Tài liệu Cập nhật các phương pháp điều trị bệnh u lympho không hodgkin não nguyên phát tế báo B lớn lan tỏa: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 63
CẬP NHẬT CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BỆNH U LYMPHO KHÔNG
HODGKIN NÃO NGUYÊN PHÁT TẾ BÀO B LỚN LAN TỎA
Hoàng Thị Thuý Hà*, Trần Thanh Tùng*, Nguyễn Trường Sơn*, Phạm Quang Vinh**
TÓM TẮT
U lympho không Hodgkin (ULKH) não nguyên phát tế bào B lớn lan tỏa là một biến thể hiếm gặp của u
lympho không Hodgkin ngoài hạch. Nguy cơ gây bệnh thường gặp do suy giảm miễn dịch và tình trạng này có
thể đóng vai trò sinh bệnh học của bệnh. Mặc dù bệnh nhạy với cả hóa trị và xạ trị, tuy nhiên tiên lượng bệnh xấu
hơn nhiều so với u lympho không Hodgkin tế bào B lớn lan tỏa chung. Phương pháp điều trị cơ bản ULKH não
nguyên phát tế bào B lớn lan tỏa bao gồm hóa trị nền tảng có MTX liều cao phối hợp các tác nhân khác và
rituximab. Ghép tế bào gốc tự thân mang lại hiệu quả cao. Xạ trị là phương pháp điều trị hỗ trợ và thay thế khi
bệnh nhân không có khả năng hóa trị.
Từ khóa: u...
10 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cập nhật các phương pháp điều trị bệnh u lympho không hodgkin não nguyên phát tế báo B lớn lan tỏa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 63
CẬP NHẬT CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BỆNH U LYMPHO KHÔNG
HODGKIN NÃO NGUYÊN PHÁT TẾ BÀO B LỚN LAN TỎA
Hoàng Thị Thuý Hà*, Trần Thanh Tùng*, Nguyễn Trường Sơn*, Phạm Quang Vinh**
TÓM TẮT
U lympho không Hodgkin (ULKH) não nguyên phát tế bào B lớn lan tỏa là một biến thể hiếm gặp của u
lympho không Hodgkin ngoài hạch. Nguy cơ gây bệnh thường gặp do suy giảm miễn dịch và tình trạng này có
thể đóng vai trò sinh bệnh học của bệnh. Mặc dù bệnh nhạy với cả hóa trị và xạ trị, tuy nhiên tiên lượng bệnh xấu
hơn nhiều so với u lympho không Hodgkin tế bào B lớn lan tỏa chung. Phương pháp điều trị cơ bản ULKH não
nguyên phát tế bào B lớn lan tỏa bao gồm hóa trị nền tảng có MTX liều cao phối hợp các tác nhân khác và
rituximab. Ghép tế bào gốc tự thân mang lại hiệu quả cao. Xạ trị là phương pháp điều trị hỗ trợ và thay thế khi
bệnh nhân không có khả năng hóa trị.
Từ khóa: u lympho không Hodgkin não nguyên phát
ABSTRACT
UPDATE ON THERAPIES FOR PRIMARY CEREBRAL
DIFFUSE LARGE B CELL NON-HODGKIN’S LYMPHOMA
Hoang Thi Thuy Ha, Tran Thanh Tung, Nguyen Truong Son, Pham Quang Vinh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 63 – 72
Primary cerebral diffuse large B cell non Hodgkin’s lymphoma is an uncommon variant of extranodal non –
Hodgkin lymphoma. The most notable risk factor for the development of disease is immunodeficiency and this may
play a role in the pathogenesis of primary cerebral lymphoma (PCL). PCL has long been associated with inferior
prongosis compared to other aggressive no Hodgkin’s lymphoma even though this disease is sensitive to chemo-
radiation therapy. The most effective treatment of PCL at this time is high dose methotrexate base therapy in
combination with other chemotherapeutic agents and rituximab. Autologous stem cell transplantation is an
effective treatment. Whole brain radiation therapy is an palliative and alternative treatment for chemotherapy-
ineligible patients.
Key words: primary cerebral diffuse large B cell non-Hodgkin’s lymphoma
ĐẶT VẤN ĐỀ
U lympho không Hodgkin (ULKH) là nhóm
bệnh lý ác tính của tế bào lympho dòng B, T hoặc
NK, có nguồn gốc từ hạch bạch huyết hoặc bất
kỳ cơ quan nào của cơ thể. Bệnh xuất hiện ở các
nơi trên thế giới, chiếm khoảng 4% các trường
hợp bệnh lý ung thư. ULKH ngoài hạch chiếm tỷ
lệ khoảng 20-40% tổng số bệnh ULKH, thường
gặp nhất ở ống tiêu hoá, gan, đường mật, hệ
thần kinh trung ương, da, vú, tinh hoàn, xương.
ULKH nguyên phát hệ thần kinh trung ương
là ULKH ngoài hạch xuất phát từ hệ thần kinh
trung ương (não, màng não, tuỷ sống, mắt, thần
kinh sọ) và không có bất kỳ tổn thương khác
ngoài hệ thần kinh ở thời điểm chẩn đoán. Trong
đó ULKH não nguyên phát là thể thường gặp
nhất, chiếm đến 80% tổng số bệnh ULKH
nguyên phát hệ thần kinh trung ương.
ULKH nguyên phát hệ thần kinh trung
ương được xem là một bệnh khá hiếm, chiếm
0,007-0,7% tất cả các trường hợp ULKH và
khoảng 0,01% ULKH ngoài hạch theo nghiên
*Bệnh viện Chợ Rẫy **Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Hoàng Thị Thúy Hà ĐT: 0908456307 Email: thuyhado@yahoo.com.vn
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 64
cứu Aozasa và cộng sự năm 1996(2). Tỷ lệ mới
mắc trong dân số chung tăng trong thập niên
1960-1990, đạt đỉnh khoảng giữa những năm
1990 và sau đó giảm dần. Có sự biến đổi như
vậy là do có sự thay đổi trong tỷ lệ mới mắc
của HIV-AIDS(12).
Tuổi trung bình khởi phát bệnh khoảng từ
60-70 tuổi. Dựa theo nghiên cứu 693 trường hợp
ULKH nguyên phát hệ thần kinh trung ương
của Murray, tuổi trung bình lúc chẩn đoán là 64
tuổi, với hầu hết bệnh nhân (BN) tuổi từ 40-75
tuổi. Ngược lại, ở nhóm BN suy giảm hệ miễn
dịch, tuổi trung bình khởi phát thấp hơn nhiều ở
nhóm BN có hệ miễn dịch bảo toàn. Tương tự
đặc điểm ULKH chung, tỷ lệ mắc bệnh nam trội
hơn nữ, dao động từ 1.5:1 đến 2:1 tuỳ nghiên
cứu. Yếu tố nguy cơ của bệnh được chứng minh
là tình trạng suy giảm miễn dịch (bẩm sinh hoặc
mắc phải, ghép tạng, dùng thuốc ức chế miễn
dịch, nhiễm Epstein Barr virus)(10).
Tiên lượng bệnh ULKH nguyên phát hệ thần
kinh trung ương rất kém khi so sánh với tiên
lượng của ULKH hệ thống. Theo nghiên cứu của
Krogh- Jensen và cộng sự 1995 (Đan Mạch), tỷ lệ
sống còn tại thời điểm 1, 2 và 5 năm sau chẩn
đoán chỉ có lần lượt 53%, 38% và 26% trong thời
kì 1971-1990. Nghiên cứu của Villano 2011 thống
kê nhóm BN tại Mỹ chẩn đoán từ 2000- 2008, tỷ
lệ sống còn tại thời điểm 1, 2 và 5 năm khoảng
51,4%, 42,6% và 31,2%(18,28).
Hầu hết các nghiên cứu đều đánh giá tiên
lượng bệnh dựa vào chỉ số tiên lượng IELSG
(International Extranodal Lymphoma Study
Group) và cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa
giữa chỉ số tiên lượng IELSG với kết quả điều trị.
Nó còn giúp cho các bác sĩ lựa chọn phác đồ điều
trị phù hợp với từng cá nhân cụ thể. Theo nghiên
cứu của Ferreri 2003, nghiên cứu 105 BN tại
trung tâm Memorial Sloan-Kettering Cancer
Center, BN được chia 3 nhóm: nhóm 1 gồm 33
BN tuổi <50; nhóm 2 gồm 21 BN <50 tuổi và
Karnofsky ≥70; nhóm 3 gồm 51 BN >50 tuổi và
Karnofsky <70. Theo dõi OS tại thời điểm 3 năm
của 3 nhóm trên, kết quả cho thấy: Nhóm 2 tỷ lệ
sống còn 91% ở BN có yếu tố tiên lượng thấp vs
29% ở BN có yếu tố tiên lượng trung bình
(p=0,008); Nhóm 3 tỷ lệ sống còn 39% ở BN có
yếu tố tiên lượng trung bình và 0% ở BN có yếu
tố tiên lượng cao (p=0,02)(6).
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ ULKH NÃO
NGUYÊN PHÁT TẾ BÀO B LỚN LAN TỎA
ULKH não có xu hướng nhạy với cả xạ trị và
hóa trị lựa chọn, đặc điểm này khác biệt so với
hầu hết các bệnh ác tính hệ thần kinh. Vai trò của
phẫu thuật rất hạn chế, chủ yếu có giá trị trong
chẩn đoán nhất là trong những trường hợp tổn
thương không khu trú (Hình 1).
Những thiếu sót thần kinh và tình trạng
giảm chức năng liên quan đến khối u có thể cải
thiện rất nhanh chóng nếu đáp ứng điều trị
(trong vòng 1-2 chu kì hóa trị hoặc trong khi xạ
trị). Bệnh có thể nhạy với corticoid tuy nhiên đáp
ứng không kéo dài. Vì những lý do trên, những
BN có tình trạng chức năng kém có thể tham gia
điều trị thử nghiệm, nhất là những trường hợp
đáp ứng sớm với corticoid.
Methotrexate (MTX) có thể qua hàng rào
máu não, cho đến nay là tác nhân đơn trị có tác
dụng nhiều nhất trong ULKH não. Do vậy điều
trị MTX liều cao là phác đồ điều trị tấn công chủ
lực đối với hầu hết các BN.
Mục tiêu của điều trị tấn công là đạt được
đáp ứng hoàn toàn trên hình ảnh học, hơn một
nửa BN có thể đạt đáp ứng trên và những BN
này có dư hậu lâu dài cũng tốt hơn những BN
chỉ đạt đáp ứng một phần hoặc bệnh ổn định sau
hóa tấn công. Hầu hết các BN, thậm chí cả BN
đạt đáp ứng hoàn toàn, không đạt được sống
còn tối ưu chỉ với điều trị hóa tấn công. Phác đồ
hóa trị duy trì tối ưu chưa được xây dựng vì mọi
chiến lược điều trị cũng đều có khả năng làm
tăng độc tính. Ba phác đồ điều trị duy trì được
nghiên cứu và áp dụng bao gồm hóa trị liều cao
phối hợp ghép tế bào gốc tự thân, hóa trị không
diệt tủy và xạ trị toàn bộ não (whole brain
radiotherapy- WBRT) giảm liều. Hiện tại cũng
chưa có phác đồ điều trị duy trì tối ưu cho BN
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 65
lớn tuổi.
MTX liều cao là phác đồ khá an toàn cho
BN lớn tuổi và BN suy thận mức độ nhẹ đến
trung bình. Liều điều trị được điều chỉnh cho
phù hợp với từng trường hợp cụ thể. BN suy
thận nặng (độ thanh thải < 30 ml/phút) không
phù hợp với điều trị MTX, và có thể thay thế
bằng phác đồ khác như cytarabin liều cao,
etoposide, temozolomide và xạ trị. WBRT
không được áp dụng trên BN lớn tuổi vì nguy
cơ cao và độc thần kinh, trừ trường hợp đó là
sự lựa chọn cứu vớt.
BN có tổn thương mắt và màng não ở thời
điểm chẩn đoán (có triệu chứng hay không), cần
được điều trị đồng thời với tổn thương ở nhu mô
não nhưng được xem như điều trị thêm tại các vị
trí đặc biệt (ví dụ xạ mắt hoặc tiêm MTX nội
nhãn, tiêm kênh tủy với trường hợp thâm nhiễm
màng não).
Phác đồ điều trị tấn công với nền tảng có MTX
liều cao
Lựa chọn phác đồ
Tác dụng của MTX dùng đường toàn thân
đơn độc hay phối hợp với thuốc khác được
chứng minh qua nhiều nghiên cứu hồi cứu và
tiến cứu. Đáp ứng hoàn toàn đạt được từ 30-60%
BN điều trị MTX đơn độc hoặc phối hợp. Phác
đồ tối ưu có MTX liều cao vẫn còn chưa được
hiểu biết đầy đủ, thực tế có rất nhiều thực hành
lâm sàng khác nhau. Trong khi phác đồ MTX
đơn trị đã được chứng minh rõ ràng là có hiệu
quả, một số số liệu liệt kê dưới đây cũng như
kinh nghiệm điều trị bệnh lý huyết học ác tính
khác chứng tỏ phối hợp hóa trị có hiệu quả cao
hơn MTX đơn độc. Tuy nhiên phối hợp MTX với
hóa trị cũng làm tăng độc tính(3,11).
Với BN có tổng trạng tốt (ECOG ≤3), khuyến
cáo sử dụng phác đồ MTX liều cao phối hợp hóa
trị: cytarabin, temozolomide, procarbazin và
vincristin. BN lớn tuổi với tổng trạng kém nên
điều trị phác đồ MTX đơn độc. Rituximab được
khuyến cáo trong tất cả các trường hợp bệnh có
CD 20 dương tính.
Phác đồ MTX phối hợp temozolomide
Tác dụng của MTX với temozolomide đã
được chứng minh trong nghiên cứu lâm sàng
pha II đa trung tâm, nghiên cứu 44 BN mới chẩn
đoán(15). BN điều trị tấn công với MTX liều cao
toàn thân (8 g/m2) thêm temozolomide và
rituximab (MTR). Nếu BN đáp ứng hoàn toàn
(complete response-CR) sẽ điều trị duy trì với
cytarabin + etoposide. Thời gian theo dõi trung
bình 4,9 năm, với những kết qủa như sau: 66%
đạt CR; thời gian sống còn không tiến triển
(progression-free survival- PFS) bệnh trung bình
2,4 năm với tỷ lệ PFS ước tính là 64, 57 và 47% tại
thời điểm 1, 2 và 4 năm; tỷ lệ sống còn toàn bộ
(overal survival- OS) ước tính 75, 70 và 65% tại
thời điểm 1, 2 và 4 năm; 1 trường hợp tử vong
trong quá trình điều trị duy trì (do nhiễm khuẩn
huyết), do đó tác giả nghiên cứu khuyến cáo cần
theo dõi nội trú BN trong và sau điều trị duy trì
tích cực khi bạch cầu và tiểu cầu giảm.
MTX phối hợp procarbazine và vincristin (MPV)
MPV là phác đồ điều trị tấn công trong một
số thử nghiệm lâm sàng tiến cứu, đối tượng là
BN lớn tuổi.
Nghiên cứu đa trung tâm pha II thử nghiệm
điều trị rituximab phối hợp MPV (R-MPV), sau
đó hóa duy trì với cytarabin liều cao, WBRT
giảm liều (23.4Gy) đối với những BN đạt CR sau
hóa R-MPV (60%, n=31); 21 BN còn lại WBRT với
liều chuẩn (45Gy)(20). Sau thời gian theo dõi trung
bình 5,6 năm, kết quả cho thấy thời gian PFS và
OS là 3,3 và 6,6 năm. Không có BN tử vong do
độc tính. Phác đồ R-MPV phối hợp WBRT giảm
liều hoặc không phối hợp xạ cho đến thời điểm
hiện tại là nhóm đối chứng trong nghiên cứu
NCT01399372.
Nghiên cứu đơn trung tâm 52 BN điều trị với
phác đồ MPV (MTX liều 3,5 g/m2) sau đó WBRT
và điều trị aracytin liều cao, 87% BN đạt CR, OS
trung bình 60 tháng). Ở nhóm BN >60 tuổi, OS
của BN có xạ trị và không xạ trị lần lượt là 32 và
33 tháng; độc tính thần kinh muộn gặp ở BN lớn
tuổi có xạ trị cao hơn có ý nghĩa thống kê. Khi
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 66
BN lớn tuổi có WBRT, OS không giảm tuy nhiên
phương pháp này ít được sử dụng do độc tính
liên quan đến điều trị cao.
Hình 1. Lưu đồ điều trị ULKH não nguyên phát(4)
HD-MTX: high-dose Methotrexate. R: Rituximab. WBRT: whole brain radiotherapy (xạ trị não toàn bộ).
HD/HCT: high dose chemotherapy with autologous hemapoetic cell transplantation (hoá trị liều cao và ghép tế bào gốc tự
thân). TMZ: temozolomide.
MTX phối hợp cytarabine
Căn cứ của phác đồ MTX phối hợp cytarabin
là một phác đồ cơ bản dựa trên kết quả nghiên
cứu lâm sàng đa quốc gia pha II, trong đó 79 BN
tuổi từ 18-75 tuổi, được phân phối ngẫu nhiên
vào 2 nhóm: nhóm điều trị 4 chu kì MTX liều
3.5g.m2 và nhóm điều trị MTX liều tương tự phối
hợp cytarabine (2g/m2 2 lần /ngày ngày 2,3), chu
kì 3 tuần và tiếp theo là WBRT(8). Kết quả so sánh
với nhóm BN điều trị MTX đơn độc, BN điều trị
MTX phối hợp cytarabine có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê: tỷ lệ đạt CR (46 vs 16%), đáp ứng
toàn bộ ORR cao hơn (69 vs 40%); độc tính huyết
học nặng (độ ¾) cao hơn (92 vs 15%). Sau khi
phân tích bước đầu, xác định biến chứng nhiễm
trùng 32% trong số BN điều trị MTX phối hợp
cytarabine, việc bổ sung yếu tố kích thích tăng
trưởng bạch cầu hạt GCSF và kháng sinh dự
phòng được khuyến cáo ở tất cả các BN điều trị
phác đồ phối hợp.
MTX, cytarabine và thiotepa phối hợp
Rituximab (MATRix)
3 phác đồ phối hợp MTX – cytarabin được
phân phối ngẫu nhiên trong thử nghiệm lâm
sàng được tiến hành bởi nhóm nghiên cứu quốc
tế u lympho ngoài hạch(7). Nghiên cứu có 227 BN
mới chẩn đoán, phân phối ngẫu nhiên 3 nhóm:
nhóm 1 điều trị MTX (3,5 g/m2) phối hợp
cytarabine (2 g/m2 2 lần/ ngày x 2 ngày); nhóm 2
điều trị MTX, cytarabin và rituximab; nhóm 3
điều trị MTX, cytarabine, thiotepa (30 mg/m2) và
rituximab (MATRix). Kết quả như sau: phác đồ
MATRix có tỷ lệ CR cao nhất (49%) và cũng có
độc tính huyết học độ 4 cao nhất; kết quả nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 67
cứu sau khi phân phối ngẫu nhiên lần 2 vào
nhóm điều trị củng cố bằng WBRT hoặc hóa trị
liều cao vẫn chưa được báo cáo.
MTX đơn trị
Nghiên cứu lâm sàng pha II (New
Approaches for Brain Tumor Therapy
NABATT 96-07) với đối tượng BN mới chẩn
đoán PCNSL được điều trị MTX liều 8 g/m2
tĩnh mạch, trung hòa bằng leucovorin, điều trị
mỗi 14 ngày đến khi đạt CR hoặc tối đa đến 8
chu kì. Nếu BN đạt PR hoặc CR đánh giá trên
MRI, BN sẽ điều trị duy trì MTX 8 g/m2 mỗi
tháng liên tục 11 chu kì hoặc đến khi xuất hiện
độc tính hoặc bệnh tiến triển. Báo cáo trên 23
BN điều trị với phác đồ trên, kết quả như sau:
tỷ lệ ORR 74% với 12 BN đạt CR và 5 BN đạt
PR; trung bình PFS và OS là 12,8 và 23 tháng;
5/12 BN (40%) đạt CR không có bệnh tiến triển
sau thời gian theo dõi trung bình 6,8 năm.
Liều MTX
Khi so sánh kết quả với điều trị MTX liều
thấp, MTX liều cao cho tỷ lệ đáp ứng và sống
còn cao hơn. Khoảng liều được khuyến cáo trong
điều trị tấn công từ 3.5 đến 8 g/m2. Điều trị MTX
liều cao cần được tiến hành tại cơ sở có kinh
nghiệm và có phòng xét nghiệm định lượng
được nồng độ MTX. Bên cạnh đó, cần chỉnh liều
thuốc theo chức năng thận.
Một số nghiên cứu về đáp ứng điều trị phụ
thuộc liều MTX
Nghiên cứu hồi cứu 357 BN, kết quả cho
thấy BN điều trị MTX liều ≥3 g/m2 có OS trung
bình dài hơn có ý nghĩa so với BN điều trị liều <3
g/m2(23). Trong 144 BN được đánh giá, tỷ lệ CR là
64% và cao hơn so với 38% của nhóm BN điều trị
liều thấp MTX.
Một vài kết quả tương tự ghi nhận trong báo
cáo nghiên cứu đa trung tâm về sống còn của
370 BN điều trị tại 23 trung tâm khác nhau(9). BN
điều trị xạ trị đơn độc có tỷ lệ sống còn tại thời
điểm 2 năm thấp nhất (23%), trong khi BN điều
trị MTX liều cao phối hợp cytarabin có tỷ lệ sống
còn cao nhất (64%).
Rituximab
Mặc dù kháng thể đơn dòng kháng CD 20
(rituximab) cải thiện sống còn trên BN ULKH
hệ thống và phần lớn ULKH não nguyên phát
có biểu hiện CD 20, hiệu quả điều trị của
rituximab trong điều trị ULKH não nguyên
phát chưa được khẳng định vững chắc và rộng
vì tỷ lệ bệnh hiếm và thực hiện một thử
nghiệm lâm sàng phân phối ngẫu nhiên cũng
rất khó khăn. Khả năng vượt qua hàng rào
máu não của rituximab cũng còn nhiều tranh
cãi. Dựa trên những chứng cứ tin cậy, sử dụng
rituximab thường qui trong điều trị
lymphoma hệ thống, hầu hết các trung tâm
ung thư tại Mỹ đồng thuận sử dụng rituximab
trong điều trị ban đầu. Ngược lại, hướng dẫn
điều trị của hội ung thư thần kinh châu Âu
khuyến cáo chỉ sử dụng rituximab trong các
thử nghiệm lâm sàng. Liệu trình điều trị
rituximab phối hợp hóa trị là mỗi tuần một lần
trong 6 chu kì đầu tiên của hóa trị tấn công,
hoặc điều trị rituximab vào ngày 1 và ngày 15
của chu kì 28 ngày và điều trị đến 8 chu kì.
Các nghiên cứu hồi cứu và nghiên cứu tiến
cứu đối tượng BN tái phát chứng minh
rituximab có hiệu quả trong điều trị ULKH não
nguyên phát, mặc dù khả năng thâm nhập vào
hệ thần kinh trung ương không chắc chắn. Hơn
nữa, một vài nghiên cứu hồi cứu chứng minh
hóa trị MTX liều cao phối hợp rituximab dung
nạp tốt và cải thiện đáp ứng so với phác đồ
không có rituximab.
Nghiên cứu của Holdhoff M và cộng sự
(2014), trong số 81 BN (nhóm 1 điều trị MTX liều
cao đơn độc, nhóm 2 điều trị phối hợp MTX+
Rituximab) cho kết quả: tỷ lệ CR nhóm 1 là 36%
so với 73% nhóm BN số 2 (p=0,01); thời gian PFS
1 là 4.5 tháng so với 26,7 tháng ở nhóm 2
(p=0,003)(13).
Số chu kì hóa trị trung bình của MTX để đạt
được CR trung bình từ 6-8 chu kì ở đa số các
trường hợp. Một vài ca bệnh, không đạt CR do
hóa trị không đủ số chu kì hóa tấn công và CR có
thể đạt được sau khi thêm vài chu kì hóa trị nữa.
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 68
Để đạt được đáp ứng tối ưu, có thể hóa trị từ 10-
12 chu kì MTX liều cao.
Điều trị củng cố
Trong khi điều trị MTX liều cao tấn công có
thể kéo dài OS so với WBRT đơn độc, có ít nhất
một nửa BN đạt CR sẽ tái phát trong vòng 5
năm. Một giả thuyết đó là tái phát muộn do phát
triển từ những tế bào ác tính tồn lưu trong cơ thể
mà ở mức thấp không phát hiện được bằng kỹ
thuật đếm tế bào dòng chảy máu ngoại vi và
phối hợp PET-CT.
Hóa trị không diệt tủy và hóa trị liều cao
được củng cố bởi ghép tế bào gốc tạo máu tự
thân là hai biện pháp chính được nghiên cứu
nhằm loại bỏ bệnh tồn lưu tối thiểu. Phương
pháp này hướng đến đối tượng bệnh nhân trẻ,
có tổng trạng tốt và đạt CR sau hóa tấn công.
WBRT là điều trị củng cố thay thế ở BN trẻ,
nhất là những BN có chống chỉ định hóa trị liều
cao, xạ trị cũng cải thiện PFS tuy nhiên không cải
thiện về OS so với nhóm BN chỉ hóa trị tấn công.
Điều trị củng cố tối ưu ở BN lớn tuổi thường
không được nghiên cứu vì lý do tăng nguy cơ tái
phát và độc tính của hóa trị liều cao và xạ trị.
Một số nghiên cứu về hóa trị liều cao và
ghép tế bào gốc ở BN mới chẩn đoán ULKH não
nguyên phát đã gợi ý rằng phương pháp điều trị
này khả thi và có thể kiểm soát bệnh tốt hơn:
- Nghiên cứu của Kasenda B và CS (2012),
báo cáo 43 BN được điều trị hóa tấn công với
MTX liều cao và củng cố carmustin/thiotepa liều
cao sau đó ghép tế bào gốc có hoặc không có
WBRT(16). Sau điều trị tấn công, 34 BN đạt CR.
Sau thời gian theo dõi 10 năm, OS ước tính ở thời
điểm 2 và 5 năm là 81 và 70%, thời gian sống
trung bình 8,5 năm.
- Nghiên cứu đa trung tâm của Illerhaus G
và CS (2012), có 79 BN dưới 65 tuổi mới chẩn
đoán bệnh điều trị tấn công với MTX (8g/m2),
cytarabin, thiotepa và rituximab, tiếp theo hóa
liều cao carmustin/thiotepa và ghép tế bào gốc tự
thân(14). Chỉ những BN không đạt CR sau ghép tế
bào gốc (n=10) được WBRT. Đánh giá 76 BN cho
kết quả: 27% đạt CR sau hóa tấn công, 77% sau
ghép tế bào gốc. Sau thời gian theo dõi 29 tháng,
tỷ lệ OS tại 1 năm và 2 năm là 92 và 87%. Có 5
trường hợp tử vong liên quan đến điều trị.
Tái phát muộn có thể xảy ra ở trên những
BN hóa trị liều cao củng cố, do vậy phác đồ điều
kiện hóa tối ưu cho đến nay cũng chưa xác định
được. Độc tính của hóa trị diệt tủy bao gồm giảm
bạch cầu hạt trung tính và giảm tiểu cầu độ 3-4,
sốt giảm bạch cầu hạt xảy ra ở gần một nửa số
BN, tỷ lệ tử vong liên quan đến điều trị từ 2-5%.
Tác dụng phụ trên cũng không cao hơn BN
ULKH ngoài hệ thần kinh trung ương hóa liều
cao và ghép tế bào gốc tự thân.
- Nghiên cứu của Schorb E và cộng sự (2013),
hồi cứu 105 BN ghép tế bào gốc trong thời gian
1997-2011, thời gian PFS và thời gian OS là 85 và
121 tháng, OS tại thời điểm 2 năm và 5 năm là
82% và 79%(25).
ULKH não nguyên phát rất nhạy với xạ trị,
nhưng sử dụng phương pháp này trong điều trị
ban đầu đã được cảnh báo theo thời gian vì hóa
trị tấn công đã được tối ưu hóa và các nghiên
cứu đã không chứng tỏ được hiệu quả của
WBRT củng cố vì nó làm tăng nguy cơ độc tính.
Nghiên cứu pha III của Korfel A và CS (2015)
gồm 551 BN mới chẩn đoán, được phân nhóm
ngẫu nhiên: nhóm điều trị 6 chu kì hóa trị
(MTX4g/m2 có hoặc không có ifosfamide), nhóm
2 hóa tương tự phối hợp WBRT (45Gy/liều;
1,5Gy/liều). 66 BN (13%) BN tử vong trong khi
hóa trị ban đầu. 410 BN hoàn thành hóa trị bước
1, kết quả như sau(17): thời gian theo dõi 81 tháng,
BN nhận WBRT cải thiện PFS không có ý nghĩa
thống kê (18,2 vs 11,9 tháng; HR 0,83; p=0,14),
không có sự khác biệt OS (35,6 vs 37,1 tháng) khi
so sánh với BN không xạ trị; tỷ lệ BN xạ trị trì
hoãn điều trị do độc tính cao hơn nhóm BN
không xạ (71 vs 46%). Bên cạnh đó BN xạ trị có
tổng trạng, chức năng nhận thức kém hơn và tác
dụng phụ nhiều hơn nhóm BN không xạ (sa sút
trí tuệ, tổn thương chất trắng, suy giảm chức
năng nhận thức, mất điều hòa và vận động
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 69
không tự chủ).
Thêm nữa, xạ trị cũng là phương pháp điều
trị thay thế liệu pháp bước 2 trên BN không đạt
được đáp ứng hoàn toàn sau hóa tấn công, và
cũng là phương pháp điều trị cứu vớt BN có
chống chỉ định hóa trị hoặc tái phát, kháng trị.
Điều trị hỗ trợ
Glucocorticoid
Đáp ứng ban đầu của BN ULKH có thể cao
đến 70% tuy nhiên những cải thiện triệu chứng
và hình ảnh thường thoáng qua, bệnh thường
xuất hiện trở lại trong vòng vài tháng sau khi
ngưng thuốc. Điều trị corticoid có thể làm chậm
hoặc gây sai lệch chẩn đoán và biến đổi hình thái
mô bệnh học khối u, nên tuyệt đối không được
sử dụng thuốc trước khi làm xét nghiệm giải
phẫu bệnh. Nếu thực sự cần thiết, BN có triệu
chứng phù não hoặc tăng áp lực nội sọ, có thể sử
dụng mannitol. Dexamethasone là thuốc thường
được sử dụng khi chuẩn bị điều trị, với liều 4 mg
uống 4 lần/ngày. Nếu dự định xạ trị, corticoid
cần sử dụng liên tục đủ liều đến khi xạ trị kết
thúc, sau đó có thể giảm liều dần. Sử dụng
glucocorticoid kéo dài có thể dẫn đến suy giảm
miễn dịch và làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Cần
lưu ý ở những BN đang hóa trị vì làm tăng nguy
cơ vì BN có thể giảm bạch cầu hạt do hóa trị kèm
theo. BN điều trị dexamethasone liều cao trong
thời gian dài hơn 2-3 tuần cần được dùng kháng
sinh dự phòng chống viêm phổi do
pneumocystis carini; trimethoprim-
sulfamethasone cần tránh sử dụng khi phối hợp
MTX vì cả hai thuốc trên ảnh hưởng đến chuyển
hóa folate.
Chống co giật
BN ULKH não có nguy cơ co giật, nhưng
điều trị chống co giât dự phòng không có tác
dụng giảm tần số và mức độ co giật, và còn có
phản ứng tương tác có hại với các thuốc độc tế
bào và corticoid, chỉ điều trị chống co giật cho
những bệnh nhân có triệu chứng.
Điều trị những trường hợp đặc biệt
Bệnh nhân suy thận
MTX liều cao khá an toàn trên BN suy thận
nhẹ đến trung bình nếu như được giảm liều một
các thích hợp. MTX không được sử dụng trên
BN có độ lọc cầu thận (CrCL) <30 ml/phút. Một
nghiên cứu hồi cứu khảo sát cách sử dụng MTX
liều cao (3,5 g đến 8 g/m2) trên 31 BN lớn tuổi
(trung bình 74 tuổi), có nhiều BN suy thận(30).
Tổng số có 88 chu kì sử dụng MTX giảm liều vì
CrCL thấp. Tỷ lệ đáp ứng là 97% (60% đáp ứng
hoàn toàn). Độc tính mức độ nặng (độ 3-4) thấp,
bao gồm độc tính huyết học (7%), rối loạn tiêu
hóa (3%), biến chứng tim (3%) và không có độc
tính trên thận độ 3-4.
Đối với BN suy thận nặng không phù hợp
hóa trị MTX liều cao vì có khả năng làm giảm
chức năng thận hơn, thường chỉ định hóa trị
thay thế như temozolomide và rituximab,
cytarabine liều cao, hoặc thuốc kháng folate khác
ngoài MTX hoặc hóa trị liều cao và ghép tế bào
gốc. Trường hợp BN có tiên lượng xấu, có thể
điều trị giảm nhẹ bằng WBRT hoặc
glucocorticoid đơn trị.
Bệnh nhân nhiễm HIV
ULKH não nguyên phát là bệnh lý ác tính
liên quan đến suy giảm miễn dịch mắc phải
(AIDS), đặc biệt ở BN có CD 4 <50 tế
bào/microL. BN có HIV thường điều trị với
hóa trị có MTX phối hợp kháng virus, có thể
có hoặc không có WBRT.
Tổn thương phối hợp u lympho màng não
Phương pháp điều trị phổ biến nhất là tiêm
MTX kênh tủy liều 12,5 mg2 lần/tuần đến khi tế
bào ác tính trong dịch não tủy âm tính, sau đó
tiêm ít nhất 2 lần nữa. MTX liều cao toàn thân
được điều trị song song, nồng độ duy trì trong
dịch não tủy thường phải đạt từ 10-5 đến 10-6
phân tử trong 36 giờ.
Liệu pháp điều trị thay thế gồm tiêm kênh
tủy cytarabine phóng thích chậm, 4
hydroxyperoxycyclophosphamide hoặc hóa trị
toàn thân (carmustine, vincristine, MTX liều cao,
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 70
etoposide và methylprednisolon). Xạ trị thường
sử dụng để điều trị cứu vớt bệnh tái phát hoặc
điều trị ổ di căn của u lympho hệ thống. Tiêm
nội tủy rituximab đang được nghiên cứu ở BN
ULKH não tế bào B có tổn thương màng não.
Điều trị bệnh tái phát hoặc kháng trị
Xạ trị não được chỉ định ở BN không đáp
ứng với MTX hoặc trong trường hợp bệnh tái
phát không đáp ứng với điều trị lại MTX hoặc
hóa trị thay thế.
Điều trị ULKH não nguyên phát tái phát
kháng trị rất hạn chế. Sau đây là một số
phương pháp:
Điều trị lại MTX (liều 3-8 g/m2) hoặc hóa trị
phối hợp MTX nếu BN trước đó đã đạt đáp ứng
với phác đồ trên, thông thường BN có đáp ứng
thứ phát cao với MTX.
Hóa trị thay thế (cytarabine liều cao có hoặc
không có etoposide, temozolomide, thiotepa) và
hóa trị liều cao kết hợp ghép tế bào gốc tự thân.
WBRT ở BN trước đó chưa xạ trị. Xạ phẫu là
một lựa chọn ở BN đã có WBRT trước đó.
Thay đổi phác đồ với MTX
Những BN đã điều trị MTX đơn độc, lặp lại
điều trị MTX liều cao có thể đạt được lui bệnh
hoàn toàn trên 50% trường hợp.
Nghiên cứu của Plotkin SR và CS (2004) báo
cáo BN đạt CR sau hóa trị lại MTX liều cao ở
16/22 BN tái phát lần đầu, 2/4 BN tái phát lần 2.
OS trung bình 62 tháng sau tái phát lần 1. Độc
tính huyết học gặp nhiều nhất, 10 chu kì độ 3-4
trong tổng số 566 chu kì MTX(21).
Phác đồ hóa trị cứu vớt khác
Cytarabine liều cao
Đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc độc
tế bào khác đạt CR ở 40-70% BN tái phát
kháng trị. Cytarabin liều cao phối hợp
etoposide đạt tỷ lệ đáp ứng 47% trong tổng số
43 BN tái phát kháng trị, 15 BN trong số đó
điều trị hóa trị liều cao phối hợp ghép tế bào
gốc trong nghiên cứu của Soussain C và CS
(2008). OS trung bình là 18,3 tháng(27).
Temozolomide phối hợp rituximab
Một số ca lâm sàng đánh giá tác dụng của
temozolomide phối hợp rituximab:
Báo cáo của Enting RH (2004), điều trị 15 BN
tái phát kháng trị với rituximab và
temozolomide, kết quả: ORR đạt 53%, OS đạt 14
tháng, PFS 7,7 tháng(5).
Báo cáo của Wong ET (2004), điều trị 7 BN tái
phát kháng trị với rituximab và temozolomide.
Kết quả có 5 BN đạt CR, 2 BN PR. OS trung bình
8 tháng (3-12 tháng), thời gian đáp ứng trung
bình 6 tháng(29).
Pemetrexed
Pemetrexed là một thuốc kháng folate nhắm
nhiều đích với phổ tác dụng rộng hơn MTX. Sử
dụng pemetrexed còn đang trong thực nghiệm.
Một nghiên cứu nhỏ tiến cứu đánh giá sử dụng
Pemetrexed trên 11 BN tái phát kháng trị, có 6
BN (55%) có đáp ứng trong đó 4 BN (36%) đạt
CR. PFS và OS trung bình 5,7 và 10,1 tháng(22).
Thuốc khác
Một số tác nhân khác đang được điều trị thử
nghiệm trên BN ULKH nguyên phát hệ thần
kinh trung ương tái phát kháng trị như
lenalodimide, ibrutinib, temsirolimus và một số
thuốc ức chế chốt miễn dịch.
Ghép tế bào gốc
Dữ liệu nghiên cứu hiệu quả ghép tế bào gốc
ở BN tái phát kháng trị rất hạn chế. Một số báo
cáo về kết quả của phương pháp điều trị trên:
- Nghiên cứu pilot 22 BN, hóa trị liều cao
(thiotepa, busulfan, cyclophosphamide) và ghép
tế bào gốc tự thân, kết quả OS 3 năm là 60%(26).
- Nghiên cứu của Soussain C và CS (2008), 43
BN điều trị 2 chu kì cytarabine liều cao phối hợp
etoposide, sau đó hóa trị thiotepa, busulfan,
cyclophosphamide và ghép tế bào gốc tự thân.
Kết quả có 3 BN tử vong do sốc nhiễm trùng
hoặc hoại tử mạc treo. Thời gian theo dõi trung
bình 36 tháng, OS trung bình là 18,3 tháng. Tỷ lệ
OS và PFS 2 năm là 45 và 43%(26).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 71
Xạ trị
WBRT vẫn còn là biện pháp điều trị cứu vớt
hợp lý ở BN không đạt được đáp ứng tốt sau hóa
tấn công. WBRT phối hợp corticoid có thể dùng
như một phương pháp điều trị thay thế ở những
BN không có khả năng hóa trị.
Đáp ứng hoàn toàn trên hình ảnh và lâm
sàng có thể đạt được khi BN xạ trị với liều chuẩn
20-40 Gy. Dù đạt được đáp ứng khá nhanh
nhưng bệnh có nguy cơ tái phát trên 90% BN
trong vòng 1 năm, OS trung bình ở BN dưới 60
tuổi và trên 60 tuổi là 23 vs 6-8 tháng(19). Độc tính
thần kinh thường xuất hiện trên BN xạ trị với
liều tổng >36Gy.
Tiên lượng
ULKH nguyên phát hệ thần kinh trung ương
nếu không điều trị sẽ tử vong nhanh chóng,
trung bình 1,5 tháng kể từ sau khi chẩn đoán. Xạ
trị toàn bộ não giúp kéo dài thời gian sống
khoảng 10 – 18 tháng, kèm theo đó là những biến
chứng trễ đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi,
do đó gây giảm chất lượng cuộc sống. Hóa trị có
thể đạt được OS trung bình đến 44 tháng, sống
còn tại thời điểm 5 năm gặp ở 30%. Mặc dù
những phương pháp điều trị hiện tại có thể kéo
dài thời gian sống của BN, đa số BN không được
chữa khỏi. Sống còn kéo dài có thể đạt được 15-
20% BN điều trị với hóa trị có MTX đơn độc hoặc
phối hợp xạ trị. Kháng trị với MTX cũng là một
yếu tố tiên lượng bệnh xấu. Những BN kháng
MTX thường có bất thường gen methylat hóa
folate, và những BN này thường sống không quá
3 năm.
KẾT LUẬN
ULKH não nguyên phát là bệnh hiếm gặp
của ULKH ngoài hạch. Nguy cơ gây bệnh
thường gặp do suy giảm miễn dịch và tình
trạng này có thể đóng vai trò sinh bệnh học
của bệnh. Cần đánh giá tuổi, tổng trạng, chức
năng thận của BN để lựa chọn phương pháp
điều trị thích hợp.
Phương pháp điều trị cơ bản ULKH não
nguyên phát tế bào B lớn lan tỏa bao gồm hóa trị
nền tảng có MTX liều cao phối hợp các tác nhân
khác và rituximab. Ghép tế bào gốc tự thân
mang lại hiệu quả cao. Xạ trị là phương pháp
điều trị hỗ trợ và thay thế khi BN không có khả
năng hóa trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abrey LE, Yahalom J, DeAngelis LM (2000), Treatment for
primary CNS lymphoma: the next step. J Clin Oncol, 18:3144-
3160.
2. Aozasa K, Ohsawa M, Yamabe H, et al (1990). Malignant
lymphoma of the central nervous system in Japan: histologic
and immunohistologic studies, Int J Cancer, 45:632-636.
3. Batchelor T, Carson K, O'Neill A, et al (2003). Treatment of
primary CNS lymphoma with Methotrexate and Deferred
Radiotherapy: A report of NABTT. J Clin Oncol, 21:1044-1049.
4. Batchelor T, et al (2018). Treatment and prognosis of primary
central nervous system lymphoma. URL:
treatment- and- prognosis-
of- primary- central- nervous- system- lymphoma.
5. Enting RH, Demopoulos A, DeAngelis LM, et al (2004).
Salvage therapy for primary CNS lymphoma with a
combination of rituximab and temozolomide. Neurology,
63:901-906.
6. Ferreri AJ, Blay JY, Reni M, et al (2003). Prognostic scoring
system for primary CNS lymphomas: The International
Extranodal Lymphoma Study Group experience. J Clin Oncol,
21(2):266 - 272.
7. Ferreri AJ, Cwynarski K, Pulczynski E, et al (2016).
Chemoimmunotherapy with methotrexate, cytarabine,
thiotepa, and rituximab (MATRix regimen) in patients with
primary CNS lymphoma: results of the first randomisation of
the International Extranodal Lymphoma Study Group-32
(IELSG32) phase 2 trial. Lancet Haematol, 3(5):e217-27.
8. Ferreri AJ, Reni M, Foppoli M, et al (2009). High-dose
cytarabine plus high-dose methotrexate versus high-dose
methotrexate alone in patients with primary CNS lymphoma: a
randomised phase 2 trial. Lancet, 374(9700):1512-1520.
9. Ferreri AJ, Reni M, Pasini F, et al (2002). A multicenter study of
treatment of primary CNS lymphoma, Neurology, 58:1513-1522.
10. Fine HA, Mayer RJ (1993). Primary central nervous system
lymphoma. Ann Intern Med, 119:1093-1102.
11. Herrlinger U, Küker W, Uhl M, et al (2005). NOA-03 trial of
high-dose methotrexate in primary central nervous system
lymphoma: final report. Ann Neurol, 57:843-848.
12. Hoffman S, Propp JM, Mc Carthy BJ (2006). Temporal trends in
incidence of primary brain tumor in the United States 1985-
1999. Neuro Oncol: 8-27.
13. Holdhoff. M, Ambady P, Abdelaziz A (2014). High dose
Methotrexate with or without Rituximab in Newly diagnosed
primary CNS lymphoma. Neurology, 83:235 - 239.
14. Illerhaus G, Fritsch K, Egerer G, et al (2012). Sequential high
dose immuno-chemotherapy followed by autologous
peripheral blood stem cell transplantation for patients with
untreated primary central nervous system lymphoma - a
multicentre study by the colloaborative PCNSL study group
Freiburg (abstract #302). Blood, pp.120-140.
15. James LR, Eric DH, Jeffrey LG et al (2013). Intensive
Chemotherapy and Immunotherapy in Patients with Newly
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 72
Diagnosed Primary CNS Lymphoma: CALGB 50202 (Alliance
50202). Journal of Clinical Oncology, 31(25):3061-3068.
16. Kasenda B, Schorb E, Fritsch K, et al (2012). Prognosis after
high-dose chemotherapy followed by autologous stem-cell
transplantation as first-line treatment in primary CNS
lymphoma--a long-term follow-up study. Ann Oncol, 23:2670-
2679.
17. Korfel A, Thiel E, Martus P et al (2015). Randomized phase III
study of whole-brain radiotherapy for primary CNS
lymphoma. Neurology, 84:1242-8.
18. Krogh-Jensen M, D’Amore F, Jensen MK, et al (1995).
Clinicopathological features, survival and prognostic factors of
primary central nervous system lymphomas: trends in
incidence of primary central nervous system lymphomas and
primary malignant brain tumors in a well-defined
geographical area Leuk. Lymphoma, 19:223–233.
19. Laack NN, Ballman KV, Brown PB, et al (2006). Whole-brain
radiotherapy and high-dose methylprednisolone for elderly
patients with primary central nervous system lymphoma:
Results of North Central Cancer Treatment Group (NCCTG. Int
J Radiat Oncol Biol Phys, 65:1429-1433.
20. Morris PG, Correa DD, Yahalom J, et al (2013). Rituximab,
methotrexate, procarbazine, and vincristine followed by
consolidation reduced-dose whole-brain radiotherapy and
cytarabine in newly diagnosed primary CNS lymphoma: final
results and long-term outcome. J Clin Oncol, 31:3971-4001.
21. Plotkin SR, Betensky RA, Hochberg FH, et al (2004). Treatment
of relapsed central nervous system lymphoma with high-dose
methotrexate. Clin Cancer Res, 10:5643-5659.
22. Raizer JJ, Rademaker A, Evens AM, et al (2012). Pemetrexed in
the treatment of relapsed/refractory primary central nervous
system lymphoma. Cancer, 118:3743-3757.
23. Reni M, Ferreri AJ, Guha-Thakurta N, et al (2001). Clinical
relevance of consolidation radiotherapy and other main
therapeutic issues in primary central nervous system
lymphomas treated with upfront high-dose methotrexate. Int J
Radiat Oncol Biol Phys, 51:419-420.
24. Rock JP, Cher L, Hochberg FH, et al (1996). Primary CNS
lymphoma. In: Neurological surgery, 4th ed, Yomans JR (Ed).
WB Saunders, Philadelphia.
25. Schorb E, Kasenda B, Atta J, et al (2013). Prognosis of patient
with primary CNS lymphoma after high- dose chemotherapy
followed by autologous stem cell transplantation.
Heamatologica, 98:765-770.
26. Soussain C, Suzan F, et al (2001). Results of intensive
chemotherapy followed by hematopoietic stem-cell rescue in 22
patients with refractory or recurrent primary CNS lymphoma
or intraocular lymphoma. J Clin Oncol, 19:742-745.
27. Soussain C, Taillandier L, et al (2008). Intensive chemotherapy
followed by hematopoietic stem-cell rescue for refractory and
recurrent primary CNS and intraocular lymphoma:
SociétéFrançaise de Greffe de Moëlle Osseuse-Thérapie
Cellulaire. J Clin Oncol, 26:2512-2526.
28. Villano JK, et al (2011). Age: gendre, and radical differences in
incidence and survival in primary CNS lymphoma, Br J Cancer,
105(9):1414-1418.
29. Wong ET, Tishler R, Barron L, et al (2004).
Immunochemotherapy with rituximab and temozolomide for
central nervous system lymphomas. Cancer, 101(1):139.
30. Zhu JJ, Gerstner ER, Engler DA, et al (2009). High-dose
methotrexate for elderly patients with primary CNS
lymphoma. Neuro Oncol, 11, 211-212.
Ngày nhận bài báo: 15/7/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cap_nhat_cac_phuong_phap_dieu_tri_benh_u_lympho_khong_hodgki.pdf