Tài liệu Can thiệp nội mạch trong điều trị giả phình động mạch gan gây chảy máu đường mật: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 94
CAN THIỆP NỘI MẠCH TRONG ĐIỀU TRỊ
GIẢ PHÌNH ĐỘNG MẠCH GAN GÂY CHẢY MÁU ĐƯỜNG MẬT
Đặng Đình Hoan*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Giả phình động mạch gan là thực thể bệnh lý hiếm. Chúng thường gây nên chảy máu
đường mật. Ứng dụng X Quang can thiệp làm nút tắc chọn lọc nhánh động mạch gan có túi giả phình ngày
càng phát triển.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn và tỷ lệ thành công của phương pháp can thiệp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo bốn trường hợp được chẩn đoán và điều trị can thiệp nút
tắc túi giả phình mạch gan bằng vật liệu keo sinh học (N-Butyl Cyano Acrylat – NBCA – Histoacryl*) tại Bệnh
viện Bình Dân.
Kết quả: Cả 4 trường hợp đều cho kết quả thuận lợi.
Kết luận: Nút tắc mạch chọn lọc giả phình động mạch gan là phương pháp điều trị có tính chất xâm lấn tối
thiểu, an toàn, hiệu quả với tỷ lệ thành công cao và kết quả lâm ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Can thiệp nội mạch trong điều trị giả phình động mạch gan gây chảy máu đường mật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 94
CAN THIỆP NỘI MẠCH TRONG ĐIỀU TRỊ
GIẢ PHÌNH ĐỘNG MẠCH GAN GÂY CHẢY MÁU ĐƯỜNG MẬT
Đặng Đình Hoan*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Giả phình động mạch gan là thực thể bệnh lý hiếm. Chúng thường gây nên chảy máu
đường mật. Ứng dụng X Quang can thiệp làm nút tắc chọn lọc nhánh động mạch gan có túi giả phình ngày
càng phát triển.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn và tỷ lệ thành công của phương pháp can thiệp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo bốn trường hợp được chẩn đoán và điều trị can thiệp nút
tắc túi giả phình mạch gan bằng vật liệu keo sinh học (N-Butyl Cyano Acrylat – NBCA – Histoacryl*) tại Bệnh
viện Bình Dân.
Kết quả: Cả 4 trường hợp đều cho kết quả thuận lợi.
Kết luận: Nút tắc mạch chọn lọc giả phình động mạch gan là phương pháp điều trị có tính chất xâm lấn tối
thiểu, an toàn, hiệu quả với tỷ lệ thành công cao và kết quả lâm sàng tốt.
Từ khóa: Nút tắc mạch chọn lọc; giả phình động mạch gan
ABSTRACT
ENDOVASCULAR INTERVENTIONAL TREATMENT IN HEPATIC ARTERY PSEUDOANEURYSM
CAUSING BILIARY DUCT HEMORRHAGE
Dang Dinh Hoan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 94 - 99
Introduction: Hepatic artery pseudoaneurysm are uncommon entities. They often cause the biliary duct
hemorrhage. Interventional radiologic application with glue selective embolization of pseudoaneurysm hepatic
artery branch is rapidly developing.
Purpose: This study aims to evaluate effectiveness, safety and succesful rate of the interventional method.
Patients and method: Reporting four cases diagnosed and treated by the biological glue embolization of
hepatic artery pseudoaneurysm at Binh Dan hospital.
Result: All four cases had favorable outcomes.
Conclusion: Glue selective embolization of hepatic artery pseudoaneurysm is treatment method having
minimal invasion, safety, effectiveness with high succesful rate and good clinical result.
Keywords: glue selective embolization; hepatic artery pseudoaneurysm
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1654 , Francis Glisson mô tả đầu tiên
bệnh lý chảy máu đường mật. Đó là do có sự
thông thương của đường mật và mạch máu
(động mạch gan, tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch gan).
Lâm sàng có các triệu chứng chủ yếu là chảy
máu tiêu hóa (dấu hiệu Foldarri: cục máu hình
thỏi bút chì trong chất nôn), sốt nhiễm trùng,
đau hạ sườn phải và vàng da. Nguyên nhân của
chảy máu đường mật thường gặp là sau chấn
thương; nhiễm trùng đường mật(6,7) (thường gặp
ở châu Á – Việt Nam: 1/3 tổng số trường hợp):
đa số do sạn, ký sinh trùng; sau phẫu thuật hoặc
thủ thuật đường mật. Một số nguyên nhân khác
* Bệnh viện Bình Dân.
Tác giả liên lạc: BSCKII. Đặng Đình Hoan ĐT: 02862908109 Email: dinhhoandang59@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 95
hiếm gặp hơn như u gan, áp – xe gan, bệnh lý
mạch máu.
Đa số các nguyên nhân kể trên khi có biến
chứng chảy máu đường mật đều cho bệnh cảnh
túi giả phình động mạch gan. Trừ trường hợp
nguyên nhân bệnh lý mạch máu (dị dạng mạch
máu) thường có kèm theo bệnh cảnh thông động
tĩnh mạch hoặc túi giả phình động mạch gan có
hồi lưu nhanh về tĩnh mạch do có sự thông nối
trực tiếp túi giả phình với một nhánh tĩnh mạch
trong gan.
Ngoài phương pháp điều trị truyền thống
là phẫu thuật cột động mạch gan, ngày nay
ứng dụng X Quang can thiệp làm nút tắc chọn
lọc nhánh động mạch gan có túi giả phình
ngày càng phát triển. Có nhiều chất liệu nút
tắc mạch, việc chọn lựa chất liệu nào, duy nhất
hay kết hợp chất liệu là còn phụ thuộc vào
tính chất, hình thái của túi giả phình động
mạch cũng như nguyên nhân tạo nên túi giả
phình động mạch(6,7,8).
Chúng tôi đưa ra bốn trường hợp được chẩn
đoán và điều trị can thiệp nút tắc túi giả phình
mạch gan bằng vật liệu keo sinh học (N-Butyl
Cyano Acrylat – NBCA – Histoacryl*) với mục
đích đánh giá hiệu quả, tính an toàn và tỷ lệ
thành công của phương pháp can thiệp.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân Phạm Văn L. 1971, nhập viện vì
nhiễm trùng đường mật do sạn mật trong gan và
sạn ống mật chủ. Tiền sử: mổ lấy sạn mật # 10
năm trước. Sau nhập viện 02 ngày có chảy máu
đường mật. Xử trí: lấy sạn và dẫn lưu mật gan
trái và ống mật chủ. Hai ngày sau mổ: mật / ống
dẫn lưu đỏ dần. Thực hiện CTA: túi giả phình
động mạch gan phải # phân thùy VII. Thực hiện
nút tắc mạch chọn lọc. Sau nút mạch 24 tiếng:
mật / ống dẫn lưu màu xanh của mật.
Bệnh nhân Trần Văn H. 1957, nhập viện với
tổng trạng suy kiệt, vàng da, đi cầu phân đen.
Tiền sử: sạn túi mật và u gan phải. Điều trị nội
khoa (bệnh nhân yêu cầu ở tuyến trước). Siêu âm
doppler màu bụng: Nghĩ có túi giả phình ở phân
thùy VII-VIII gan phải kèm đường mật trong và
ngoài gan giãn, có sạn mật trong gan; túi mật có
sạn và bùn. Nội soi dạ dày tá tràng: có chảy máu
đường mật. Thực hiện CTA vùng bụng. Kết quả
CTA: Túi giả phình động mạch gan tại hạ phân
thùy VII,VIII gan phải / nền u đường mật gan
phải di căn gan. Động mạch gan chung xuất phát
từ động mạch mạc treo tràng trên. Động mạch
lách xuất phát từ động mạch chủ bụng. Sạn mật
trong gan và sạn túi mật với túi mật căng to.
Thực hiện nút tắc mạch chọn lọc túi giả phình
động mạch gan giải quyết tình trạng chảy máu
đường mật. Sau đó có kế hoạch điều trị bệnh gốc
cho bệnh nhân (u đường mật). Một ngày sau nút
tắc: phân sậm màu. Bốn ngày sau nút tắc mạch:
bệnh nhân tỉnh, niêm hồng, đi cầu phân vàng.
Bảy ngày sau nút tắc mạch: Xuất viện. Hẹn tái
khám hai (02) tuần sau để tiếp tục điều trị bệnh
cảnh chính là u đường mật.
Bệnh nhân Nguyễn Thị Ph. 1948 , nhập viện
với vàng da, đi cầu phân đen. Tiền căn có mổ sạn
mật. Siêu âm doppler và CTA: Giả phình động
mạch gan phải trên nền sạn mật trong gan và
ống mật chủ. Thực hiện nút tắc mạch chọn lọc.
Hai ngày sau nút tắc mạch bệnh nhân đi cầu
phân vàng, niêm hồng.
Bệnh nhân Võ Thị L. 1975, nhập viện vì tổng
trạng suy kiệt, đi cầu phân đen. Tiền căn mổ nối
mật ruột do nang ống mật chủ. CTA: Túi giả
phình động mạch gan phải . Thực hiện nút tắc
mạch chọn lọc. Bốn ngày sau thủ thuật bệnh
nhân có da niêm hồng, đi cầu phân vàng.
Kỹ thuật nút tắc mạch chọn lọc túi giả phình
động mạch gan
Với những dữ liệu mà hình ảnh CTA vùng
gan cung cấp , nhóm bác sĩ X Quang can thiệp
đã tiến hành tuần tự như sau: Đi chọn lọc ống
thông với dây dẫn dưới hệ thống khảo sát
DSA (Digital Substraction Angiography) để
vào động mạch gan chung. Chụp khảo sát
toàn bộ động mạch gan chung đồng thời đánh
giá tính chất của túi giả phình động mạch gan:
vị trí , có thông với tĩnh mạch? dòng chảy lòng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 96
túi giả phình, kích thước.
Đi chọn lọc vào nhánh động mạch gan
mang túi giả phình bằng dây dẫn và ống
thông siêu nhỏ.
Đặt đầu thông siêu nhỏ cách vị trí cổ túi
giả phình khoảng 05 mm sau đó bơm Gelfoam
tán nhuyễn pha với thuốc cản quang qua
thông để lấp đầy lòng túi giả phình. Ngay sau
đó tiến hành rút đầu thông ra xa thêm # 05
mm so với vị trí lúc đầu của ống thông và tiến
hành bơm hỗn hợp keo sinh học (NBCA) và
Lipiodol UF (tỷ lệ NBCA/Lipiodol UF – chất
cản quang dầu: (1/3 – 01 ml) với mục đích làm
tắc hoàn toàn nhánh động mạch mang túi giả
phình (khóa vòi). Ngay sau đó rút tiếp đầu
thông ra xa thêm khoảng 05 mm nữa để bơm
bổ sung Gelfoam tán nhuyễn pha với thuốc
cản quang (# 02 ml) (nút mạch) nhằm tránh tái
phát túi giả phình sau nút tắc. Đợi khoảng
năm (05) phút, chụp kiểm tra động mạch gan
chung, động mạch chủ bụng. Không còn thấy
hình ảnh túi giả phình động mạch gan và
động mạch chủ bụng cùng các phân nhánh
chính đều có hình ảnh như trước khi làm thủ
thuật nút tắc mạch gan chọn lọc. Rút toàn bộ
ống thông, băng ép vị trí đi thông (thường là
động mạch đùi phải) và theo dõi –điều trị theo
thường quy của X Quang can thiệp nút tắc
mạch chọn lọc.
Hình 1. CTA mô tả một túi giả phình ở động mạch
gan phải.
Hình 2. CTA mô tả một túi giả phình ở động mạch
gan phải. Động mạch gan chung xuất phát từ động
mạch mạc treo tràng trên.
Hình 3. CTA mô tả một túi phình ở động mạch gan phải. Hình 4. DSAThông Yashiro 5F vào động mạch
mạc treo tràng trên và thông siêu nhỏ 3F vào động
mạch gan chung để xác định túi giả phình.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 97
Hình 5. DSA Xác định vị trí đầu
thông 3F với cổ túi giả phình động
mạch gan.
Hình 6. DSA Túi giả phình bị lấp
đầy bởi Gelfoam và NBCA tắc
nhánh động mạch có tổn thương giả
túi phình.
Hình 7. DSA chụp kiểm tra sau khi nút tắc
túi giả phình động mạch gan khoảng 5 phút.
BÀN LUẬN
Túi giả phình động mạch gan bao gồm
những túi phình của động mạch gan chung, gan
riêng , động mạch gan trái và gan phải. Wilson
đã mô tả lần đầu vào năm 1809, chiếm khoảng
20% tổng số các túi phình và túi giả phình động
mạch tạng.
Dựa trên những nguyên nhân được biết
thường gặp như do nhiễm trùng đường mật
(sạn, ký sinh trùng...), do chấn thương, do sau
thủ thuật, phẫu thuật hoặc do u gan... và bệnh
nhân vào bệnh viện với các triệu chứng xuất
huyết tiêu hóa (chảy máu đường mật), sốt nhiễm
trùng, vàng da, đau hạ sườn phải ... thì cần nghĩ
đến tổn thương túi giả phình động mạch gan(1,6,7).
Việc phát hiện túi giả phình động mạch gan
bằng siêu âm doppler màu(1,7) cũng khá dễ dàng
với độ nhạy # 85% và độ chuyên # 80%. Tuy
nhiên xét nghiệm này là xét nghiệm hoàn toàn
chủ quan và phụ thuộc nhiều vào máy siêu âm
cũng như khả năng của người thực hiện siêu âm.
Với khảo sát CTA (chụp cắt lớp vi tính khảo
sát mạch máu) vùng gan hầu như phát hiện ra
dễ dàng bệnh lý túi giả phình động mạch gan
nếu có. CTA cho biết vị trí, kích thước, tính chất
túi giả phình... ngoài ra còn cung cấp dữ liệu
gan, đường mật và các cơ quan lân cận(1,7). Dựa
vào đậm độ, thời gian bắt thuốc cản quang của
túi giả phình, vào hồi lưu tĩnh mạch mà CTA
cung cấp cho chúng ta đánh giá về dòng chảy
lòng túi phình. Nếu kết hợp hình ảnh CTA và
khảo sát dopper màu lòng túi giả phình thì độ
chính xác đánh giá tính chất túi giả phình động
mạch rất cao với độ nhạy và độ chuyên # 98%.
Chụp mạch máu số hóa xóa nền là tiêu chuẩn
vàng cung cấp chẩn đoán xác định tổn thương
giả phình động mạch về kích thước, hình dạng,
vị trí cũng như các nhánh động mạch liên quan
đến tổn thương nếu có. Nhưng ngày nay chỉ
thực hiện việc này vào thời điểm trước khi tiến
hành bơm thuốc nút tắc mạch. Việc chọn lựa thủ
thuật nút tắc mạch chọn lọc chỉ cần dựa vào hình
ảnh CTA (kết hợp siêu âm doppler màu nếu cần
thiết) và vào việc hội chẩn của bác sĩ điều trị tiêu
hóa gan mật với bác sĩ X Quang can thiệp.
Cần theo dõi sau thủ thuật nút tắc mạch
chọn lọc khoảng ba đến bảy ngày (tùy tính chất
tổn thương) để phát hiện sự tái thông thương có
thể xảy ra và khi đó cần tiến hành lại việc nút tắc
mạch chọn lọc lần nữa.
Chọn lựa chất liệu nút tắc mạch. Các chất
liệu dùng trong nút tắc mạch thường là vòng
xoắn kim loại (coils), khung đỡ kim loại (covered
stent), keo sinh học (NBCA), hạt PVA (Poly
Vinyl Alcohol), spongel hay bọt gây tắc
(Gelfoam) tán nhuyễn hoặc bơm thrombine nội
mạch(2,3,4,5,6,8). Thông thường, theo nhiều tác giả,
với túi giả phình có kích thước nhỏ, nằm xa hoặc
vừa so với gốc nhánh động mạch nhỏ thì dòng
chảy lòng túi giả phình thấp, khi đó chỉ cần dùng
duy nhất Gelfoam tán nhuyễn làm lấp đầy lòng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 98
túi giả phình và làm ’khóa vòi’ sau đó là đủ. Đối
với túi giả phình động mạch có dòng chảy khá
cao hoặc cao, thì đa số tác giả dùng coils lấp đầy
lòng túi giả phình và ’khóa vòi’ sau đó bằng
Gelfoam tán nhuyễn(2,3,6,8). Cũng có tác giả khác,
với túi giả phình động mạch ở xa rốn gan, kích
thước không lớn, đã dùng keo sinh học (NBCA)
lấp đầy lòng túi giả phình(4) và ’khóa vòi’. Trong
các trường hợp mà chúng tôi thực hiện , chúng
tôi nhận thấy , vị trí túi giả phình động mạch gan
hơi xa hoặc xa rốn gan, kích thước khá lớn, dòng
chảy không cao hoặc cao vừa; trên nền u đường
mật gan phải, nhiễm trùng mật do sạn đường
mật, sau thủ thuật; việc điều trị cho đến ổn định
bệnh lý gốc là rất cao về chi phí. Do đó, chúng tôi
quyết định dùng Gelfoam tán nhuyễn để lấp đầy
lòng túi giả phình, keo sinh học để ’khóa vòi’ và
gelfoam để ’nút mạch’.
Tất cả những bệnh nhân được điều trị can
thiệp thành công, tình trạng lâm sàng cải thiện tốt,
không thấy biến chứng trong và sau can thiệp, chi
phí cho thủ thuật thấp, việc hồi phục nhanh.
Dùng phương pháp phẫu thuật cho các
trường hợp túi giả phình động mạch gan ngày
nay ít được nghĩ đến và đã được thay thế bằng
phương pháp nút tắc mạch chọn lọc(6). Phương
pháp nút tắc mạch chọn lọc đã làm giảm thời
gian nằm viện và vẫn có hiệu quả cao.
Chúng tôi xin được đưa ra một số hạn chế
của nghiên cứu: Việc nghiên cứu hồi cứu và với
cỡ mẫu nhỏ nên để đánh giá tính hiệu quả cũng
như biến chứng trong can thiệp thường không
chính xác; ngoài ra, với kinh nghiệm thực hành
trong điều trị giả phình mạch tạng chưa được
nhiều nên hiệu quả can thiệp sẽ bị ảnh hưởng,
việc đi sâu vào từng kỹ thuật và đi sâu vào hiệu
quả điều trị của từng dụng cụ và vật liệu can
thiệp chưa được đánh giá đúng. Tuy nhiên,
chúng tôi nhận thấy đây là nghiên cứu ban đầu
trong điều trị can thiệp nút tắc túi giả phình
động mạch gan với hy vọng đưa ra được những
chỉ định và lựa chọn cách thức can thiệp một
cách hợp lý, an toàn và hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Túi giả phình động mạch gan hiếm gặp. Cần
nghĩ đến bệnh lý này nếu bệnh nhân có tiền sử
hoặc triệu chứng của nhiễm trùng đường mật
kèm với chảy máu đường mật hoặc sau một
chấn thương bụng, sau thủ thuật hoặc phẫu
thuật vùng gan mật.
Chẩn đoán xác định túi giả phình động mạch
gan bằng phương tiện siêu âm doppler màu và
CTA vùng gan mật.
Nút tắc mạch chọn lọc giả phình động mạch
gan là phương pháp điều trị có tính chất xâm lấn
tối thiểu, an toàn, hiệu quả với tỷ lệ thành công
cao và kết quả lâm sàng tốt.
Áp dụng thủ thuật nút tắc mạch chọn lọc chỉ
sau khi có hội chẩn giữa bác sĩ chuyên khoa tiêu
hóa gan mật và bác sĩ X Quang can thiệp.
Chọn lựa chất liệu nút tắc mạch tùy thuộc
vào các tính chất của tổn thương và sự cân nhắc
cũng như kinh nghiệm của bác sĩ làm thủ thuật.
Nút tắc mạch chọn lọc có thể làm thêm lần
nữa nếu có sự tái thông của tổn thương.
Nút tắc mạch chọn lọc túi giả phình động
mạch gan là điều trị chứng chảy máu đường
mật. Cần kết hợp điều trị nguyên nhân gây ra túi
giả phình sau đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Basile KE et al. (1999). Hepatic arterial pseudoaneurysm: a
rare complication of blunt abdominal trauma in children.
Pediatr Radiol; 29: 306-308.
2. Hotta A. (2015). Embolization of Ruptured Common Hepatic
Artery Aneurysm in a Patient with Behcet’s Disease. Case
Reports in Radiology, Vol 2015; Article ID 790175.
3. Kharoti Y, Farsad K. (2014). Percutaneous Embolization of a
Hepatic Artery Pseudoaneurysm under Combined
Angiographic and Fluoroscopic Guidance. Open Journal of
Radiology; 4: 215-219.
4. Lloret et al. (2010). Post-traumatic hepatic artery
pseudoaneurysm treated with endovascular embolization and
thrombin injection. World J Hepatol; 2(2): 87–90.
5. Ou et al. (2010). Hepatic arterial embolization for massive
bleeding from an intrahepatic artery pseudoaneurysm using
N-butyl-2-cyano-acrylate after living donor liver
transplantation. Transplant International European Society for
Organ Transplantation; 24: e19–e22.
6. Queiroz et al. (2012). Arterial embolization in the treatment of
post-traumatic hemobilia. Radiol Bras; 45(1): 63–64.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 99
7. Saad NE et al. (2005). Pseudoaneurysms and the Role of
Minimally Invasive Techniques in Their Management.
RadioGraphics 25: S173–S189.
8. Sapoval M, Breittmayer F. (1992). Embolisation d’hemostase.
In: Soyer Ph. Radiologie Interventionnelle, pp 137 – 152. Manson,
Paris.
Ngày nhận bài báo: 02/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2017
Ngày bài báo được đăng:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- can_thiep_noi_mach_trong_dieu_tri_gia_phinh_dong_mach_gan_ga.pdf