Tài liệu Cầm máu chủ động trong phẫu thuật sỏi san hô phức tạp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 1* 2002 
 1 
CẦM MÁU CHỦ ĐỘNG TRONG PHẪU THUẬT SỎI SAN HÔ PHỨC TẠP 
Phạm Văn Bùi* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của đường mổ cắt mở chủ mô thận qua diện vô mạch phối hợp với cắt mở 
đài-bể thận và may cầm máu từng điểm để kiểm soát chảy máu trong mổ hở điều trị sỏi san hô phức tạp. 
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu gồm tất cả các bệnh nhân bị sỏi san hô 
phức tạp được mổ theo kỹ thuật này nhằm đánh giá lượng máu mất, tỷ lệ sót sỏi và ảnh hưởng của đường 
mổ trên chức năng thận. Kết quả: 80 bệnh nhân với 46 nam và 34 nữ, có tuổi trung bình là 50,66 (trẻ nhất 
là 23 tuổi và già nhất là 80 tuổi) đã được mổ theo kỹ thuật này. Lượng máu mất trung bình là 171,88ml. Tỷ 
lệ hết sỏi là 92,5%. Urê máu trước và sau mổ lần lượt là 38mg/dl và 34mg/dl (test t...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 649 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cầm máu chủ động trong phẫu thuật sỏi san hô phức tạp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 1* 2002 
 1 
CẦM MÁU CHỦ ĐỘNG TRONG PHẪU THUẬT SỎI SAN HÔ PHỨC TẠP 
Phạm Văn Bùi* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của đường mổ cắt mở chủ mô thận qua diện vô mạch phối hợp với cắt mở 
đài-bể thận và may cầm máu từng điểm để kiểm soát chảy máu trong mổ hở điều trị sỏi san hô phức tạp. 
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu gồm tất cả các bệnh nhân bị sỏi san hô 
phức tạp được mổ theo kỹ thuật này nhằm đánh giá lượng máu mất, tỷ lệ sót sỏi và ảnh hưởng của đường 
mổ trên chức năng thận. Kết quả: 80 bệnh nhân với 46 nam và 34 nữ, có tuổi trung bình là 50,66 (trẻ nhất 
là 23 tuổi và già nhất là 80 tuổi) đã được mổ theo kỹ thuật này. Lượng máu mất trung bình là 171,88ml. Tỷ 
lệ hết sỏi là 92,5%. Urê máu trước và sau mổ lần lượt là 38mg/dl và 34mg/dl (test t, p<0,05). Crêatinin 
máu trước và sau mổ lần lượt là 10,94mg/l và 10,53mg/l. Không có tử vong, không có chảy máu thứ phát, 
không dò rỉ nước tiểu hay nhiễm trùng nặng hậu phẫu. Không có trường hợp nào phải cắt thận lúc mổ vì 
chảy máu không cầm được. Kết luận: Kỹ thuật ngoại khoa này đã giúp giảm thiểu lượng máu mất, tăng tỷ 
lệ hết sỏi và bảo tồn được chức năng thận. 
SUMMARY 
RENAL AVASCULAR PLANE INCISION ASSOCIATED WITH CALICOPYELOTOMY AND SPOT 
SUTURE FOR BLEEDING CONTROL IN OPEN SURGERY OF COMPLEX STAGHORN STONE 
Pham Van Bui* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 6 - No 1 - 2002: 36 - 40 
Objective: To minimize blood loss in open surgery for complex stag horn stone by using renal 
avascular plane incision associated with calicopyelotomy and spot suture. Patients and methods: A 
prospective study including all patients with complex stag horn stone operated by using this technique was 
evaluated regarding blood loss, stone-free rate and kidney function. Results: 80 patients with 46 males and 
34 females, mean age of 50.66 year (youngest 23 years and oldest 80 years) presenting complex stag horn 
stone were enrolled in this study. Mean blood loss volume was 171.55ml, stone-free rate was 92.5%. Pre 
and postoperative blood urea was 38 mg/dl and 34 mg/dl respectively (test t, p<0.05). Pre and 
postoperative creatinin serum was 10.94 mg/l and 10.53 mg/l respectively. There was no peroperative 
nephrectomy because of uncontrolled bleeding. There was no secondary hemorrhage, nor urine leakage, 
nor severe infection, nor mortality in the postoperative period. Conclusions: This surgical technique helped 
minimizing blood loss, increasing stone-free rate and preserving renal function. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Do sinh lý bệnh và hình dáng đặc biệt, sự tiến 
triển, tính chất tàn phá chủ mô thận do nhiễm 
trùng và bế tắc, dễ tái phát và sự phức tạp trong 
điều trị; sỏi san hô là một loại sỏi nguy hiểm, 
“ngoạn mục” đã được các nhà niệu học quan tâm 
từ rất lâu
(15)
. 
Với thành phần hóa học đặc biệt chủ yếu là 
manhê + ammôniac và phốt phát, trong hơn 75% 
các trường hợp sỏi san hô có liên quan chặt chẽ 
với nhiễm trùng niệu mãn tính hoặc tái phát đặc 
biệt do các chủng vi khuẩn chứa men 
urease
(20,21,22)
. 
Sự điều trị sỏi san hô rất phức tạp vì chảy máu 
nhiều lại đòi hỏi phải lấy hết sỏi, vô khuẩn hóa 
nước tiểu, và bảo tồn hay cải thiện chức năng 
* Khoa Thận Niệu – BVND 115 – Bộ Môn Niệu TTĐT-BDCBYT 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 1* 2002 Nghiên cứu Y học 
 2 
thận. 
Nghiên cứu nhằm thực hiện một phẫu thuật 
mổ hở với cầm máu chủ động để điều trị sỏi san 
hô. 
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiền cứu một 
phương pháp mổ hở để điều trị sỏi san hô phức tạp 
với đường rạch đài bể thận mở rộng từ đài thận 
trên vòng ngang qua bể thận xuống đài thận dưới 
phối hợp với cắt chủ mô thận ở mặt sau theo diện 
vô mạch giữa phân thùy sau và phân thùy dưới 
và/hoặc giữa phân thùy sau và phân thùy trên tùy 
theo vị trí, kích thước của các nhánh sỏi san hô, sự 
có hay không có phối hợp với các sỏi nhỏ và sự 
rộng hẹp của cổ đài thận có các nhánh sỏi tương 
ứng. Trong lúc rạch chủ mô, dù theo diện vô mạch 
có thể có một số nhánh mạch máu phụ nhỏ bị tổn 
thương sẽ được may cầm trước khi tiến hành các 
thủ thuật lấy sỏi. Trong lúc mổ, đánh giá lượng 
máu mất qua lượng máu hút vào bình chân không 
và thấm vào gạc (cân gạc trước và sau mổ). Hậu 
phẫu đánh giá số ngày tiểu máu đại thể và lượng 
máu phải bồi hoàn từ khi bệnh nhân được chuyển 
sang phòng hồi tỉnh đến khi xuất viện. 
Các xét nghiệm sinh hóa và hình ảnh học 
được thực hiện trước và sau mổ giống như trong 
các báo cáo trước
(18,19)
. 
Các trường hợp phải cắt thận vì chảy máu 
cũng được đưa vào lô nghiên cứu và xem như là 
thất bại của kỹ thuật. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1/1998 đến 1/2001 chúng tôi đã tiến 
hành 92 lần phẫu thuật cho 91 bệnh nhân bị sỏi 
san hô phức tạp trong đó có 12 trường hợp sỏi san 
hô biến chứng thận mủ được chẩn đoán trước hay 
trong lúc mổ và buộc phải cắt thận nên không 
được đưa vào lô nghiên cứu, còn lại 80 lần phẫu 
thuật tương ứng với 79 bệnh nhân đã được mổ 
theo kỹ thuật mô tả. 
Giới tính: có 46 nam, 34 nữ. Tỷ số nam/nữ: 
1,35, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (test 
2
, p>0,05). 
Tuổi: trung bình là 50,66 (lớn nhất là 80 và 
nhỏ nhất là 23 tuổi). 
Có 02 trường hợp sỏi trên thận độc nhất, 04 
trường hợp sỏi tái phát. Có 29 trường hợp sỏi san hô 
bên phải, 33 trường hợp sỏi san hô bên trái và 18 
trường hợp sỏi san hô hai bên (01 trường hợp do 
chúng tôi mổ cả hai bên và 03 trường hợp đã mổ 
trước ở bệnh viện khác một bên và đều còn sót sỏi). 
Lượng máu mất trung bình trong lúc mổ là 
171,75ml, nhiều nhất là 500ml, ít nhất là 50ml. 
5/80 (6,25%) phải truyền máu trong lúc mổ với 04 
trường hợp truyền 250ml cho mỗi trường hợp và 
chỉ có 01 trường hợp phải truyền 500ml. Thời gian 
tiểu máu sau mổ trung bình là 2,73 ngày, ngắn 
nhất là 2 ngày, dài nhất là 5 ngày. Có 01 trường 
hợp bị chảy máu thứ phát vào ngày thứ 10 hậu 
phẫu nhưng được điều trị bảo tồn ổn định không 
phải can thiệp phẫu thuật lại. Không có trường 
hợp nào phải truyền máu sau mổ, kể cả trường 
hợp bị chảy máu thứ phát. Không có trường hợp 
nào phải cắt thận vì chảy máu không cầm được 
trong lúc mổ. Cấy nước tiểu dương tính trong 13 
trường hợp (16,25%) trong đó nước tiểu khi quan 
sát đại thể lúc mổ: trong là 04 trường hợp và nước 
tiểu đục là 9 trường hợp. E.coli và Enterobacter 
chiếm đa số các trường hợp (61,56%). Urê máu 
trước và sau mổ lần lượt là 38mg% và 34mg% (sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê, test t, p<0,05). 
Creatinin máu trước và sau mổ lần lượt là 
10,94mg/l và 10,53mg/l% (sự khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê, test t, p>0,05). Trong 59/80 
trường hợp (73,75%) đều có sỏi nhỏ kết hợp với 
khối sỏi lớn, và trong 57/80 trường hợp (71,25%) 
đường mổ cho phép lấy được nguyên cả khối sỏi 
lớn mà không phải bẻ gãy để lấy ra từng mảnh. 
Có 03 trường hợp (3,75%) phải mở thêm chủ mô ở 
đài thận trên theo đường vô mạch để lấy sỏi kẹt 
tại đây. Có 05 trường hợp (6,25%) phải cắt rộng 
cổ đài thận để lấy sỏi và sau đó tạo hình lại theo 
kỹ thuật xẻ dọc, may ngang. Tỷ lệ hết sỏi là 
92,5% (74/80 trường hợp), những trường hợp còn 
sót sỏi đều không gây biến chứng nào ở hậu phẫu. 
So sánh UIV trước và sau mổ đều cho thấy có sự 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 1* 2002 
 3 
cải thiện về phương diện chức năng và giải phẫu 
học của bên thận được can thiệp. 
Không có trường hợp nào bị nhiễm trùng hay 
xì dò nước tiểu sau mổ. Không có trường hợp nào 
tử vong. 
BÀN LUẬN 
Tính phức tạp và sự trầm trọng của sỏi san hô 
từ lâu đã làm cho các nhà niệu học phải lo sợ và 
trân trọng, nên những ý định đầu tiên về phẫu 
thuật sỏi san hô đã hình thành rất sớm từ thế kỷ 
XIX
(1)
. 
Đối chọi với những dẫn lưu đơn giản khối mủ 
bị ứ đọng hay cắt thận, các kỹ thuật mổ bảo tồn 
thận đã được sinh ra rất sớm từ hơn một thế kỷ 
qua. Tuy nhiên, các biến chứng của kỹ thuật này 
thường gặp và nặng: 
 Chảy máu trong và sau mổ. 
 Dò nước tiểu hay nhiễm trùng. 
 Phá hủy thận. 
Trong đó có thể nói chảy máu là yếu tố quan 
trọng nhất vì chảy máu nhiều, nhất là khi không 
may cầm máu được thì phẫu thuật viên bắt buộc 
phải chấm dứt cuộc mổ sớm nên không thể thám 
sát một cách tỉ mỉ các nhóm đài thận để lấy sạch 
sỏi, từ đó sẽ dễ có sót sỏi với hậu quả là duy trì 
nhiễm trùng, tái phát sớm, xì dò nước tiểu, chảy 
máu thứ phát... Ngoài ra, nếu đường rạch chủ mô 
phạm phải một mạch máu nuôi chính thì không 
những gây chảy máu nhiều mà còn có thể gây 
thiếu máu cục bộ cho phần chủ mô tương ứng. Vì 
vậy, điều quan trọng là khi cắt mở chủ mô, cần 
cắt theo các diện vô mạch đã được nhiều tác giả 
đề cập và nhấn mạnh
(2,5,11,12,13,14)
. Ngoài ra, trong 
diện vô mạch này có thể có một số nhánh phụ, 
không quan trọng, khi bị tổn thương vẫn gây chảy 
máu nên cần may lại ngay trước khi lấy sỏi để 
phẫu trường được sạch nhờ vậy có nhiều thời gian 
để thám sát kỹ các hốc đài thận. 
Đường mổ chẻ đôi thận Boyce-Smith
(4)
 được 
các tác giả Anh Mỹ gọi là Anatrophic 
Nephrolithotomy được khuyến cáo nhiều nhất để 
điều trị bằng mổ hở cho các trường hợp sỏi san hô 
phức tạp. Tuy nhiên, đường mổ này đòi hỏi nhiều 
điều kiện phức tạp như phải kẹp cuống thận, sử 
dụng các chất hiển thị màu, hạ nhiệt độ thận tại 
chỗ... Ngoài ra, đường rạch chủ mô thận theo diện 
vô mạch ở bờ cong của thận khá rộng và dài nên 
không khỏi làm tổn thương thận khá nhiều vừa do 
đường cắt mở vừa do các mối may lấy nhiều chủ 
mô để ép cầm máu mặt cắt. Với nghiên cứu của 
Boyce
(4)
 thì tỷ lệ hết sỏi là 80%, truyền máu trên 
5 đơn vị là 4%. Với nghiên cứu của Paik
(16)
 thì tỷ 
lệ hết sỏi là 93%, lượng máu mất trung bình là 
750ml. Còn nghiên cứu của Allen
(1)
 thì tỷ lệ hết 
sỏi là 81% và lượng máu mất trung bình là 325ml. 
Nghiên cứu của Trần Đức Hòe
(23)
 thì tổng lượng 
máu trung bình là 580ml, không thấy nói đến tỷ lệ 
hết sỏi. Trong khi đó thì nghiên cứu của chúng tôi 
với cắt mở chủ mô tuy giới hạn nhưng cũng đủ 
rộng khi phối hợp với đường cắt mở đài bể thận và 
đã giúp lấy được nguyên cả khối sỏi lớn trong hầu 
hết các trường hợp (71,25%) với tỷ lệ hết sỏi là 
92,5% tương đương hoặc cao hơn các tác giả trên 
và khi phân tích sâu nguyên nhân gây sót sỏi thì 
thấy rằng đó không phải là do kỹ thuật mà là do 
bản chất của bệnh sỏi với nhiều sỏi nhỏ rải rác 
trong các đài thận kèm theo với sỏi san hô lớn, 
lượng máu mất đã được giảm thiểu so với đường 
mổ chẻ đôi thận. 
Ngoài ra, đường mổ chẻ đôi thận còn có thể 
gây nhiều biến chứng khác: cắt thận thứ phát để 
cầm máu hay phải làm thuyên tắc mạch chọn lọc 
vì chảy máu trong hay sau mổ không thể cầm 
được, dò nước tiểu, tụ mủ hông lưng, dò động tĩnh 
mạch thận... Trong nghiên cứu của chúng tôi, may 
mắn là không bị các biến chứng trên. 
Theo một số tác giả
(7,9,10,17)
, đối với sỏi còn sót 
có thể điều trị bổ túc bằng tưới rửa tại chỗ vói 
dung dịch Suby G hay Hemacidin hay Renacidin 
hoặc cho uống các thuốc ức chế urease (acid 
aceto hyroxamic), lợi tiểu nhóm thiazides, citrate, 
allopurinol Trong nghiên cứu này, chúng tôi 
chưa có kinh nghiệm sử dụng các loại thuốc trên 
để điều trị bổ túc cho các bệnh nhân bị sót sỏi. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 1* 2002 Nghiên cứu Y học 
 4 
KẾT LUẬN 
Vừa cắt mở chủ mô thận theo đường vô mạch 
vừa cầm máu tại chỗ đã giúp giảm thiểu mất máu 
trong mổ và tránh được biến chứng chảy máu thứ 
phát sau mổ. Ngoài ra, cũng đã bảo tồn được chức 
năng của thận mổ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ALLEN F, NITAHARA K.S, MOREY JW, ANINCH MC 
(1991), Modified anatrophic nephrolithotomy for management 
of staghorn stones, J Urol, 59(5): 57. 
2. BLANDY J (1982), The Kidney–Structure and Function, 
Lecture Notes on Urology, Blackwell, Singapore: 30-42. 
3. BOCCON GL (1981) Hémorragie après néphrolithotomie 
valeur thérapeutique de l’embolisation rénale suprasélective, 
Ann Urol, 15: 170-272. 
4. BOYCE S (1998), Nephrolithotomy, Atlas of Urol Surg., 
Saunders, USA, 22, pp. 1048 –1054. 
5. BRETAN PN, MALONE MJ (1999), Complex Renal 
Reconstruction, Urol Clin North Am, 26(1): 201 – 217. 
6. CARMIGNANI G, BELGRANO E, PUPPO P, GIULANI L 
(1981), Massive post-operative bleeding in a solitary kidney 
successfully treated by salvage clot embolisation, J Urol, 126: 
400-402. 
7. COE FL, HENRY W, PARKS JH, ASPLIN JR (2001), 
Proportional reduction of urine supersaturation during 
nephrolithiasis treatment, J Urol,166: 1247 – 1251. 
8. FAURE G, SARRAMON JP (1982), Traitement chirugical du 
calcul coralliforme, J Uro, 88(7): 448-453. 
9. FERNANDO C, DELVECCHIO MD AND PREMINGER GM 
(2000), Management of residual stones, Urol Clin North Am, 
27: 347 – 354. 
10. HESSE A, HEIMBACH D (1999), Causes of phosphate stone 
formation and the importance of metaphylasis by urinary 
acidification: a review, World J Urol,17(5): 308-315.. 
11. HINMAN F.Jr. (1998), Kidney Reconstruction, Atlas of 
Urologic Surgery, Saunders, USA: 911-923. 
12. HINMAN F.JR, Kidney Excision, Atlas of Urologic Surgery, 
Saunders, USA: 983-992. 
13. KUSS R. et GRÉGOIR W (1988), Histoire illustrée de 
l’Urologie, Ed R Docosta: 291-302. 
14. MEVEL O. (1996), Place actuelle de la chirugie percutanée 
dans le traitement des lithiases urinaires, Thèse pour le 
Diplôme d’Etat de Docteur en Medecin. 
15. NONY P. (1993), Données actuelles et perspectives d’avenir 
dans le traitement de la lithiase coralliforme de l’adulte. A 
propos de 113 calculs opérés, Thèse pour le Doctorat d’Etat 
en Médecine. 
16. PAIK M.L., WANSTEIN M.A., SPIRNAK J.P. et al (1998), 
Current indication for open stone surgery in the treatment of 
renal and ureteral calculi, J Urol,159: 374-379. 
17. PEARLE MS, ROEHRBORN CG, PAK CY (1999), 
Metaanalysis of randomized trials for medical prevention of 
calcium oxalate nephrolithiasis, J Endo Urol,13(9): 679-685. 
18. PHẠM VĂN BÙI: Kết quả điều trị sỏi san hô phức tạp qua 
đường vô mạch bể thận-đài thận dưới (1994). Báo Cáo Hội 
Nghị Thận Học-Niệu Học lần thứ IV, 4/1999, Huế. 
19. PHẠM VĂN BÙI (2001): Phẫu thuật sỏi san hô bằng cắt mở 
bể-đài thận qua đường vô mạch phân thùy sau-dưới. Y Học 
Tp.Hồ Chí Minh, 5(4): 232-236. 
20. SARRAMON JP. (1994), “Traitement de la lithiase 
coralliforme”, Viatique de néphrologie et d’Urologie, 
Fournié-Fonsegrives, Toulouse: 467-477. 
21. SEGURA JW (1997), Staghorn Caculi, Urol Clin North Am, 
24(1): 71-80. 
22. TEICHMAN JMH, LONG RD, HULBERT JC (1995), “Long-
term renal fate and prognosis after staghorn calculus 
management”, J Urol,153: 1403. 
23. TRẦN ĐỨC HÒE, NGUYỄN HỮU HẢO (1993), Rạch rộng 
chủ mô thận lấy sỏi san hô dưới hạ nhiệt độ thận tại chỗ, 
Ngoại Khoa, tập XXIII (2): 7-10. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 cam_mau_chu_dong_trong_phau_thuat_soi_san_ho_phuc_tap.pdf cam_mau_chu_dong_trong_phau_thuat_soi_san_ho_phuc_tap.pdf