Tài liệu Cảm hứng nhàn tản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016
53
Cảm hứng nhàn tản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Relaxed inspiration in Nguyen Du’s poems written in Han (class Chinese)
PGS.TS. Lê Văn Tấn
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Le Van Tan, Assoc.Prof., Ph.D.,
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences
TS. Nguyễn Thị Hưởng
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Nguyen Thi Huong, Ph.D.,
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Nguyễn Du (1765-1820) là tập đại thành của văn học trung đại Việt Nam. Ngoài tác phẩm bất hủ “Đoạn
trường tân thanh” và một số tác phẩm Nôm khác, ông có để lại 3 tập thơ chữ Hán với tổng số 249 bài. Qua
đây, thi hào đã có dịp thể hiện, gửi gắm và ký thác nhiều tâm sự về thế đạo nhân tâm cũng như thân phận
của một kẻ sĩ tài hoa nhưng cuộc đời nhiều cay đắng, tủi nhục. Trên hành trình ấy, những lúc th...
13 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm hứng nhàn tản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016
53
Cảm hứng nhàn tản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Relaxed inspiration in Nguyen Du’s poems written in Han (class Chinese)
PGS.TS. Lê Văn Tấn
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Le Van Tan, Assoc.Prof., Ph.D.,
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences
TS. Nguyễn Thị Hưởng
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Nguyen Thi Huong, Ph.D.,
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Nguyễn Du (1765-1820) là tập đại thành của văn học trung đại Việt Nam. Ngoài tác phẩm bất hủ “Đoạn
trường tân thanh” và một số tác phẩm Nôm khác, ông có để lại 3 tập thơ chữ Hán với tổng số 249 bài. Qua
đây, thi hào đã có dịp thể hiện, gửi gắm và ký thác nhiều tâm sự về thế đạo nhân tâm cũng như thân phận
của một kẻ sĩ tài hoa nhưng cuộc đời nhiều cay đắng, tủi nhục. Trên hành trình ấy, những lúc thân mhỏi,
tâm mệt, Nguyễn Du đã tìm đến với thiên nhiên, cuộc sống thôn dã như một phương thức để giải tỏa
những ưu tư và giữ gìn khí tiết thanh cao. Điều này tạo nên trong thơ chữ Hán của ông cảm hứng về cái
nhàn hay cảm hứng nhàn tản. Đây là nội dung chính được chúng tôi triển khai trong bài viết của mình.
Từ khóa: Nguyễn Du, văn học trung đại, thơ chữ Hán, nhàn tản.
Abstract
Nguyen Du was the greatest writer of Vietnamese medieval literature. In addition to the immortal work
“Doan truong tan thanh” and some works written in Chu Nom (Demotic script), he left three volumes of
poetry with 249 poems written in Han. Through these poems, the poet had a chance of expressing his
thoughts about human mind and the history of a talented artist who had a hard and bitter life. During the
journey, when tired, Nguyen Du came into the nature and enjoyed the rural life, which was regarded as
a means helping him to alleviate his sorrows and keep his noble nature. It brought his poems written in
Han a relaxation or relaxed inspiration. The article is about this content.
Keywords: Nguyen Du, Vietnamese medieval literature, Han poetry, relaxed inspiration.
1. Từ sự lựa chọn của kẻ sĩ trong
thời loạn
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820),
tập đại thành của văn chương trung đại,
niềm vinh dự cho bất kỳ một nền văn học
dân tộc nào đã cách chúng ta ngót một góc
phần tư của thiên niên kỷ song những giá
trị tình thần mà ông để lại luôn sống mãi.
Và ở vào mỗi một giai đoạn lịch sử, một
tình huống hay một số phận, người ta lại
tìm thấy ở Nguyễn Du những kinh nghiệm
có ý nghĩa sâu sắc, máu thịt. Nguyễn Du
cùng với những đứa con tinh thần của ông
lẽ đó mà đã đi vào đời sống tinh thần người
Việt suốt ngần ấy tháng năm và sẽ còn
đồng hành suốt chiều dài quê hương, đất
54
nước tới mai sau.
Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình
có truyền thống khoa bảng và văn chương.
Cụ thân sinh Nguyễn Nghiễm (1708-1775)
và người anh trai cùng cha khác mẹ
Nguyễn Khản (1734-1786) của nhà văn
đều nổi tiếng về tài năng, trí tuệ cũng như
phong lưu một thuở. Mẹ Nguyễn Du là bà
Trần Thị Tần (1740-1778) thì nổi tiếng
xinh đẹp, đa tình lại có tài xướng ca. Chắc
hẳn, tính cách, tố chất ở thi hào đã chịu
những ảnh hưởng không nhỏ từ ba con
người này. Tiếc là cả cha và mẹ đều mất
khi Nguyễn Du còn nhỏ khiến những định
hướng ban đầu cho một sự nghiệp ở thi hào
có nhiều dang dở. Đến ở với người anh trai
chưa được bao lâu thì xảy ra “Vụ án năm
Canh Tý”, Nguyễn Khản bị khép tội mưu
loạn và bị bắt giam ở nhà Châu Quận công.
Nguyễn Du được ông Đoàn Nguyễn Tuấn
(một người thân với cụ Nguyễn Nghiễm)
đón về nuôi dạy ở trấn Sơn Nam Hạ. Sau
khi Trịnh Sâm mất (1782), kiêu binh phế
Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa,
hai người anh của Nguyễn Du được phục
chức (Nguyễn Khản làm Thượng thư bộ
Lại; Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây),
Nguyễn Du bắt đầu tham gia thi cử với
khát vọng lập thân, lập danh, cũng là để bắt
đầu tìm kiếm những cơ hội nhằm hiện thực
hóa mơ ước của kẻ sĩ trung đại. Năm 1783,
Nguyễn Du tham gia thi Hương ở Sơn
Nam đỗ Tam trường (Tú tài), lấy vợ là con
gái Đoàn Nguyễn Thục và được tập ấm
chức “Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng
hậu” của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên.
Có thể nói rằng, giá như trong một tình thế
khác của lịch sử, của thời thế thì với kẻ sĩ
như Nguyễn Du đây sẽ là sự khởi đầu ít
nhiều suôn sẻ của một sự nghiệp hành đạo.
Song rất tiếc, sự lựa chọn của cá nhân
không phải bao giờ cũng trùng khít với sự
lựa chọn của lịch sử (ý của C.Max), cái
khát vọng kinh bang tế thế từng cháy rừng
rực ở những tiền bối (như Nguyễn Phi
Khanh, Nguyễn Trãi, Phùng Khắc
Khoan) đến thời đại của Nguyễn Du đã
không còn nữa. Thời thế, sự “va đập” có
tính định mệnh của xã hội đã đẩy thi hào
sang một hướng khác, hướng mà ở đó ông
đã ghi dấu vĩnh viễn, trường tồn như ngọn
núi Hồng, như dòng sông Lam quê hương
trong trái tim của độc giả muôn đời.
Xin nói thêm, trong thời kỳ trung đại,
với bất kỳ sĩ hoạn nào, một khi đã theo học
Nho giáo đều mang trong mình cái khát
vọng được mang tài năng, tâm huyết của
mình để phục vụ triều đại, phục vụ đất
nước, nhân dân. Song đường đi của mỗi
người mỗi khác. Có người thành, có người
bại, có người có cơ hội có người lại không,
có người có thể “cháy hết mình”, cũng lại
có người “nửa đường đứt gánh”, gối mỏi
thân mệt mà dùng dằng, chần chừ Ở đó
có cả những nguyên nhân khách quan và
có cả những nguyên nhân chủ quan mà
không phải lúc nào cũng dễ dàng lý giải
cho thấu tình đạt lý. Nhìn vào hành trạng
hoạn lộ của Nguyễn Du, chúng tôi có một
cảm nhận dường như với ông, việc theo
triều đại nào, nhậm một chức tước nào với
ông đều khá miễn cưỡng. Năm 1789, khi
Nguyễn Huệ ra Bắc đại phá quân Thanh,
nhiều kẽ sĩ Bắc Hà khó tính nhất cũng đã
theo Tây Sơn (Ninh Tốn, Ngô Thì Nhậm,
Đoàn Nguyễn Tuấn) thì bản thân
Nguyễn Du lại phiêu dạt về quê vợ ở Thái
Bình. Mùa đông năm 1796, Nguyễn Du
trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh
nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt
giam ba tháng ở Nghệ An sau khi được tha
ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian
bị giam ông có làm thơ “My trung mạn
hứng” (Cảm hứng trong tù) như sau:
55
Chung tử viên cầm tháo nam âm,
Trang Tích bệnh trung di Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thời liễu?
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang thâm.
(Chung tử gảy đàn theo điệu Nam/
Trang Tích khi ốm vẫn rên bằng tiếng Việt/
Bốn bể gió bụi, nghĩ tình nhà việc nước mà
rơi lệ/ Mười tuần lao tù, lòng coi thường
sống chết/ Bao giờ mới hết mối hận Bình
Chương?/ Khó mà tìm được phong cách
cao thượng của con người nước Cô Trúc/
Ta có một chút tâm sự không biết tỏ cùng
ai/ Dưới chân núi Hồng, sông Quế Giang
sâu thẳm.)1.
Rõ ràng “mối hận” và “một chút tâm
sự” trên đây đã cho thấy ở thi hào ý thức
rất cao về tài năng, nhân cách cũng như
những khát vọng của cá nhân ở vào hoàn
cảnh không được như ý. Thật khó để phán
xét song rõ ràng, nhận thức cũng như thái
độ của Nguyễn Du với Tây Sơn không
giống như với những nho sĩ khác cùng
thời. Ông muốn bánh xe thời gian quay
ngược trở lại hay trông chờ vào một sự
thay đổi nào khác? Tâm trạng hoài Lê ở
ông như các nhà nghiên cứu đi trước đã chỉ
ra là có thật:
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạng tứ khai mê cựu tích,
Quản tuyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quý cung trang đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh.
(Thăng Long, kỳ 2)
(Mảnh trăng ngày trước soi xuống
ngôi thành mới/ Đây vẫn là Thăng Long,
đô thành các triều vua trước/ Đường sá
ngang dọc, lạc mất dấu vết cũ/ Tiếng đàn
sáo cũng đổi khác, xen lẫn âm thanh mới/
Phú quý nghìn xưa vẫn làm cái mồi cho sự
tranh đoạt/ Bạn bè hồi trẻ, kẻ mất người
còn/ Thôi đừng than thở chuyện đời chìm
nổi/ Mái tóc mình cũng đã bạc lốm đốm.).2
Có điều là nỗi niềm với cựu triều
không đưa nhà thơ tới những cực đoan
trong nhận thức mặc dù ông vẫn hi vọng
một sự đổi khác. Ông ý thức được sự hưng
phế có tính tất yếu của thế cuộc nhưng vẫn
muốn một cục diện khác để có thể thực sự
hài lòng cống hiến. Đó chính là cái lẽ khiến
cho ông thản nhiên sau đó ra làm quan cho
triều Nguyễn, bắt đầu từ năm 1802. Và
cũng từ thời gian đó cho tới khi mất, tình
cảm, thái độ của ông khi tham gia triều
chính có phần chểnh mảng, đâu đó bất đắc
chí, thậm chí đã có những lúc ông nghĩ đến
cái chết:
Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường,
Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bang.
Tế giản thủy thanh lưu tích vũ,
Bình sa nhân ảnh tại tà dương.
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ,
Nhi nữ thành quần tử bất phương.
Hồi thủ cố hương thu sắc viễn,
Hoành sơn vân thụ chính thương thương.
(Giang đầu tản bộ, kỳ 2)
(Hát gấp thì tiếng ngắn, hát thong thả
thì tiếng dài/ Đầu bạc bơ phờ đi bên con
đường cổ/ Lạch nhỏ dồn nước mưa tiếng
chảy reo/ Bóng chiều lúc chiều tà in trên
bãi cát/ Chưa báo đáp được mảy may, sống
chẳng ích gì/ Trai gái hàng đàn, chết cũng
chẳng ngại/ Ngoảnh nhìn về quê nhà, vẻ
thu xa lắc/ Mây và cây cối trên dãy Hoành
sơn một màu xanh biếc - Dạo chơi đầu
sông, bài 2).
3
Trong “Nam trung tạp ngâm” và “Bắc
hành tạp lục” cho thấy Nguyễn Du đã có
56
một cái nhìn hiện thực tỉnh táo đối với giai
cấp chính trị lúc bấy giờ. Ông nhìn thấy
chốn quan trường chỉ là lợi danh, thoán
đoạt; kẻ thực tài, thực tâm thì không được
dụng. Cùng với những trải nghiệm 10 năm
gió bụi trước đây và thân tâm không phải
không có những lúc mỏi mệt, đại thi hào
chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là kiên
trinh một tấm lòng trong sạch, không bợn
tục lụy. Và đây cũng là lúc ông tìm đến
Đạo giáo, Phật giáo để tự xoa dịu, an ủi,
cũng là “điểm tựa” ru lòng mình giữa cõi
nhân sinh quá nhiều đen tối.
Con đường của Nguyễn Du trong một
thời đại nhiều song gió quả có gập ghềnh
mà lịch sử đã không chọn ông trong tư cách
của một ông quan hành đạo - nhập thế (như
nhiều kẻ sĩ khác cùng thời). Đọc 249 bài
thơ chữ Hán, chúng tôi thấy Nguyễn Du
dường như không có một chút hứng thú với
lý tưởng hành đạo mà đáng lẽ ra một kẻ sĩ
như ông sẽ nhiều ít đề cập tới. Nếu nói ông
không có tài cho sự lựa chọn ấy hẳn nhiên
là không đúng; và nếu nói “giá như” có một
lựa chọn lại cũng là phi biện chứng. Chúng
tôi cho rằng, sự lựa chọn cuộc đời của
Nguyễn Du tiêu biểu cho một hướng lựa
chọn của kẻ sĩ trong thời loạn để vị trí, tên
tuổi của ông sẽ được nhắc mãi trong một tư
cách khác: tư cách của một nhà nhân văn
chủ nghĩa vĩ đại với cái nhìn hiện thực phi
lạc quan hóa, từ trong thơ chữ Hán đến
tuyệt tác “Đoạn trường tân thanh”.
2. Đến một cái nhìn nhân văn về
cuộc đời
Hẳn nhiên, khi mà con đường hành
đạo, lý tưởng hành đạo vốn đã trở thành
thứ “thuộc lòng” của Nho sĩ bấy nay
không còn có cơ hội cháy lên trong trái tim
Nguyễn Du thì đó cũng là lúc mà thi hào
hướng sự quan tâm của mình tới những
vấn đề khác của xã hội cũng như của thân
phận cá nhân. Trong thơ chữ Hán, chúng
tôi nhận thấy Nguyễn Du đã có cái nhìn
nhân văn sâu sắc về cuộc đời nói chung.
Cái nhìn nhân văn ấy được hướng tới các
tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội,
góp phần quan trọng tạo nên sự phong phú
của hệ thống hình tượng thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Trước hết, từ sự trải nghiệm cuộc sống
xa hoa của cung vua phủ chúa, cũng như
những quan sát thực tế sau này mà Nguyễn
Du đã có một cái nhìn hiện thực mang tinh
thần phê phán đối với quan tham lại nhũng,
những kẻ áp bức, bóc lột chà đạp lên quyền
sống của con người. Tuy nhiên, cái cách
mà nhà thơ diễn đạt nội dung này lại khá
nhẹ nhàng, đôi chỗ ẩn ý, gián tiếp. Những
lời thơ như thế này thực ra không nhiều
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du:
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri bão.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
(Long Thành cầm giả ca)
(Các quan Tây Sơn trong tiệc rượu đều
nghiêng ngả/ Mảng vui suốt đêm không
biết chán/ Phía tả phía hữu tranh nhau gieo
thưởng/ Tiền bạc coi rẻ như đất bùn - Bài
ca người gảy đàn ở Long Thành).4
Trong khi đó, tác giả lại thường nhân
cảnh hiện tại mà ngẫm đến cảnh xưa, nhìn
cái hoang tàn của hôm nay mà nuối tiếc một
thời vàng son của quá khứ. Hãy khoan nói
đến xúc cảm hồi cố cựu triều thì rõ ràng
trong tương quan như thế, lời thơ Nguyễn
Du toát lên một cách ý nhị âm hưởng phê
phán triều đại đương thời:
Thiên niên cự thất thành quan đạo,
Nhất phiến tân thành một cố cung.
(Thăng Long, kỳ 1)
(Những ngôi nhà đồ sộ nghìn xưa, nay
thành đường cái,
57
Một dải thành mới làm mất dấu vết
cung điện cũ)5
Nhìn cảnh hoang phế của thành phủ
mà lòng thi nhân nhuốm nỗi u hoài:
Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu cao phi tận,
Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư.
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ,
Bách chúng u hoài vị nhất sư.
(Bát muộn)
(Cát bụi che mờ thềm ngọc đã mười
năm/ Thành phủ xây dựng trăm năm nay,
một nửa đã thành gò hoang/ Những loài
chim, sâu nhỏ bé, đều bay hết cá/ Sau cuộc
huyết chiến, chỉ còn lại cõi càn khôn nhơ
nhớp/ Quê nhà trong cơn binh lửa, mình ở
xa ngàn dặm, nước mắt tuôn rơi/ Bạn bè,
bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn/
Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ/ Trăm mối u
hoài chưa dẹp được - Xua nỗi buồn).6
Nỗi niềm của Nguyễn Du ở đây khiến
chúng tôi chợt nhớ tới những câu thơ của
Bà Huyện Thanh Quan, những câu thơ
mang mang một nỗi quan hoài với xúc cảm
nhân văn của thi nhân trước cái đẹp đã vĩnh
viễn tạc vào tâm trí bao kẻ sĩ một thời:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa thành thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường.
(Thăng Long thành hoài cổ)
Từ đó, Nguyễn Du gửi gắm niềm hi
vọng của mình về một sự thay đổi nhân
tiễn bạn đi nhậm chức, dù bản thân ông đã
tự nhận thấy niềm hi vọng ấy của mình
cũng chưa có gì là chắc chắn:
Nhân tòng đạm bạc tư vi chính,
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn.
Bắc vọng Hồng Sơn khai đức diệu,
Thiên nhai cử tửu khánh hương quan.
(Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn
Nghệ An)
(Tính ông đạm bạc sẽ thể hiện vào
chính sự/ Trời vì nhân dân nên chưa cho
ông được nhàn rỗi/ Trông về núi Hồng ở
phía bắc, thấy ngôi sao nhân đức hiện lên/
Từ phương trời xa, tôi nâng cốc chúc mừng
quê hương tôi - Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn ra
làm Hiệp trấn Nghệ An).7
Cái nhìn nhân văn của thi hào về cuộc
đời tiếp tục được thể hiện và thể hiện rõ
hơn ở cái nhìn cảm thông, chia sẻ đối với
những thân phận, những cảnh đời cơ cực,
các tầng lớp dưới đáy của xã hội. Niềm
cảm thông, chia sẻ ấy ở Nguyễn Du vượt
biên giới quốc gia dân tộc để đến với con
người nói chung. Đây là bài thơ thể hiện
tình cảm của nhà thơ trên đường đi sứ với
một người phu xe bắt gặp trên đường:
Hà Nam thu bát nguyệt,
Tàn thử vị tiêu dung.
Lộ xuất lương phong ngoại,
Nhân hành liệt nhật trung.
Đồ trường tê quyện mã,
Mục đoạn diệt qui hồng.
Hà xứ thôi xa hán?
Tương khan lục lục đồng.
(Hà Nam đạo trung khốc thử)
(Đến Hà Nam tháng tám giữa mùa thu/
Hơi nóng tàn chưa tan hết/ Trên đường vẫn
chưa có gió mát/ Người đi dưới ánh nắng
gay gắt/ Đường dài, ngựa mỏi hí vang/
Nhìn hết tầm mắt, mất bóng chim hồng bay
về/ Anh đẩy xe kia ở đâu ta nhỉ?/ Nhìn
nhau, thấy vất vả như nhau - Nắng to trên
đường đi Hà Nam).8
Chứng kiến cảnh người hát rong ở
58
thành Thái Bình cố hết sức để hát cho
khách mà chỉ được năm sáu đồng tiền;
người trên thuyền rượu thịt thừa thãi đổ cả
xuống sông trong khi cha con người hát
rong thì bụng đói bước lên bờ, lòng thi
nhân thấy quặn thắt:
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân:
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần.
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung
đốn lệ,
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ.
Hành nhân bão thực tiện khí dư,
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
(Thái Bình mại giả ca)
(Ông già miệng sùi bọt, tay mỏi rời/
Ngồi lại cất đàn, nói là đã hát xong/ Gắng
hết tâm sức gần một trống canh/ Mà chỉ
được năm sáu đồng tiền/ Tôi trong thấy
mà thương xót/ Người ta thà chết còn hơn
nghèo/ Thường nghe nói đất Trung Hoa ai
cũng no ấm/ (Không ngờ) Trung Hoa cũng
có người như thế ấy!/ Kìa không thấy lệ
cung đốn cho đoàn sứ/ Thuyền này thuyền
kia đều đầy gạo thịt/ Mọi người ăn uống
thỏa thuê, còn thì bỏ/ Cơm thừa canh nguội
đổ cả xuống sông! - Người hát rong ở
thành Thái Bình).
9
Nhà thơ mong muốn được vẽ lại
những cảnh đời như thế này để dâng lên
cho nhà vua được biết (mặc dù “nhà vua” ở
đây cũng chỉ được hiểu như là một niềm
mơ ước mà thôi!):
Bát khí vô cố tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
Bất tri quan đạo thượng,
Hữu thử cùng nhi nương.
Thùy nhân tả thử đồ,
Trì dĩ phụng quân vương.
(Sở kiến hành)
(Đồ bỏ không hề tiếc/ Chó hàng xóm
cũng chán thức ngon/ Không biết trên đường
cái quan/ Có mẹ con nhà này cùng cực đến
thế!/ Ai vẽ bức tranh này/ Đem dâng lên nhà
vua! - Những điều trông thấy).10
Cuối cùng không thể không nhắc đến
cái nhìn nhân văn của thi nhân đối với chính
bản thân mình. Có thể nói rằng, chiếm số
lượng nhiều nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du chính là những sáng tác thể hiện những
trăn trở, suy tư, những trạng thái cung bậc
tình cảm hết sức đa dạng của nhà thơ về con
người thân phận. Rất nhiều lần nhà thơ nhắc
đến hình ảnh của mình ốm yếu tiều tụy, cô
đơn giữa cuộc đời quá nhiều dâu bể, thân
tâm mỏi mệt, tóc bạc trắng bụi thời gian:
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực,
Bất tri thu tứ đáo thùy gia.
(Khai song)
(Chiếc nệm xanh, vật cũ, khư khư giữ
mãi/ Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm, cũng
ngồi than thở suông mà thôi/ Bệnh trở lại
phải lo điều dưỡng/ Không biết ý thu đến
nhà ai? - Mở cửa sổ).11
Nỗi cô đơn buồn nản, sự chán chường ở
thi nhân hẳn có những căn nguyên từ ý thức
của một con người nhiều tài năng, nhiều khát
vọng mà lực bất tòng tâm, biết đấy mà đành
vậy. Nhất là những lúc ốm đau, Nguyễn Du
giãi bày trong lời thơ một nỗi niềm thực sự
cảm động, hướng đến cái hư không huyễn ảo
của kiếp người:
Đa bệnh đa sầu khí bất thư,
Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư.
Lệ thần nhập thất thôn nhân phách,
Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư.
59
Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng,
Bất dung trần cấu tạp thanh hư.
Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.
(Ngọa bệnh)
(Lắm bệnh, hay buồn, tâm thần không
được thư thái/ Mười tuần nay nằm co bên
bờ Quế Giang/ Thần ôn vào nhà muốn bắt
vía người/ Chuột đói leo giường gặm sách
vở của ta/ Chưa từng có chuyện văn
chương sinh ra nghiệt chướng/ Không để
cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch/ Dưới
cửa sổ tam lan, vắng bặt tiếng ngâm nga/
Tinh thần dần dần về cõi hư không - Ốm).12
Trở lên có thể thấy rằng, từ sự nhận
thức tỉnh táo về hiện thực cũng như về bản
thể, thân phận, Nguyễn Du đã lựa chọn một
con đường đi riêng của mình trong buổi
loạn ly của đất nước. Khát vọng hành đạo
theo cái nghĩa thông thường của nho sĩ bấy
lâu nay một khi đã vĩnh viễn không còn và
không thể bùng cháy được thì đó cũng là lúc
thi nhân hướng những quan tâm của mình
về hiện thực, về xã hội, về cuộc đời bằng cái
nhìn, thái độ phủ định đối với lợi danh,
quan trường; cảm thông chia sẻ đối với
những số phận bi kịch và cảm thương cho
chính cá nhân ông. Cái nhìn ấy, nỗi niềm ấy
liệu có giúp thi nhân thanh thản? Hay chính
nó lại thêm một lần nữa khiến thi nhân càng
thêm trĩu nặng bao thế thái nhân tình? Vả
chăng chỉ có khi, mặc dù không nhiều,
Nguyễn Du hướng xúc cảm thường nhật của
mình về với thiên nhiên tạo vật, về cái cái
nhàn (như cách thể hiện của bao thi nhân
khác trước và sau ông) thì đó mới là những
giây phút thi nhân được giải phóng những u
ẩn nội tâm trước vần xoay thế cuộc, trước
đảo điên thế thái nhân tình.
3. Và cảm hứng về cái nhàn:
Phương thức giải phóng những u ẩn nội tâm
Nhàn ở đây được hiểu là nhàn nhã, thư
thái. Xét ở phương diện triết học, cảm
hứng hướng về cái nhàn của các nho sĩ
trung đại có sự ảnh hưởng khá rõ từ phép
ứng xử linh hoạt của Nho giáo, triết lý vô
vi, tiêu dao nhàn tản, giải phóng khỏi
những ràng buộc xã hội, huyễn hoặc,
hướng tới cái tự nhiên, tự mỹ, sống thuận
theo tự nhiên, hòa vào thiên nhiên của Đạo
gia và phần nào chứa đựng ở đó cả tư
tưởng thoát ly cõi tục, gần gũi và hòa nhập
với thiên nhiên của Phật giáo.13 Tất nhiên,
cách ứng xử với cái nhàn ở mỗi thi nhân sẽ
khác nhau: có những người đẩy cái nhàn
lên như một triết lý sống, lẽ sống ở vào
một giai đoạn nào đó của cuộc đời và cũng
có thể là cả cuộc đời của mình (như đối với
loại hình tác giả nhà nho ẩn dật với những
tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Hãng, Nguyễn Bỉnh Khiêm);
cũng có những thi nhân hướng đến nó như
chỉ là một cách để giải tỏa những ưu sầu
thế sự, là những giây phút nghỉ ngơi, tĩnh
dưỡng sau bao bận rộn quan trường hay
những công việc thường nhật khác. Nếu
theo đường hướng thứ hai này thì cứ như
khảo sát của chúng tôi, hầu hết các thi nhân
trung đại, người ít người nhiều đều nói tới,
đều hướng đến cái nhàn, tất nhiên cách thể
hiện mỗi người mỗi khác. Từ đây, chúng
tôi cho rằng có sự hình thành của một loại
hình tác giả nhàn tản và một dòng thơ ca
nhàn tản trong văn học trung đại Việt Nam
với những đặc sắc trên cả hai phương diện
nội dung và nghệ thuật cần được nghiên
cứu như một đề tài chuyên biệt.14
Cảm hứng về cái nhàn trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du đi theo hướng thứ hai, như
chúng tôi đã nói ở trên song có những tình
ý và cách thức thể hiện riêng. Về tần suất,
thời gian mười năm gió bụi (1786-1795),
dưới chân núi Hồng (1796-1802) và làm
quan ở Bắc Hà (1802-1804) là khoảng thời
60
gian tác giả nhắc nhiều tới cái nhàn nhất.
Lẽ bởi đây chính là quãng thời gian mà
Nguyễn Du vừa trải qua, chứng kiến những
“va đập” của chế độ chính trị đương thời
đối với đại gia đình của ông. Đó cũng là
quãng thời gian nhà thơ còn ít nhiều niềm
hi vọng, trông ngóng về một cục diện mới
mà ở đó ông có cơ hội được gánh vác, mặc
dù ý thức về sự bất tài, về tuổi già sức mỏi
cũng đã xuất hiện nhiều:
Hoàng Mai kiều thượng tịch dương hồng,
Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông.
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại,
Tình lam thôn thổ loạn lưu trung.
Đoản soa ngư chẩm cô chu nguyệt,
Trường địch đồng xuy cổ kính phong.
Đại địa văn chương tùy xứ kiến,
Quân tâm hà sự thái thông thông.
(Hoàng Mai kiều vãn diểu)
(Trên cầu Hoàng Mai, bóng chiều
nhuốm đỏ/ Dưới cầu Hoàng Mai, nước
chảy về đông/ Nguyên khí nổi chìm ở
ngoài bể rộng/ Giữa dòng sông khí núi tỏa
xuống từng đợt/ Nhà chài nằm gối áo tơi
trong chiếc thuyền lẻ loi dưới ánh trăng/
Em bé đi trên lối cũ thổi sáo trước làn gió/
Trên mặt đất rộng lớn này, ở đâu không có
cảnh đẹp/ Việc gì mà anh phải quá vội
vàng? - Buổi chiều đứng trên cầu Hoàng
Mai ngắm cảnh).15
Trong không gian của một đêm trăng
sáng, đối diện với ngọn đèn bên vách, thi
nhân cảm thấy lòng mình thanh thản, bao
nghiệp chướng rồi cũng qua đi như gió bụi
thời gian:
Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thủy,
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong.
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không.
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ,
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.
(Thôn dạ)
( Vầng trăng sáng đầy trời giọi
xuống mặt nước ao/ Ngọn đèn lạnh bên
vách leo lét trước làn gió muôn cây/ Già
rồi, vẫn chưa biết mình vụng đường sinh
kế/ Hết nghiệp chướng, mới thấy tấm lòng
xưa nhẹ nhõm/ Làm bạn với khách ngư
tiều năm này sang năm khác/ Cười ngạo
nghễ giữa khói mặt hồ và cỏ đồng nội -
Đêm trong xóm).16
Trong thời gian này, có tổng số 06 bài
Nguyễn Du trực tiếp nhắc đến chữ nhàn,
gồm các bài: Khai song (Mở cửa sổ), Đối
tửu (Ngồi uống rượu), Liệp (Đi săn), Mộ
xuân mạn hứng (Cuối xuân cảm hứng),
Đồng Lung giang (Sông Đồng Lung) và
Lạng Sơn đạo trung (Trên đường đi Lạng
Sơn). Những giây phút nhàn nhã, thảnh
thơi thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với
nhà thơ, giúp thi nhân cân bằng được cảm
xúc của mình trước cuộc sống, hòa mình
cùng với cuộc sống xóm thôn, lấy hươu nai
làm bầu bạn:
Môn tiền yên cảnh cận như hà,
Nhàn nhật khai song sinh ý đa
(Khai song)
(Phong cảnh trước nhà nay ra sao?/
Thong thả, mở cửa sổ thấy mọi vật vui
tươi - Mở cửa sổ).17
Y quan đạt giả chí thanh vân,
Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần.
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,
Bỉnh trừ dị loại bất phương nhân
(Liệp)
(Những người làm quan hiển đạt thì
chí ở đường mây/ Còn ta, ta cũng vui với
lũ hươu nai của ta/ Cốt thư thái tâm tình,
chứ không cốt săn bắn cho được/ Nhưng
dù có giết giống khác cũng không hại đến
điều nhân - Đi săn).18
Từ đó, Nguyễn Du tìm cách chối từ
bả phù hoa, coi danh lợi chỉ như cơn gió
thoảng qua; nỗi cô đơn sầu muộn của kiếp
61
người rồi cũng qua đi dẫu vẫn biết cõi phù
sinh là “cái nợ” ai cũng phải trải qua:
Phù thế công danh khan điểu quá,
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên
Phù lợi vinh danh chung nhất tán,
Hà như cập tảo học thần tiên.
(Mộ xuân mạn hứng)
( Công danh ở đời xem như chim
bay vút qua/ Trước sân vắng, thời tiết cũng
theo chim oanh mà đổi dời/ Danh lợi hão
huyền cuối cùng sẽ tiêu tan hết/ Sao bằng
kịp thời sớm theo đạo thần tiên! - Cuối
xuân cảm hứng).19
Đồng Lung giang thủy khứ dud u,
Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu.
Sa chủy tàn lô phi bạch lộ,
Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu
(Đồng Lung giang)
(Nước sông Đồng Lung chảy xa thăm
thẳm/ Mối sầu man mác kim cổ cũng trôi
theo dòng nước không ngừng/ Đàn cò trắng
bay trên đám lau tàn cuối mỏm cát/ Con
trâu nằm đầu ghềnh dưới bóng trăng tà lạnh
lẽo - Sông Đồng Lung).20
Nhìn chung, giai đoạn mười năm gió
bụi, dưới chân núi Hồng và làm quan ở Bắc
Hà là thời gian Nguyễn Du nói nhiều tới cái
nhàn; nhiều bài thể hiện cảm hứng của tác
giả hướng đến thiên nhiên. Ở đó là một
không gian gần mặt đất, gắn với thôn xóm,
quê kiểng, con đường làng, đàn trâu nằm
dưới bóng trăng, đàn cò trắng và đâu đó
thấp thoáng bóng hình của con người như
người nông phu, tiều phu Theo chiều
hướng xúc cảm này, nếu như ở các thi nhân
khác, đó sẽ thực sự là những giây phút họ
được tiêu dao tâm hồn cùng với ngoại giới
đến tận cùng (chúng tôi không đề cập tới loại
hình tác giả nhà nho ẩn dật ở chỗ này) thì ở
Nguyễn Du, dường như những giây phút đó
không ngưng đọng được lâu. Nó đến nhanh
và cũng tan biến nhanh bởi ngay sau đó
thường lại là một nỗi niềm thế thái hướng về
cuộc đời, cuộc sống xã hội của thi nhân.
Những vẫn thơ nhàn của Nguyễn Du vì thế
mà đọc lên vẫn cảm thấy cái dư vị nghèn
nghẹn, cay chua của một thân phận, của một
kiếp người nhiều tài hoa, nhiều khát vọng mà
đa đoan, cực nhọc:
Anh hùng tâm sự hoang trì sính,
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần.
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,
Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.
(Xuân tiêu lữ thứ)
(Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không
nghĩ đến chuyện rong ruổi/ Trên đường danh
lợi, buồn hay vui, cũng không được tự nhiên/
Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn đẹp/
Đứng dưới Đoàn thành, nước mắt thấm khăn
- Đêm xuân lữ thứ).21
Một ước muốn về nghỉ mà với ai thì
thật dễ dàng nhưng với thi hào sao khó đến
thế, nghẹn ngào đến thế:
Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến,
Vi vi chung cổ nguyệt trung văn.
Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ,
Viên hạc hà tòng nhận cựu lân.
(Đồng Lư thượng dao kiến Sài Sơn)
( Xa xa, thấy lâu đài rõ mồn một/
Văng vẳng nghe tiếng chuông trống trong
ánh trăng/ Một chiếc áo xanh đi khắp cõi
bụi hồng/ Làm sao lại về chơi được với con
vượn con hạc ở nơi xóm núi? - Trên đường
Đồng Lư nhìn xa thấy núi Thầy).22
Thời gian làm quan cho nhà Nguyễn
và đi sứ Trung Hoa, mặc dù công việc quan
trường, chính sự có tiêu tốn nhiều thời gian
của thi nhân, song bất kể thời gian nào cho
phép và không gian thích hợp là Nguyễn
Du lại hướng cảm xúc của mình về với
thiên nhiên, cuộc sống thường nhật của xã
hội. Và ở vào những khoảnh khắc như thế,
dường như mối quan hoài xứ Bắc, niềm
nhung nhớ Thăng Long và quê cũ dưới
62
chân núi Hồng luôn thôi thúc ông, khiến
ông tâm dạ chẳng lúc nào được yên:
Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng,
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường.
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt,
Lục âm trùng điệp bất di quang.
(Ngẫu hứng, kỳ 2)
(Hoa lau chớm trắng, hoa cúc chớm
vàng/ Lòng nhớ quê hương ngàn dặm, đêm
cũng dài dằng dặc/ Gắng dậy mở cửa sổ
xem trăng sáng/ Bóng râm lớp lớp không
để lọt tia sáng nào).23
Làm quan với một tâm trạng buồn
nản, chán trường, Nguyễn Du tự cảm thấy
như mình đang bị cầm tù. Ông hướng lòng
mình lên với trời cao, nhìn đám mây trăng
bay tự do mà cảm khái cho cá nhân mình.
Lời thơ chất chứa mối sầu bi của một cái
tôi trữ tình vẻ như muốn lại như thôi tìm
về những ngày tháng cũ hay một không
gian khác với thực tại, gần đấy mà cũng xa
tít tắp:
Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu,
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.
Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thị khách,
Bạch vân hồng thụ bất thăng thu.
Thử thân dĩ tác phàn lung vật,
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du?...
(Tân thu ngẫu hứng)
(Nằm ở Giang thành chốc đã ba năm
tròn/ Trông về phía bắc quê nhà ở tận cuối
trời/ Ở Nhật Lệ hay Cẩm Sơn mình vẫn là
khách/ Đám mây trắng, chòm mây đỏ, bao
xiết vẻ thu/ Thân này đã là vật trong lồng
cũi/ Còn tìm đâu được cuộc đời phóng
khoáng tự do nữa - Đầu mùa thu ngẫu
hứng).24
Làm quan mà với một tâm trạng “lạc
loài” như thế, hẳn nhiên Nguyễn Du không
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của một viên
quan từ cái nhìn chính thống. Lẽ đó mà ông
bị quan trên quở mắng cũng là điều dễ
hiểu: “Khi làm quan, ông thường bị quan
trên quở trách, nên lấy làm uất ức bực
chí”.25 Đã có lúc, có chỗ thi nhân tìm đến
Đạo, tìm đến Phật nhưng tất cả cứ nửa vời
bởi ông chưa bao giờ nguôi quên tục lụy.
Vả có tìm đến những cái thú tao nhã của
nho sĩ như uống rượu, ngâm thơ, ngắm
cảnh, thưởng ngoạn thiên nhiên nhưng
chưa bao giờ thi hào đi được đến tận cùng
của những xúc cảm như thế. Hứng thú về
cái nhàn để được hoà mình vào trăng trong,
gió mát, được nằm khểnh giữa chốn rừng
thông nghe tiếng vi vu gọi nguồn cứ chen
lẫn với nỗi niềm rưng rưng của một kẻ sĩ
già yếu, tóc bạc, lữ thứ, đau ốm, vô dụng
và bao nhiêu những sầu bi khác ùa đến.
Khảo sát hai tập thơ “Nam trung tạp ngâm”
và “Bắc hành tạp lục”, chúng tôi thấy chỉ
có 04 bài Nguyễn Du nhắc tới chữ nhàn
nhưng cả bốn trường hợp chủ thể trữ tình
đều không có được sự thảnh thơi theo đúng
nghĩa. Đó là các bài Thu chí (Thu đến), Dã
tọa (Đêm ngồi), Tống Ngô Nhữ Sơn công
xuất trấn Nghệ An (Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn
ra làm Hiệp trấn Nghệ An) và Quế Lâm
công quán (Công quán Quế Lâm). Một số
bài khác, thi nhân không trực tiếp nhắc tới
chữ nhàn mà gửi gắm niềm cảm hứng của
mình tới cỏ cây, phong cảnh trên những
nẻo đường mà Nguyễn Du có dịp đi qua:
Thiên Thai sơn tại đế thành đông,
Cách nhất điều giang tự bất thông.
Cổ tự thu mai hoàng diệp lý,
Tiên triều tăng lão bạch vân trung.
Khả liên bạch phát cung khu dịch,
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung.
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo,
Cảnh hưng do quải cựu thời chung.
(Vọng Thiên Thai tự)
(Núi Thiên Thai ở phía đông kinh
thành/ Cách một dòng sông tựa hồ không có
lối qua/ Mùa thu, ngôi chùa cổ lấp dưới lá
63
vàng/ Vị sư triều trước già trong mây trắng/
Thương mình đầu bạc còn phải lận đận/
Không được cùng núi xanh trọng nghĩa thủy
chung/ Nhớ lại năm trước từng đến thăm
đây/ Còn thấy treo quả chuông thời Cảnh
Hưng - Trông chùa Thiên Thai).26
Chỗ khác, trên đường đi sứ, một đêm
đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang, ngẫm
về một hành trình đầy mỏi mệt của mình
(làm quan từ năm 1802 đến năm 1813),
giữa chốn sông nước, núi non, dường như
niềm xúc cảm, tinh thần của thi nhân đã ít
nhiều chạm được tới cái huyền vi của triết
lý thoát tục:
Viên đề thụ điểu nhược vô lộ,
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân.
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão,
Đồng chu Hồ Việt các tương thân.
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ,
Ná đắc gia hương nhập mộng tần?
(Tam Giang khẩu đường dạ bạc)
( Vượn hót ngọn cây, tưởng không
có lối đi/ Chó sủa trong rừng, biết có
người/ Bốn mặt núi mây, riêng thấy mình
già/ Đi cùng thuyền kẻ Hồ người Việt đều
thân nhau/ Mười năm nay quên đường về
làng cũ/ Làm sao cố hương thường vào
được giấc mộng? - Đêm đậu thuyền ở cửa
sông Tam Giang).
27
Chỉ có điều, với thi hào, dường như
chưa bao giờ ông muốn trở thành một kẻ tu
hành với đúng nghĩa của nó. Tình cảm ấy,
tấm lòng ấy thì dù có đặt chân vào chốn
thiền viện thì thi nhân, sớm hay muộn cũng
“phá giới” mà thôi. Nguyễn Du chỉ tìm đến
Phật như một giải pháp tạm thời trong
trạng huống cụ thể nào đó để xoa dịu vết
thương lòng, để “ru mình” giữa cõi đời
loạn ly lúc bấy giờ chứ bản thân ông từng
thú nhận, dầu có đọc kinh nghìn lượt thì
cũng chả có gì rõ ràng cả, tất nhiên không
phải ở nhận thực của người đọc kinh rồi:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh.
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ,
Tài tri vô tự thị chân kinh.
(Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh
thạch đài)
(Ta đọc kinh Kim Cương hàng nghìn
lượt/ Những ý nghĩa gọi là sâu xa trong đó
phần nhiều không rõ ràng/ Khi đến dưới đài
phân kinh này/ Mới biết kinh “không chữ”
mới thật là chân kinh - Đài đá “Phân kinh”
của thái tử Chiêu Minh đời Lương).28
4. Kết luận
Trở lên, có thể khẳng định rằng, nội
dung cảm hứng trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du rất đa dạng, phong phú, ít nhiều phức
tạp mà trong đó cảm hứng về cái nhàn hay
cảm hứng nhàn tản là một biểu hiện đáng
quan tâm. Có lẽ, điểm phân định cũng như
dấu ấn riêng của thi hào ở hướng này trong
dòng thơ ca nhàn tản trung đại chính nỗi
niềm thân phận, những trở trăn day dứt về
cuộc đời, con người nói chung trong xã hội
đương thời chưa bao giờ “buông tha” ông,
khiến cho mỗi lời thơ cất lên là một xúc
cảm nghẹn ngào, dưng dưng. Và, nếu như
với nhiều nho sĩ khác, sự trăn trở, kể cả lồ
lộ “Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”
(Nguyễn Trãi) hay ẩn giấu “Nghĩ ra lại
thẹn với ông Đào” (Nguyễn Khuyến) đâu
đó còn là chức năng phận vị của những con
người ý thức cao về tài năng và tâm huyết
với chính sự, với thời cuộc mà đành bó gối
khoanh tay thì với đại thi hào, cảm xúc ấy,
nỗi niềm ấy chả những trượt qua những gì
được coi là cụ thể mà còn thể hiện biết bao
tình cảm lớn, hướng về cuộc đời, con
người nhân loại. Đó là chỗ Nguyễn Du ghi
một cái tên trên dòng chảy thi ca trung đại
nói riêng, thi ca dân tộc nói chung để chưa
cần đến bản “Nam âm tuyệt cú” thì ông đã
mãi mãi bất tử trong trái tim độc giả muôn
64
đời; nơi tìm đến, hướng về, sẻ chia biết bao
cảnh ngộ nhân sinh trong cõi vô thường./.
Ghi chú:
1
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.93.
2
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.230.
3
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.195.
4
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.222.
5
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.229.
6
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.73.
7
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.211.
8
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.323.
9
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.254.
10
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.431.
11
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.117.
12
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.127.
13
Xin xem thêm phần viết của chúng tôi trong
sách: Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung
đại Việt Nam, chuyên luận, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2013, tr.43-62.
14
Xin xem thêm bài viết của chúng tôi: “Nhận
diện loại hình tác giả nhàn tản trong văn học
trung đại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa
học xã hội, số 11/2014, tr.11-18.
15
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.76.
16
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.95.
17
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.117.
18
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.138.
19
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.146.
20
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.150.
21
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.158.
22
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.151.
23
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.181. Về nội
dung này, xin xem thêm các bài viết sau:
- Thăng Long và Hà Tĩnh trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du, nguồn:
cuu/thang_long_va_ha_tinh_trong_tho_chu_h
an_nguyen_du.html
- Thành Thăng Long trước thế kỷ XIX trong
thơ Nguyễn Du, nguồn:
cuu/thanh_thang_long_truoc_the_ky_xix_tron
g_tho_nguyen_du.html
- Thăng Long với hồn thơ của chú cháu
Nguyễn Du, nguồn:
hang_long_voi_hon_tho_cua_chu_chau_nguy
en_du.html
- Xuân tha hương trong thơ chữ Hán của thi
hào Nguyễn Du, tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh
Ba, nguồn:
binhluan/xuanthahuongnguyendu.htm
24
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.187.
25
Dẫn theo Trương Chính, “Lời giới thiệu”, Thơ
chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.33.
26
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.201.
27
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.250.
28
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.425.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huệ Chi (1965), “Tìm hiểu thơ chữ
Hán Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học, số 11,
tr.48.
2. Trương Chính (1965), “Lời giới thiệu”, Thơ
chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội,
tr.7-43.
3. Trương Chính (1999), “Tâm sự của Nguyễn
Du qua thơ chữ Hán”, Nguyễn Du về tác gia
và tác phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn
Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu,
tái bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 89-
111.
4. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt
Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (1999),
Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh
tuyển chọn và giới thiệu, tái bản lần 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1999.
6. Lê Đình Kỵ (1971), “Nguyễn Du qua thơ chữ
Hán”, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Vũ Đình Liên (1971), “Nguyễn Du một tâm
hồn lạc loài trong xã hội phong kiến”, Tạp chí
Văn học, (2), tr.69.
8. Mai Quốc Liên (1999), “Thơ chữ Hán
Nguyễn Du”, Nguyễn Du về tác gia và tác
phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu
Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, tái
bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.120-131.
9. Nguyễn Thị Nương (2007), Con người
Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi
tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục),
Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
65
10. Đào Xuân Quí, “Nguyễn Du trong những bài
thơ chữ Hán”, Báo Văn nghệ, (237), tr.5.
11. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Thơ chữ Hán
Nguyễn Du - từ cõi hư vô nhìn lại kiếp người”,
Phụ bản Thơ, Báo Văn nghệ, (26), tr.7.
12. Lê Văn Tấn (2013), “Loại hình tác giả nhà
nho ẩn dật trong văn học trung đại Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.43-58.
13. Lê Văn Tấn (2014), “Nhận diện loại hình tác
giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt
Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số
11, tr.11.
14. Lê Văn Tấn (2015), “Hình tượng dật sĩ trong
văn chương tác giả nhà nho ẩn dật”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, (5), tr.95-103.
15. Lê Văn Tấn (2015), “Nhận diện loại hình tác
giả nhà nho hành đạo trong văn học trung đại
Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội, Tp. Hồ
Chí Minh, (chờ in).
16. Hoài Thanh (1962), “Tâm tình Nguyễn Du
qua một số bài thơ chữ Hán”, Tạp chí Văn
nghệ, số 58, tr.16.
Ngày nhận bài: 11/11/2016 Biên tập xong: 15/12/2016 Duyệt đăng: 20/12/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 152_8006_2215204.pdf