẫn tới tình trạng không đủ lượng
chất chống nắng cần thiết(7).
TRANH CÃI VỀ CHỐNG NẮNG
Mặc dù không thường gặp và mang tính chủ
quan, cảm giác châm chích và nóng rát là những
than phiền phổ biến nhất liên quan đến kem
chống nắng. Viêm da tiếp xúc dị ứng hiếm khi
gây ra bởi các thành phần của kem chống nắng,
dù tỉ lệ này có thể thấp hơn thật sự(3). PABA và
oxybenzone là những tác nhân gây viêm da tiếp
xúc dị ứng ánh sáng thường gặp nhất, trong khi
đó avobenzone, sulisobenzone, octinoxate, và
padimate O có ít báo cáo phản ứng hơn. Bệnh
nhân với tiền căn bệnh da do ánh sáng và chàm
có khuynh hướng bị dị ứng ánh sáng nên được
tư vấn cẩn thận. Trong khi đó, salicylates,
ecamsule và các chất vô cơ không thể xâm nhập
vào lớp sừng, do đó phản ứng nhạy cảm ánh
sáng ít khi xảy ra.
Một số báo cáo đã được thực hiện về vấn đề
xâm nhập và ảnh hưởng toàn thân của các chất
vô cơ vi hạt. Nghiên cứu của chính phủ Úc kết
luận rằng phân tử nano kẽm oxit và titanium
dioxit vẫn lưu lại trên bề mặt da mà không thấm
nhập vào lớp sừng. Tuy nhiên, các nghiên cứu
khác chứng minh rằng phân tử nano titanium
dioxit có thể đi qua màng tế bào và làm suy yếu
các nguyên bào sợi ở lớp bì(8). Bằng cách phủ
polymer những hạt này giúp ngăn hiện tượng
kết dính với màng tế bào, do đó bảo tồn được
chức năng của tế bào. Kẽm oxit và titanium
dioxit vi hạt có thể khởi phát tình trạng chết theo
chu trình của tế bào gốc thần kinh, mặc dù tác
dụng này phụ thuộc vào liều dùng hơn là kích
cỡ của hạt.
Một số chất chống nắng hữu cơ, như là
oxybenzone và octinoxate, đã được phát hiện
trong huyết tương và nước tiểu sau 4 ngày thoa
kem chống nắng toàn thân(5). Nồng độ được sử
dụng trong nghiên cứu này là 10% - mức tối đa
cho phép của châu Âu, trong khi nồng độ tối đa
được chấp thuận ở Hoa Kỳ đối với oxybenzone
và octinoxate lần lượt là 6% và 7,5%. Bất chấp
quan ngại này, lợi ích của việc sử dụng kem
chống nắng thích hợp có thể lớn hơn nguy cơ
ngộ độc. Để xác định chính xác nguy cơ hấp thu
toàn thân các thành phần kem chống nắng,
nghiên cứu thành phần của các công thức chống
nắng thương mại sẽ hữu ích, đặc biệt cho trẻ em
và phụ nữ có thai.
Mối quan tâm về tác động sinh estrogen của
oxybenzone xuất hiện do kết quả của một
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
13
nghiên cứu trên động vật sử dụng oxybenzone
đường uống. Tuy nhiên, con người sẽ cần phải
sử dụng oxybenzone hàng ngày trong 35-277
năm để đạt được mức oxybenzone tương ứng
như ở những vật thí nghiệm này. Ngoài ra,
oxybenzone đã được sử dụng ở Hoa Kỳ từ năm
1978 mà không có bất kỳ tác dụng nội tiết tố
được báo cáo ở người.(12)
Ít nhất 90% nhu cầu vitamin D của con người
được tổng hợp nhờ sự tiếp xúc với tia UVB. Do
đó, ảnh hưởng của kem chống nắng lên con
đường tổng hợp vitamin D3 (cholecalciferol) qua
da gây nhiều tranh cãi. Sử dụng kem chống nắng
với SPF15 có thể làm giảm tổng hợp vitamin D
lên đến 98%, dẫn đến tình trạng thiếu hụt
vitamin D, tuy nhiên những nghiên cứu khác chỉ
ra rằng sử dụng kem chống nắng đều đặn ít có
ảnh hưởng đến nồng độ vitamin D(9). Sự không
nhất quán này có thể do một phần đáng kể
vitamin D được hấp thu qua chế độ ăn và hầu
hết mọi người sử dụng kem chống nắng không
đủ liều lượng, thậm chí khi áp dụng một cách
thích hợp thì một số tia cực tím vẫn xuyên vào
da. Tuy rằng Viện Da liễu Hoa Kỳ (AAD) từng
khẳng định rằng sự thiếu hụt vitamin D ở người
khoẻ mạnh không liên quan đến sử dụng kem
chống nắng, nhưng gần đây họ cho rằng sử
dụng kem chống nắng thường xuyên có thể làm
tăng nguy cơ thiếu hụt vitamin D. Bổ sung
vitamin D thông qua chế độ ăn uống hoặc thực
phẩm chức năng có thể cần thiết.
SỬ DỤNG KEM CHỐNG NẮNG
Các nghiên cứu về mối liên quan giữa việc
sử dụng kem chống nắng và thời gian tiếp xúc
ánh nắng cho thấy, việc sử dụng kem chống
nắng làm tăng thời gian phơi nắng có chủ ý từ
13% đến 39%. Cụ thể, sử dụng kem chống nắng
với SPF cao hơn sẽ kéo dài thời gian phơi nắng
nhiều hơn. Tác động bảo vệ dự kiến của kem
chống nắng có thể làm người dùng chủ quan với
việc phơi nắng, và việc kéo dài thời gian phơi
nắng sẽ làm tăng nguy cơ ung thư da.
AAD khuyến cáo sử dụng kem chống nắng
phổ rộng, kháng nước với SPF 30 trở lên thường
xuyên để ngăn ngừa ung thư da. Một lượng kem
chống nắng bằng với lòng bàn tay là đủ cho cả
cơ thể. Lưu ý thoa kem chống nắng 20 phút
trước khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời để thoa
được đều và đủ. Kem chống nắng có tác dụng
ngay khi thoa lên da. Để duy trì hiệu quả, kem
chống nắng phải được thoa lặp lại, đặc biệt là khi
đổ mồ hôi hoặc bơi lội. Tuy nhiên kem chống
nắng chỉ là một phần trong bảo vệ da khỏi ánh
nắng mặt trời, thói quen tránh nắng là cách tốt
nhất để ngăn ngừa tổn thương da do tia UV, ví
dụ như tránh ánh sáng mặt trời từ 10 giờ sáng
đến 4 giờ chiều. Kính mát, mũ rộng vành và
quần áo chống nắng là cũng những cách hữu
hiệu để che chắn da khỏi tác động của tia UV(10).
XU HƯỚNG TƯƠNG LAI
Một phương pháp để tăng cường hiệu quả
kem chống nắng là phát triển các chất lọc tia UV
phù hợp và an toàn cho người sử dụng. Tính an
toàn và hiệu quả của 8 tác nhân mới đang được
FDA kiểm duyệt. Hầu hết các chất này đã có mặt
trên thị trường châu Âu, Canada, và Úc nhiều
năm nay. Octyl triazone (ethylhexyl triazone,
Uvinul T150), enzacamene (methyl benzylidene
camphor) và amiloxate (isoamyl p-
methoxycinnamate) là ba chất lọc tia UVB tiềm
năng đã được FDA chấp thuận.(7)
Các chất chống oxy hoá tại chỗ đang được
nghiên cứu để tăng cường hiệu quả của kem
chống nắng. Các chất này, gồm flavonoid,
resveratrol và chiết xuất trà xanh, có thể làm
giảm các tổn thương da do tia UV, mặc dù chúng
không ổn định và khuếch tán kém vào lớp
thượng bì. Ánh sáng khả kiến được cho là tạo ra
các gốc oxy hóa tự do. Do đó, các chất chống oxy
hoá tại chỗ hoặc toàn thân cũng hứa hẹn trong
việc giảm tác động của ánh sáng khả kiến lên da.
Kem chống nắng có chứa chất chống oxy hoá
cũng đã được chứng minh ức chế sự sản xuất
metalloproteinase bởi tia hồng ngoại. Tuy nhiên,
cần nhiều nghiên cứu hơn trong lĩnh vực này(1)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
14
Các công nghệ sản xuất kem chống nắng
hiện đại có thể làm tăng độ SPF mà không cần
thêm vào tác nhân mới. Điều này dẫn đến sự leo
thang SPF trong thị trường chống nắng dù hiệu
quả chống nắng tăng lên rất hạn chế. Các tiến bộ
phải kể đến là công nghệ Sol-Gel đưa các chất lọc
tia UV vào các vi hạt silica 1μm. Bằng kỹ thuật
này, các thành phần hoạt tính không trực tiếp
tiếp xúc với da giúp giảm tỷ lệ viêm da tiếp xúc
dị ứng và sự hấp thụ kem chống nắng toàn thân.
KẾT LUẬN
Tóm lại, hiệu quả của kem chống nắng trong
việc giảm ung thư da và lão hóa da do ánh sáng
đã được chứng minh rõ ràng. Lợi ích sử dụng
kem chống nắng lâu dài vượt trội nguy cơ tiềm
ẩn của các tác nhân này. Tuy nhiên, rào cản
chính để đạt được những lợi ích này là sự tuân
thủ của người sử dụng. Để đạt được hiệu quả tối
đa cần các biện pháp giáo dục và khuyến khích
sử dụng kem chống nắng. Hơn nữa, các công
nghệ mới cải thiện tính thẩm mỹ của kem chống
nắng giúp tăng sự tuân thủ, do đó làm giảm tỷ lệ
ung thư da và mức độ lão hóa da do ánh sáng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dupuy A, Dunant A, Grob JJ (2005), "Randomized controlled
trial testing the impact of high-protection sunscreens on sun-
exposure behavior", Arch Dermatol, 141(8), pp. 950-6.
2. Fourtanier A, Moyal D, Seite S (2012), "UVA filters in sun-
protection products: regulatory and biological aspects",
Photochem Photobiol Sci, 11(1), pp. 81-9.
3. Goossens A (2004), "Photoallergic contact dermatitis",
Photodermatol Photoimmunol Photomed, 20(3), pp. 121-5.
4. Grether-Beck S, Marini A, Jaenicke T, et al (2015), "Effective
photoprotection of human skin against infrared A radiation by
topically applied antioxidants: results from a vehicle
controlled, double-blind, randomized study", Photochem
Photobiol, 91(1), pp. 248-50.
5. Janjua NR, Kongshoj B, Andersson AM, et al (2008),
"Sunscreens in human plasma and urine after repeated whole-
body topical application", J Eur Acad Dermatol Venereol, 22 (4),
pp. 456-61.
6. Mahmoud BH, Ruvolo E, Hexsel C L, et al (2010), "Impact of
long-wavelength UVA and visible light on melanocompetent
skin", J Invest Dermatol, 130 (8), pp. 2092-7.
7. Mancuso JB, Maruthi R, Wang SQ, et al (2017), "Sunscreens:
An Update", Am J Clin Dermatol.
8. Newman MD, Stotland M, Ellis JI (2009), "The safety of
nanosized particles in titanium dioxide- and zinc oxide-based
sunscreens", J Am Acad Dermatol, 61(4), pp. 685-92.
9. Norval M, Wulf HC (2009), "Does chronic sunscreen use
reduce vitamin D production to insufficient levels?", Br J
Dermatol, 161(4), pp. 732-6.
10. Palm MD, O'Donoghue MN (2007), "Update on
photoprotection", Dermatol Ther, 20 (5), pp. 360-76.
11. Santos Nogueira AC, Joekes I (2004), "Hair color changes and
protein damage caused by ultraviolet radiation", J Photochem
Photobiol B, 74 (2-3), pp. 109-17.
12. Schlumpf M, Schmid P, Durrer S, et al (2004), "Endocrine
activity and developmental toxicity of cosmetic UV filters--an
update", Toxicology, 205 (1-2), pp. 113-22.
13. Wright MW, Wright ST, Wagner RF (2001), "Mechanisms of
sunscreen failure", J Am Acad Dermatol, 44(5), pp. 781-4.
14. Kullavanijaya P, Lim HW (Photoprotection", Journal of the
American Academy of Dermatology, 52(6), pp. 937-958.
15. Sambandan DR, Ratner D (2011), "Sunscreens: An overview
and update", Journal of the American Academy of Dermatology,
64 (4), pp.748-758.
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017
Ngày bài báo được đăng:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cap_nhat_ve_chong_nang_boi.pdf