Canh tác cây ăn quả và rau - Con đường mang lại lợi nhuận cao cho nông hộ nhỏ

Tài liệu Canh tác cây ăn quả và rau - Con đường mang lại lợi nhuận cao cho nông hộ nhỏ: H Ộ I T H Ả O V Ề PH ÁT T RI ỂN T ÂY B Ắ C 66 Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người Canh tác cây ăn quả và rau - con đường mang lại lợi nhuận cao cho nông hộ nhỏ Phạm Thị Sến1, Oleg Nicetic2 và Gordon Rogers3 Tổ chức/cơ quan 1Viện Khoa học Kĩ thuật Nông lâm nghiệp Miền núi Phía Bắc, Phú Thọ, Việt Nam 2School of Agriculture and Food Science, University of Queensland, Australia. 3Applied Horticultural Research, Sydney, Australia Tác giả đại diện o.nicetic@uq.edu.au Từ khóa Mộc Châu, mận, rau an toàn, nhóm nông dân Giới thiệu Huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La là một cao nguyên có độ cao 1,050 m trên mực nước biển, và có khí hậu ôn đới phù hợp với việc trồng cây ăn quả ôn đới có yêu cầu độ lạnh thấp đến vừa phải và trồng rau ôn đới vào các tháng mùa hè. Đây là một cơ hội độc đáo cho nông dân ở đây phát triển sản xuất quả và rau, từ đó đa dạng hóa hệ thống canh tác của mình, vốn chỉ được tập trung vào sản ...

pdf4 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Canh tác cây ăn quả và rau - Con đường mang lại lợi nhuận cao cho nông hộ nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
H Ộ I T H Ả O V Ề PH ÁT T RI ỂN T ÂY B Ắ C 66 Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người Canh tác cây ăn quả và rau - con đường mang lại lợi nhuận cao cho nông hộ nhỏ Phạm Thị Sến1, Oleg Nicetic2 và Gordon Rogers3 Tổ chức/cơ quan 1Viện Khoa học Kĩ thuật Nông lâm nghiệp Miền núi Phía Bắc, Phú Thọ, Việt Nam 2School of Agriculture and Food Science, University of Queensland, Australia. 3Applied Horticultural Research, Sydney, Australia Tác giả đại diện o.nicetic@uq.edu.au Từ khóa Mộc Châu, mận, rau an toàn, nhóm nông dân Giới thiệu Huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La là một cao nguyên có độ cao 1,050 m trên mực nước biển, và có khí hậu ôn đới phù hợp với việc trồng cây ăn quả ôn đới có yêu cầu độ lạnh thấp đến vừa phải và trồng rau ôn đới vào các tháng mùa hè. Đây là một cơ hội độc đáo cho nông dân ở đây phát triển sản xuất quả và rau, từ đó đa dạng hóa hệ thống canh tác của mình, vốn chỉ được tập trung vào sản xuất ngô từ những năm 1990. Tuy nhiên, những cơ hội này chưa được phát huy cho đến năm 2010, khi hai dự án kinh doanh nông nghiệp của ACIAR (một dự án tập trung về mận, một dự án tập trung vào sản xuất rau trái vụ) được tiến hành nhằm nghiên cứu cách tận dụng các cơ hội này và phát triển một mô hình sản xuất rau quả theo thị trường. Hiện tại cả hai dự án đều đang trong pha thứ hai, và các kết quả nghiên cứu chính từ hai dự án này được trình bày ở dưới đây. Cách tiếp cận nghiên cứu Cả hai dự án đều áp dụng cách tiếp cận theo chuỗi giá trị, và làm việc trực tiếp với các bên liên quan khác nhau, từ nông dân và thu gom địa phương cho đến các thương lái quy mô lớn và các nhà bán lẻ hiện đại. Dự án đồng thời cũng tiến hành nghiên cứu mang tính thích ứng (adaptive research) nhằm giải quyết các hạn chế trong sản xuất và cùng với chính quyền địa phương thúc đẩy việc thành lập các nhóm nông dân. Sản xuất mận có quy mô lớn hơn nhiều (16-18 tấn/năm) so với rau. Vì vậy, các mô hình sản xuất và bán sản phẩm đang được phát triển cho mận xanh xuất khẩu sang Trung Quốc (chế biến), và cho mận chín bán ở thị trường truyền thống và thị trường bán lẻ hiện đại. Dự án mận đặc biệt Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 67 tập trung vào việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị mận chất lượng cao cung ứng cho các cửa hàng thực phẩm sạch và siêu thị tại Hà Nội. Đối với rau, do khi dự án bắt đầu thì sản xuất rau ôn đới vào mùa hè vẫn chỉ ở giai đoạn sơ khai, nhóm dự án chủ yếu tập trung hỗ trợ các nhóm nông dân để cung ứng cho phân khúc bán lẻ hiện đại, và tập trung vào việc phát triển và tiến hành các hoạt động sản xuất, sau thu hoạch và bán sản phẩm tối ưu. Các tiêu chuẩn rau an toàn và VietGAP được sử dụng để định hướng cho sản xuất. Các kết quả Khi dự án quả ôn đới AGB/2008/002 bắt đầu vào năm 2009, giá mận chin rơi vào khoảng 2000-3000 VND/kg, chỉ cao hơn giá mận xanh xuất đi Trung Quốc (để chế biến) một it. Vì vậy thời gian này nhiều hộ nông dân chủ yếu bán mận xanh. Khi khối lượng mận xuất khẩu sang Trung Quốc tăng trong vòng những năm sau đó (đối với cả mận xanh và mận chin), lượng cung mận đi đến thị trường Hà Nội giảm, và giá mận chin bắt đầu cải thiện, và các hộ nông dân từ đó cũng có hứng thú với sản xuất mận hơn. Dự án AGB/2008/002 đã hợp tác với dự án Pháp ASODIA và hỗ trợ việc thành lập các nhóm nông dân và tập trung vào việc cải thiện các hoạt động quản lý vườn cây và tán cây nhằm tăng chất lượng quả nhìn chung. Cùng lúc đó, chuỗi giá trị cung ứng mận chọn từ một vài khu vực sản xuất mận tốt nhất ở Mộc Châu (tiều khu Bản Ôn, Tà Lọng, Cờ Đỏ và Pakhen) đến các cửa hàng thực phẩm sạch và siêu thị ở Hà Nội cũng được xây dựng. Mận xô (không phân loại) cũng bắt đầu được chuyển đi đến khác thị trường ở miền Nam với khối lượng lớn. Nông dân trồng mận ở các vùng sản xuất có điều kiện tốt hiện tại có thu nhập cao và ổn định từ việc bán mận chín xô (không phân loại) qua các kênh truyền thống đến Hà Nội, Đồng bằng Sông Hồng, các tỉnh miền Nam và Trung Quốc (Biểu đồ 1). Dao động về sản lượng ở trong biểu đồ phản ánh sản lượng dao động theo hai năm một (biannual bearing) của mận Tam Hoa. Cũng cần lưu ý rằng giá mận trong năm có sản lượng cao vẫn giữ ở mức ổn định, chủ yếu do xuất khẩu sang Trung Quốc tăng trong các năm có sản lượng cao. So với việc bán mận không phân loại qua kênh chợ truyền thống, các hộ nông dân bán mận chin đã phân loại qua kênh bán lẻ hiện đại với mức giá chênh lệnh cao hơn tầm 30-100%. Chênh lệch giá thường cao hơn vào giữa vụ mận chính, khi giá mận tại vùng sản xuất nhìn chung xuống thấp. Mức độ hài lòng của các hộ nông dân với mức chênh lệch giá họ thu được tỷ lệ nghịch với công lao động họ phải bỏ ra thêm để thu hái mận một cách có chọn lọc, và công lao động này lại tỉ lệ nghịch với mức độ đồng H Ộ I T H Ả O V Ề PH ÁT T RI ỂN T ÂY B Ắ C 68 Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người đều của quả. Nông dân áp dụng các kĩ thuật quản lý tán cây (đốn tỉa,) tốt và có vườn cây cho thu hoạch tốt thì thường cảm thấy hài lòng với việc tham gia bán sản phẩm cho các nhà bán lẻ hiện đại hơn. Trong suốt thời gian hoạt động của dự án, khối lượng mận mà nhóm nông dân dự án cung ứng cho một số nhà bán lẻ dẫn đầu phân khúc tăng từ 3 tấn trong năm 2011 đến 41.8 tấn năm 2017. Tuy nhiên lượng mận này vẫn chỉ chiếm chưa đến 1% tổng sản lượng của Mộc Châu. Các hộ nông dân tham gia vào dự án rau gia tăng thu nhập ròng của họ một cách đang kể thông qua việc cung cấp rau chất lượng cao và được chứng nhận an toàn cho các cửa hàng bán lẻ và người tiêu dùng tại Hà Nội. Năm 2015, một nhóm nông dân tại bản Tự Nhiên đạt mức thu nhập trung bình vào khoảng 300 triệu đồng/ha, cao hơn 150% so với thu nhập từ rau của các hộ không tham gia dự án. Năm 2016, 87 hộ nông dân dự án – trong đó 71% là phụ nữ, và 10% đến từ các nhóm dân tộc thiểu số Mường, Thái và Hmông – sản xuất tầm 690 tấn rau chứng nhận an toàn ở các bản Tự Nhiên, Ta Niết, An Thái và Vân Hồ ở Mộc Châu. Số liệu từ một hộ nông dân có kinh nghiệm lâu năm cho thấy rau ôn đới an toàn trồng vào mùa hè là một nguồn thu nhập bền vững choc các hộ nông dân (Biểu đồ 2). Sản lượng rau chứng nhận an toàn ở Mộc Châu tăng trung bình 45% mỗi năm (từ 2013 đến 2016), và diện tích rau ôn đới an toàn trồng vào mùa hè tăng từ 4ha vào năm 2012 lên 30ha năm 2016. Các hộ nông dân tham gia vào chuỗi cung ứng rau an toàn gia tăng thu nhập của mình một cách đang kể, lên tới mức 70-150 triệu VND/ha/năm. Ở huyện Vân Hồ, một nông dân dân tộc Hmông đạt mức thu nhập ròng từ rau tới 116 triệu VND (6,500 AUD)/ha/năm, tăng 480% so với mức thu nhập 20 triệu (1,100 AUD)/ha từ trồng lúa. Một dự án ACIAR hiện tại (AGB/2014/035) đang làm việc với các nhóm nông dân mới để xây dựng mô hình mở rộng quy mô để có thể chiếm được thị phần lớn hơn trong tổng số 1 triệu tấn rau tiêu thụ trong Hà Nội mỗi năm. Mô hình này sẽ bao gồm việc quản trị và điều hành nhóm một cách bình đẳng và liên kết với các đối tác cả ở khu vực tư nhân lẫn nhà nước. Thảo luận và kết luận Các số liệu cho thấy việc đa dạng hóa sản xuất thông qua sản xuất quả và rau đưa đến cơ hội tăng thu nhập cho các nông hộ nhỏ. Các hoạt động Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 69 sử dụng đất khác, ví dụ như trồng ngô hoặc lúa, mang lại thu nhập ròng khoảng 10 triệu VND (560 AUD)/ha/năm, chỉ vào khoảng 10% thu nhập nông dân có thể có từ việc sản xuất rau chứng nhận an toàn. Cây mận, và có thể là hồng, lê hoặc đào có thể thay thế ngô ở các vùng đất dốc nhẹ, trong khi rau có thể được trồng ở các vùng đất bằng, nơi có thể tiếp cận các nguồn nước. Mận Tam Hoa hiện đang có vị thế tốt ở thị trường nội địa nhờ đặc điểm về mùa vụ (vụ thu hoạch mận Tam Hoa ở Việt Nam rơi vào 2-3 tuần trước khi mận Trung Quốc bắt đầu xâm nhập thị trường). Các loại quả khác phải cạnh tranh với quả nhập từ Trung Quốc. Tương tự như vậy, rau trái vụ cũng phải cạnh tranh với rau nhập khẩu từ Trung Quốc, vì vậy yếu tố chất lượng và chứng nhận sản xuất rau an toàn sẽ là một lợi thế cạnh tranh giá trị cho rau trái vụ ở Mộc Châu. Biểu đồ 1: Khối lượng mận/ha và doanh thu/ha của một hộ trồng mận điển hình ở tiều khu Tà Lọng – huyện Mộc Châu Biểu đồ 2: Thu nhập trung bình/ha/tháng từ trồng rau ôn đới trái vụ của một hộ nông dân có kinh nghiệm lâu năm ở hợp tác xã Tự Nhiên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfs13_3127_2207174.pdf
Tài liệu liên quan