Tài liệu Can thiệp nội mạch thuyên tắc tĩnh mạch thừng tinh giãn bằng chất keo N-Butyl Cyanoacrylate (NCBA): Ca lâm sàng minh họa: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 317
CAN THIỆP NỘI MẠCH THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH
THỪNG TINH GIÃN BẰNG CHẤT KEO N-BUTYL
CYANOACRYLATE (NCBA): CA LÂM SÀNG MINH HỌA
Đỗ Anh Tòan**, Nguyễn Tuấn Vinh*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Vũ Lê Chuyên*, Đặng Đình Hoan*,
Nguyễn Ngọc Thái**, Phan Thành Thống*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Giãn tĩnh mạch thừng tinh là những tĩnh mạch giãn bất thường trong đám rối tĩnh mạch hình
dây leo. Nguyên nhân do sự trào ngược máu ở tĩnh mạch tinh trong. Giãn tĩnh mạch thừng tinh chiếm khoảng 10
– 15% dân số nam giới trưởng thành. Bệnh sinh của giãn tĩnh mạch thừng tinh có thể do nhiều nguyên nhân.
Chẩn đoán xác định dựa vào khám lâm sàng và siêu âm Doppler. Điều trị có thể can thiệp nội mạch hoặc phẫu
thuật mở. Mục đích của nghiên cứu là để mô tả và đánh giá một phương pháp can thiệp nút mạch mới sử dụng
keo n-butyl cyanoacrylate (NCBA)
Phương pháp: Trình bày trường hợp l...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Can thiệp nội mạch thuyên tắc tĩnh mạch thừng tinh giãn bằng chất keo N-Butyl Cyanoacrylate (NCBA): Ca lâm sàng minh họa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 317
CAN THIỆP NỘI MẠCH THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH
THỪNG TINH GIÃN BẰNG CHẤT KEO N-BUTYL
CYANOACRYLATE (NCBA): CA LÂM SÀNG MINH HỌA
Đỗ Anh Tòan**, Nguyễn Tuấn Vinh*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Vũ Lê Chuyên*, Đặng Đình Hoan*,
Nguyễn Ngọc Thái**, Phan Thành Thống*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Giãn tĩnh mạch thừng tinh là những tĩnh mạch giãn bất thường trong đám rối tĩnh mạch hình
dây leo. Nguyên nhân do sự trào ngược máu ở tĩnh mạch tinh trong. Giãn tĩnh mạch thừng tinh chiếm khoảng 10
– 15% dân số nam giới trưởng thành. Bệnh sinh của giãn tĩnh mạch thừng tinh có thể do nhiều nguyên nhân.
Chẩn đoán xác định dựa vào khám lâm sàng và siêu âm Doppler. Điều trị có thể can thiệp nội mạch hoặc phẫu
thuật mở. Mục đích của nghiên cứu là để mô tả và đánh giá một phương pháp can thiệp nút mạch mới sử dụng
keo n-butyl cyanoacrylate (NCBA)
Phương pháp: Trình bày trường hợp lâm sàng điển hình, một bệnh nhân được điều trị giãn tĩnh mạch
thừng tinh bằng phương pháp can thiệp nội mạch sử dụng NCBA. Một microcatheter 2,8 Fr và hỗn hợp NCBA
và lipiodol tỷ lệ 1:1 được sử dụng để tạo nút mạch trong tĩnh mạch thừng tinh.
Kết quả: Một trường hợp điều trị thành công và không có biến chứng.
Kết luận: Điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh bằng phương pháp can thiệp nội mạch sử dụng keo NCBA là
rất hiệu quả
Từ khóa: Giãn tĩnh mạch thừng tinh, can thiệp nội mạch, thuyên tắc mạch, nút mạch, keo sinh học, n-butyl
cyanoacrylate (NBCA).
ABSTRACT
ENDOVASCULAR EMBOLIZATION OF VARICOCELES USING N-BUTYL CYANOACRYLATE
(NBCA) GLUE: AN ILLUSTRATIVE CASE REPORT
Do Anh Toan, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Phuc Cam Hoang, Vu Le Chuyen, Dang Dinh Hoan,
Nguyen Ngoc Thai, Phan Thanh Thong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 317 - 323
Background: Varicoceles are abnormally dilated veins within the pampiniform plexus. They are caused by
reflux of blood in the internal spermatic vein. The incidence of varicoceles is approximately 10 – 15% of the
adolescent male population. The etiology of varicoceles is probably multifactorial. The diagnosis is based on clinical
exam and Doppler US. Treatment could be endovascular or surgical. The aim of the study was to describe and
evaluate a novel method of endovascular embolization of varicoceles using n-butyl cyanoacrylate (NBCA) glue.
Material and Methods: A patients were subjected to endovascular treatment of varicoceles using NBCA. A
2.8 Fr microcatheter and a 1:1 mixture of NBCA and lipiodol were used for embolization of the internal spermatic
vein. The procedures were successful without any complications.
* Bệnh viện Bình Dân, Tp.HCM ** Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Đỗ Anh Toàn ĐT: 0983707036 Email: doanhtoan2004@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 318
Result: A case of symptomatic varicocel successfully treated with embolization using NBCA.
Conclusion: Embolization of varicoceles using NBCA glue is efficient and safe for all patients. The method
should be considered as a method of choice in all patients. Phlebography and Valsalva maneuver are crucial for
technical success and avoidance of complications. Endovascular treatment of varicoceles using NBCA glue is very
effective and safe.
Key words: Varicoceles, embolization, n-butyl cyanoacrylate (NBCA).
GIỚI THIỆU
Giãn tĩnh mạch thừng tinh là những tĩnh
mạch giãn bất thường bao gồm đám rối tĩnh
mạch dây leo (pampiniform plexus) và những
thân chính của tĩnh mạch tinh. Sự giãn rộng tĩnh
mạch tinh do tình trạng dòng máu ngược về
phía tinh hoàn. Tần suất giãn tĩnh mạch thừng
tinh từ 10 – 15%, thường gặp ở nam giới trẻ (15 –
35 tuổi)(1). Giãn tĩnh mạch thừng tinh hầu như
không ghi nhận ở trẻ dưới 10 tuổi; tuy nhiên tỉ lệ
này có thể lên cao đến 45% ở nam giới bị hiếm
muộn(2). Đại đa số giãn tĩnh mạch tinh xảy ra bên
trái (90%); 10% bệnh nhân bị cả 2 bên, và chỉ 1 –
2% bị một bên phải(3, 4).
Bệnh sinh của giãn tĩnh mạch thừng tinh
thường do nhiều yếu tố. Nhiều tác giả nhấn
mạnh vai trò của khiếm khuyết bẩm sinh ở tĩnh
mạch tinh, suy van tĩnh mạch tinh bẩm sinh,
hoặc tĩnh mạch thận trái bị chèn ép giữa động
mạch chủ và động mạch mạc treo tràng trên
(“Hội chứng nutcracker”)(5,6).
Giãn tĩnh mạch thừng tinh có thể gây ra các
triệu chứng lâm sàng như đau tức- khó chịu
vùng bìu, cảm giác bìu to dày lên, cũng như bất
thường về tinh trùng đồ (số lượng và khả năng
di động của tinh trùng sụt giảm, các thể bất
thường tăng cao). Mối tương quan giữa giãn tĩnh
mạch thừng tinh và sự suy giảm chất lượng tinh
trùng được cho là do tình trạng nhiệt độ trong
tinh hoàn tăng cao, tăng nồng độ những
hormone vận mạch và tình trạng mất cân bằng
oxy hóa tăng cao(7).
Chẩn đoán giãn tĩnh mạch thừng tinh chủ
yếu dựa vào thăm khám lâm sàng và siêu âm
Doppler. Tầm quan trọng của siêu âm màu mạch
máu ở tư thế đứng và nghiệm pháp Valsava nên
được nhấn mạnh. Triệu chứng điển hình đó là
thời gian hồi lưu máu trong tĩnh mạch tinh, kéo
dài tối thiểu 2 giây. Ba mức phân loại giãn tĩnh
mạch thừng tinh dựa trên lâm sàng và siêu âm
thành được chấp nhận rộng rãi(8). X-quang tĩnh
mạch (phlebography) hiện nay vẫn được xem là
tiêu chuẩn vàng vì khả năng cung cấp hình ảnh
toàn bộ hệ tĩnh mạch từ bìu tốt nhất; tuy nhiên,
vì đây là phương pháp xâm lấn nên chỉ được áp
dụng ngay khi can thiệp nội mạch điều trị hoặc
để chẩn đoán những trường hợp bệnh tái phát.
Giãn tĩnh mạch thừng tinh có triệu chứng
được điều trị bằng cách ngăn chặn dòng máu
trào ngược trong tĩnh mạch tinh và những
nhánh của nó trên đám rối tĩnh mạch hình dây
leo. Phương pháp điều trị chủ yếu hiện nay bao
gồm phẫu thuật (mổ mở và phẫu thuật nội soi)
và can thiệp nội mạch (thuyên tắc mạch).
Phương pháp nội mạch cho phép chẩn đoán
toàn diện giường tĩnh mạch, rút ngắn thời gian
hồi phục, chi phí điều trị thấp hơn và hiệu quả
kỹ thuật gần 100%(9,10). Chất liệu dùng để thuyên
tắc nội mạch thông dụng nhất hiện nay là vòng
xoắn kim loại (coils) và chất lỏng gây xơ hóa.
Can thiệp nội mạch đặt vòng xoắn kim loại trong
tĩnh mạch tinh nghĩa là lượng lớn vật lạ được
đưa vào cơ thể bệnh nhân đến suốt đời cũng
như chi phí điều trị cao. Việc bơm chất xơ hóa
dưới dạng bọt (bằng cách trộn với khí) và ép tĩnh
mạch bằng tay trong 10 phút không bảo đảm
kiểm soát toàn diện chất dịch này, có thể kéo dài
thời gian can thiệp và hiệu quả thấp(11). Đầu thập
niên 1980s, việc sử dụng chất keo iso-butyl
cyanoacrylate (IBCA) trong thuyên tắc tĩnh mạch
lần đầu tiên được báo cáo(12). Do có đặc tính gây
ung thư, IBCA được thay thế bởi chất n-butyl
cyanoacrylate (NBCA) an toàn hơn(13). Việc sử
dụng NBCA để thuyên tắc tĩnh mạch tinh được
ghi nhận là phương pháp nhanh, hiệu quả và tiết
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 319
kiệm chi phí(14).
Mục đích của nghiên cứu này là mô tả
phương pháp điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh
bằng can thiệp nội mạch với chất keo NBCA
đồng thời đánh giá mức độ hiệu quả và an toàn
của phương pháp này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trình bày trường hợp lâm sàng minh họa.
Bệnh nhân: nam, 32 tuổi. Số hồ sơ:
2017/07848. Nhập viện: 8/04/17.
Diễn biến bệnh gần một năm trước, bệnh
nhân thấy bìu trái phình to dần, vài tháng nay
bệnh nhân thấy đau tức bìu, triệu chứng khó
chịu tăng lên khi đi lại hay làm việc nặng làm
ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hằng ngày của
bệnh nhân. Bệnh nhân mong muốn có thêm con,
nhưng hơn 6 tháng nay chưa có kết quả dù rằng
bệnh nhân đã được khám và điều trị thuốc. Vài
tháng nay, bệnh nhân có đi khám và phát hiện
tình trạng dãn tĩnh mạch tinh nặng, ảnh hưởng
đến số lượng và chất lượng tinh trùng. Trên hình
ảnh siêu âm Doppler bìu ghi nhận kích thước
tinh hoàn trái bằng 3/4 so với bên phải. Bệnh
nhân được tư vấn phẫu thuật cột tĩnh mạch tinh
giãn vi phẫu. Tuy nhiên, bệnh nhân tự tìm hiểu
về các phương pháp điều trị và được biết hiện
nay đơn vị can thiệp mạch tiết niệu sinh dục
bệnh viện Bình Dân có áp dụng kỹ thuật can
thiệp nội mạch điều trị giãn tĩnh mạch tinh. Bệnh
nhân được thăm khám và hội chẩn với kết quả:
Giãn tĩnh mạch tinh trái độ III (theo thang điểm
hiệu chỉnh của Dublin và Amelar)(15), gây đau
bìu, giảm kích thước tinh hoàn và ảnh hưởng
đến số lượng và chất lượng tinh trùng.
Yêu cầu cần thiết trước khi điều trị là xét
nghiệm nhóm máu và chức năng đông máu
(INR) được thực hiện trước phẫu thuật, siêu âm
Doppler bìu xác định hình thái học tổn thương,
xác định thời gian hồi lưu tĩnh mạch tinh khi làm
Nghiệm pháp Valsava ở tư thế đứng (hồi lưu ≥ 2
giây). Thăm khám tương tự được thực hiện 03
tháng sau thủ thuật để xác định hiệu quả kỹ
thuật: khám lâm sàng, xét nghiệm tinh trùng đồ,
siêu âm Doppler bìu.
Qui trình thuyên tắc tĩnh mạch được thực hiện
như sau:
1. Tư thế Trendelenburg, gây tê tại chỗ bằng
4mL lidocaine vào vùng bẹn nơi dự kiến chọc
kim vùng tĩnh mạch đùi phải. Lưu ý che chắn 2
tinh hoàn bệnh nhân bằng tấm chì nhằm hạn chế
phơi nhiễm tia X.
2. Yêu cầu bệnh nhân thực hiện nghiệm
pháp Valsava, đồng thời chọc dò tĩnh mạch đùi
bằng bộ kim luồn 5 Fr (5Fr access sheath), tiếp
theo bơm 3000 đơn vị Heparine vào hệ tuần
hoàn qua ngã này.
Tiếp theo, dùng ống thông Cobra (5 Fr)
được đưa vào tĩnh mạch chủ dưới theo dây
dẫn (loại phủ hydrophilic kích thước 0,035’’)
đến tĩnh mạch thận trái (ở mức L1/L2). Tùy
vào cấu trúc giải phẫu, ống thông Cobra được
đưa vào tĩnh mạch thận hoặc đưa sâu vào tĩnh
mạch tinh trái. Để lại đầu catheter trong tĩnh
mạch thận trái cho phép tránh xơ hóa tĩnh
mạch tinh, nhưng giảm mức độ ổn định của
hệ thống.
Sau đó, luồn microcatheter phủ hydrophyllic
2,7 Fr (Progreat, Terumo), theo kỹ thuật đồng
trục vào xuống tĩnh mạch tinh qua dây dẫn
0,018’’ (hydrophyllic). Khi đưa microcatheter
đến đoạn gần của tĩnh mạch tinh, tiến hành khảo
sát hệ tĩnh mạch tinh (phlebography) khảo sát
mức độ trào ngược (xác định tình trạng suy van
tĩnh mạch) và để phát hiện các bất kỳ bất thường
giải phẫu. Theo đó, phân loại theo phân độ của
Bahren(16).
Lưu ý:
- Hiện tượng co thắt tĩnh mạch tinh có thể xảy
ra khi luồn thông Cobra vào, lúc này có thể hiện
tượng co thắt sẽ tự hết sau 5-10 phút. Nếu không
cải thiện, có thể tiến hành tiêm tĩnh mạch 50-100
μg nitroglycerin.
- Hướng dẫn bệnh nhân tư thế đúng trong
nghiệm pháp Valsava là rất quan trọng. Nghiệm
pháp này cho phép giảm đáng kể hoặc ngăn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 320
hoàn toàn dòng máu chảy trong tĩnh mạch tinh,
bảo đảm an toàn khi thực hiện kỹ thuật này.
Hơn nữa, chụp X-quang tĩnh mạch cho phép ước
lượng đến thể tích chất keo cần sử dụng.
3. Sau đó, hỗn hợp chất keo NBCA và
lipiodol được chuẩn bị ở một bàn vô trùng riêng
sau khi thay mới đôi găng tay tiệt trùng. Dùng
ống tiêm đựng 1ml chất keo (2 ống) và 1 ml
lipiodol và được trộn kỹ trong ống. Sau đó, dung
dịch keo màu xanh này được đưa vào một ống
2,5 ml hoặc 3 ml có nắp vặn.
4. Chụp X-quang tĩnh mạch được thực hiện
lại đồng thời bệnh nhân làm nghiệm pháp
Valsava để xác định lại vị trí của catheter và khả
năng của bệnh nhân duy trì nín thở.
5. Microcatheter được rửa 2 lần với dung
dịch glucose 5% (không ion hóa) để tránh chất
keo bị trùng hợp trong lòng ống catheter.
6. Tiếp theo, bơm chất keo vào tĩnh mạch
tinh từ ống bẹn đến phần trên của thân đốt sống
L3. Chất keo được bơm vào sau khi bắt đầu
nghiệm pháp Valsava. Khi rút catheter ra đến
gần nơi giao nhsau với các nhánh bên, rút
catheter chậm lại và chất keo được đưa vào
nhanh hơn để thuyên tắc những nhánh bên này.
Chất keo NCBA khi ra khỏi microcatheter sẽ bị
trùng hợp khi gặp máu (chất ion hóa). Phản ứng
này làm tăng nhiệt độ dẫn đến bít tắc lòng tĩnh
mạch và bệnh nhân cảm nhận cơn đau mức độ
vừa phải, mơ hồ vùng hông lưng. Khi rút đầu xa
của microcatheter bờ trên thân đốt sống L3, lúc
này cần duy trì áp lực âm để tránh chất keo rơi
vãi xung quanh và nhanh chóng rút ra vkhỏi
catheter 4 Fr để tránh dính đầu microcatheter
vào thành mạch.
7. Sau đó, phẫu thuật viên sẽ cố gắng rút
máu từ catheter Cobra. Trong trường hợp nghi
ngờ catheter nghẹt do sự hiện diện của keo trong
lòng ống, khi đó thong Cobra được rút ra ngay
khỏi cơ thể bệnh nhân. Việc chụp X quang tĩnh
mạch sẽ không được thực hiện và mức độ
thuyên tắc tĩnh mạch được quan sát thông qua
hình ảnh cột keo NBCA cản quang.
8. Sau can thiệp, rút bỏ access sheath khỏi
tĩnh mạch đùi và băng ép trong 10 – 15 phút. Sau
đó, chụp 01 phim X quang để đánh giá lại vị trí
cột keo trước khi băng ép vùng chọc kim và bất
động vùng bẹn trong 04 giờ sau đó.
9. Sau 6 giờ, bệnh nhân được vận động và
ăn uống bình thường và xuất viện ngày hôm
sau. Dặn dò bệnh nhân tránh gắng sức làm gia
tăng áp lực ổ bụng và dung thực phẳm dễ tiêu
trong 07 ngày.
10. Tái khám sau 03 tháng đánh giá lại lâm
sàng, tinh dịch đồ và siêu âm Doppler bìu.
Hình 1. Phân loại Bähren (tĩnh mạch tinh trong trái
(ISV))
Típ 0: Tĩnh mạch thừng tinh trong không bị suy
Típ 1: Suy đơn độc tĩnh mạch thừng tinh trong kèm suy
van đường ra;
Típ 2: Suy tĩnh mạch thừng tinh trong kèm nhiều dòng
chảy thoát ra hoặc có kết nối phía trong của tĩnh mạch
thừng tinh trong và tĩnh mạch thận;
- 2a: suy van đường ra
- 2b: van đường ra còn tốt;
Típ 3: Tồn tại 1 bản sao của tĩnh mạch thừng tinh trong
nằm ở phía trong của tĩnh mạch thừng tinh ban đầu,
kèm suy van đường ra;
Típ 4: Tĩnh mạch thừng tinh trong nối với tĩnh mạch
thận, tĩnh mạch bao thận, hoặc tĩnh mạch sau phúc mạc;
- 4a, suy van đường ra;
- 4b, van đường ra còn tốt;
Típ 5: tĩnh mạch thận đôi.
KẾT QUẢ
Thời gian can thiệp 90 phút.
Thuyên tắc thành công tĩnh mạch tinh giãn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 321
Chất liệu thuyên tắc: 1,5mL NBCA pha
Lipiodol tỷ lệ 1:1
Thời gian chiếu tia (fluoroscopy time) 15 phút.
Không ghi nhận tai biến – biến chứng sau
can thiệp: Đau ít vùng hông lưng, tự giới hạn với
thuốc giảm đau Paracetamol uống, không tụ
máu vùng đùi, không sốt.
Hình 2. Giãn tĩnh mạch tinh trái độ III (trước và sau
can thiệp)
Hình 3. Tinh dịch đồ trước can thiệp: thiểu, ngược tinh
Hình 4. Ekip can thiệp
Hình 5. Microcatheter trong tĩnh mạch tinh
Hình 6. Cột keo NBCA trong tĩnh mạch tinh sau
thuyên tắc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 322
Xuất viện ngày hôm sau. Chúng tôi duy trì
liên lạc với bệnh nhân qua điện thoại, không
ghi nhận triệu chứng liên quan, bệnh nhân rất
hài lòng.
Tái khám sau 6 tuần: Tình trạng đau bìu
giảm đáng kể (bệnh nhân khai giảm > 90%), siêu
âm Doppler bìu ghi nhận tĩnh mạch tinh giãn
nhẹ, Valsava (-), chưa làm được tinh dịch đồ
(hẹn kiểm tra sau 3 tháng).
BÀN LUẬN
Phương pháp thuyên tắc nội mạch trong
giãn tĩnh mạch thừng tinh sử dụng chất keo
NBCA là phương pháp điều trị an toàn và hiệu
quả. Tuy nhiên, điều kiện và yêu cầu tiên quyết
để đạt hiệu quả cao là những hình ảnh X quang
tĩnh mạch chẩn đoán phải thật chính xác. Chúng
ta phải chú ý và cố gắng thuyên tắc những
nhánh của tĩnh mạch tinh, triệt tiêu tuần hoàn
bàng hệ. Một số báo cáo cho thấy phương pháp
này an toàn và hiệu quả cao nếu phẫu thuật viên
được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm trong lĩnh
vực can thiệp nội mạch(17,18).
Phương pháp này được hình thành qua
nhiều năm kinh nghiệm và trên thế giới đã được
đưa vào thực hành từ năm 2007. Do đặc điểm về
giải phẫu của tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch
thận và góc giao nhau với tĩnh mạch tinh, thông
mạch máu Cobra có thể trượt ra khỏi tĩnh mạch
tinh, nhưng không thể đặt catheter vào sâu hơn
do dây dẫn không thể đi sâu thêm. Những lý do
trên làm kéo dài thời gian thủ thuật và, có tác giả
báo cáo 02 trường hợp bị tổn thương bóc tách
thành mạch gây thoát thuốc cản quang ra ngoài.
Do vậy, không khuyến cáo chụp X quang tĩnh
mạch kiểm tra sau can thiệp(19).
Chất keo n-butyl cyanoacrylate đã được sử
dụng trong nhiều năm trong lĩnh vực thần kinh
can thiệp (neuroradiological intervention). Với
những nhược điểm gồm việc kiểm soát chất keo
khó khăn, hiện tượng trùng hợp xảy ra tức thì và
không đảo ngược và đường cong học tập dài.
Tuy nhiên, thuyên tắc mạch trong giãn tĩnh
mạch thừng tinh khác hẳn so với thuyên tắc
mạch máu não dị dạng. Khác biệt lớn nhất là ở
tính chất dòng chảy. Trong dị dạng mạch máu
não, đặc trưng bởi hiện diện những tổn thương
rò động tĩnh mạch, tốc độ dòng chảy lớn làm
việc kiểm soát chất keo khó khăn. Trong khi đó,
ở vị trí Trendelenburg và bệnh nhân trong trạng
thái thực hiện nghiệm pháp Valsava, dòng máu
trong tĩnh mạch tinh dường như là dừng chảy,
giúp cho dễ kiểm soát phản ứng trùng hợp của
hỗn hợp NBCA đậm đặc (pha với Lipiodol tỷ lệ
1:1). Không có bất kỳ biến chứng liên quan đến
kỹ thuật được ghi nhận trong và sau can thiệp
cho bệnh nhân này.
Về khía cạnh chi phí, sử dụng NBCA để
thuyên tắc tĩnh mạch tinh có giá thành rất hợp
lý, hiện nay chi phí khoảng 250.000 đ/lọ NBCA
và 2.700.000 đ/01 lọ Lipiodol 10%. Thời gian nằm
viện ngắn, có thể trở lại làm việc sớm giúp hạn
chế tối đa chi phí liên quan đến điều trị.
Những báo cáo trước đây cho rằng NCBA
có thể sử dụng chủ yếu trong điều trị các
trường hợp giãn tĩnh mạch tinh tái phát(12). Tuy
nhiên, với nhiều bác sĩ được đào tạo sử dụng
ống thông mạch máu và chất keo NBCA, thì
ngày nay có nhiều người ủng hộ phương pháp
can thiệp này như là lựa chọn ưu tiên cho tất
cả bệnh nhân có giãn tĩnh mạch thừng tinh
cần can thiệp ngoại khoa.
KẾT LUẬN
Thuyên tắc nội mạch sử dụng keo NCBA
trong điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh là khả
thi, có thể áp dụng thường quy hơn trong lựa
chọn điều trị cho bệnh nhân vì dường như
phương pháp này khá an toàn, hiệu quả và chi
phí hợp lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baazeem A, Belzile E, Ciampi A et al (2011). Varicocele and
male factor infertility treatment: a new meta-analysis and
review of the role of varicocele repair. Eur Urol;60(4):796–808.
2. Jarow JP, Coburn M, Sigman M (1996). Incidence of
varicoceles in men with primary and secondary infertility.
Urolog; 47(1):73–76.
3. Belloli G, D’Agostino S, Pesce C et al (1993). Varicocele in
childhood and adolescence and other testicular anomalies: an
epidemiological study. Pediatr Med Chir;15(2):159–62.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 323
4. Oster J (1971). Varicocele in children and adolescents. An
investigation of the incidence am ong Danish school children.
Scand J Urol Nephrol;5(1): 27–32
5. Braedel HU, Steffens J, Ziegler M et al (1994). A possible
ontogenic etiology for idiopathic left varicocele. J Urol; 151(1):
62–66
6. Mali WP, Oei HY, Arndt JW et al (1986). Hemodynamics of
the varicocele. Part II. Correlation among the results of
renocaval pressure measurements, varicocele scintigraphy
and phlebography. J Urol; 135(3): 489–93.
7. Agarwal A, Sharma RK, Desai NR et al (2009). Role of
oxidative stress in pathogenesis of varicocele and infertility.
Urology;73(3): 461–69.
8. Sakamoto H, Saito K, Shichizyo T et al (2006). Color Doppler
ultrasonography as a routine clinical examination in male
infertility. Int J Urol; 13: 1073–8.
9. Dewire DM, Thomas AJJ, Falk RM et al (1994). Clinical
outcome and cost comparison of percutaneous embolization
and surgical ligation of varicocele. J Androl; 15: 38S–42S.
10. Reyes BL, Trerotola SO, Venbrux AC et al (1994).
Percutaneous embolotherapy of adolescent varicocele: results
and long-term follow-up. J Vasc Interv Radiol; 5(1): 131–34.
11. Klamut M, Szczerbo-Trojanowska M (1993). Embolizacja żyły
jądrowej w żylakach powrózka nasiennego. Radiologia t. III.
PZWL;: 424–25.
12. Kunnen M (1980). New techniques for embolisation of the
internal spermatic vein: intravenous tissue adhesive. Rofo;
133(6): 625–29.
13. Brothers MF, Kaufmann JC, Fox AJ et al (1989). N-Butyl 2-
cyanoacrylate–substitute for IBCA in interventional
neuroradiology: histopathologic and polymerization time
studies. AJNR Am J Neuroradiol; 10(4): 777–86.
14. Sze DY, Kao JS, Frisoli JK et al (2008). Persistent and recurrent
postsurgical varicoceles: venographic anatomy and treatment
with N-butyl cyanoacrylate embolization. J Vasc Interv Radiol;
9(4): 539–45.
15. Dubin L, Amelar RD (1970). Varicocele size and results of
varicocelectomy in selected subfertile men with varicocele.
Fertil Steril; 21(8): 606–9.
16. Bahren W, Lenz M, Porst H et al (1983). Side effects,
complications and contraindications for percutaneous
sclerotherapy of the internal spermatic vein in the treatment
of idiopathic varicocele. Rofo; 138(2): 172–79.
17. Heye S, Maleux G, Wilms G (2006). Pain experience during
internal spermatic vein embolization for varicocele:
comparison of two cyanoacrylate glues. Eur Radiol; 16(1): 132–
36.
18. Vanlangenhove P, De Keukeleire K, Everaert K et al (2012).
Efficacy and Safety of Two Different n-Butyl-2-Cyanoacrylates
for the Embolization of Varicoceles: A Prospective,
Randomized, Blinded Study. Cardiovasc Intervent Radiol; 35:
598–606
19. Radosław Pietura et al (2013). Endovascular embolization of
varicoceles using n-butyl cyanoacrylate (NBCA) glue. Pol J
Radiol; 78(2): 26-30.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- can_thiep_noi_mach_thuyen_tac_tinh_mach_thung_tinh_gian_bang.pdf