Tài liệu Cái nhìn nhân bản của Nguyễn Minh Châu về hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn sau năm 1975: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017
61
Cái nhìn nhân bản của Nguyễn Minh Châu
về hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn sau năm 1975
Nguyen Minh Chau’s humane view on the reality of war in short stories after 1975
TS. Nguyễn Diệu Linh,
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên
Nguyen Dieu Linh, Ph.D.,
University of Sciences – Thai Nguyen University
Tóm tắt
Nhìn lại chặng đường sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1975, có thể dễ dàng nhận
thấy sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Nếu như ở giai đoạn trước năm 1975, Nguyễn
Minh Châu nhìn nhận, đánh giá chiến tranh thông qua các sự kiện, biến cố mang tầm vóc lịch sử và
thời đại, thì đến giai đoạn sau 1975 nhà văn lại nhìn nhận chiến tranh từ tiêu điểm con người. Trong
đó, ông đi sâu khám phá những tính cách, số phận và cả những nỗi đau riêng của từng cá nhân. Nhà
văn thể hiện rất rõ cái nhìn nhân bản đối với các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó có...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 743 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cái nhìn nhân bản của Nguyễn Minh Châu về hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn sau năm 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017
61
Cái nhìn nhân bản của Nguyễn Minh Châu
về hiện thực chiến tranh trong truyện ngắn sau năm 1975
Nguyen Minh Chau’s humane view on the reality of war in short stories after 1975
TS. Nguyễn Diệu Linh,
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên
Nguyen Dieu Linh, Ph.D.,
University of Sciences – Thai Nguyen University
Tóm tắt
Nhìn lại chặng đường sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1975, có thể dễ dàng nhận
thấy sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Nếu như ở giai đoạn trước năm 1975, Nguyễn
Minh Châu nhìn nhận, đánh giá chiến tranh thông qua các sự kiện, biến cố mang tầm vóc lịch sử và
thời đại, thì đến giai đoạn sau 1975 nhà văn lại nhìn nhận chiến tranh từ tiêu điểm con người. Trong
đó, ông đi sâu khám phá những tính cách, số phận và cả những nỗi đau riêng của từng cá nhân. Nhà
văn thể hiện rất rõ cái nhìn nhân bản đối với các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề hiện
thực chiến tranh.
Từ khóa: Nguyễn Minh Châu, cái nhìn nhân bản, hiện thực chiến tranh.
Abstract
Looking back on Nguyen Minh Chau’s compositions before and after 1975, it is easy to see the
innovation of the writer's artistic thinking. Before 1975, Nguyen Minh Chau recognized and assessed
the war through incidents and events bearing historical and contemporary stature, then in the post-1975
period, the writer saw the war with human focus, on which he has deeply explored personality, fate and
personal pain of each individual. The writer has clearly showed his humane view on issues of social life,
including issues of the reality of war.
Keywords: Nguyen Minh Chau, humane view, the reality of war.
1.
1.1. Sự tàn khốc và nghiệt ngã của
chiến tranh
Sau giai đoạn đổi mới, với khẩu hiệu:
“Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”, một số nhà văn đã nhận
thức lại nhiều vấn đề của chiến tranh. Là
một nhà văn - chiến sĩ, từng chứng kiến và
tham gia vào những thời khắc ác liệt nhất
của cuộc chiến, Nguyễn Minh Châu đã tái
hiện lại bức tranh khốc liệt ấy c ng những
số phận éo le, bi kịch một cách sâu sắc và
da diết. Qua những tác phẩm của mình,
Nguyễn Minh Châu đã đưa ra cách nhìn
nhận mới mẻ về chiến tranh, về những “di
chứng” của chiến tranh đối với con người.
Chiến tranh đã l i xa, nhưng không hề phai
mờ trong ký ức của nhà văn. Ông đã nhìn
nó với nhiều chiều kích khác nhau. Sự tàn
khốc dai dẳng và dữ dội của chiến tranh
được tái hiện đúng như những gì nó đã
CÁI NHÌN NHÂN BẢN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VỀ HI N THỰC CHIẾN TRANH
62
diễn ra. Hiện thực ấy có khi là những chiến
công vang dội, nhưng cũng có khi là những
tổn thất trên nhiều mặt của đời sống xã hội,
nhưng bi kịch nhất là trên phương diện tình
yêu. Nguyễn Minh Châu đã đáp ứng được
nhu cầu sâu thẳm của bạn đọc cũng như
của chính người cầm bút khi nhìn thẳng
vào những nỗi đau mà chiến tranh đem lại
cho con người.
Qùy - nữ nhân vật chính trong Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành có cả một
lịch sử tình trường dài dằng dặc và đẹp như
mơ bên những cánh rừng Trường Sơn trải
đầy bom đạn. Nhưng niềm khát khao đi
kiếm tìm sự hoàn mỹ và “thánh nhân” giữa
cuộc đời đã khiến Q y trở thành “một con
chim mất bạn, núp vào xó nhà...chưa bao
giờ cảm thấy lẻ loi cô độc như vậy...” [2,
tr.160]. Chị chỉ còn là “cái xác, hai con mắt
sâu hoắm, thăm thẳm” [2, tr.160], đến nỗi
“không khóc được, hai con mắt và cả người
như bị vắt kiệt hết nước” [2, tr.160]. Và sự
day dứt, đau khổ, hối lỗi, hoang tưởng của
tình yêu đổ vỡ đã ám ảnh dai dẳng suốt cả
cuộc đời Quỳ. Chiến tranh đã không cho
Q y cơ hội để được “tắm mình” trong
những phút giây hạnh phúc và yêu đương
thật sự, theo đúng nghĩa của tình yêu. Quỳ
đã cống hiến hết mình cho những năm tháng
tuổi trẻ nơi chiến trường. Chị nhìn thấy sự
khốc liệt của chiến tranh đã đè nát cuộc đời
của những người quanh chị. Quỳ đã bước
qua bom đạn, bước ra từ chiến tranh, tường
chừng đó là chiến thắng, nhưng suốt phần
đời còn lại chị phải mang bi kịch do chiến
tranh để lại. Những tổn thương đã khắc sâu
và hằn vết trong trái tim người đàn bà đa
cảm, khiến Q y trở thành một “bệnh nhân
tâm thần” với căn bệnh mộng du. Đôi khi
những vết thương tinh thần còn đau đớn và
dai dẳng hơn gấp nhiều lần vết thương trên
thân thể. Và Q y đã phải chấp nhận nó, như
một sự đày đọa của chiến tranh lên con
người nhỏ bé của cô.
Khác với Q y, nhân vật Hạnh trong
Bên đường chiến tranh lại có một mối
tình đầu thầm lặng mà sâu sắc. Chiến tranh
đã đưa Thụy đến bên cuộc đời Hạnh.
Nhưng cũng chính chiến tranh đã khiến họ
phải xa nhau quá nửa đời người. D sự gặp
gỡ ấy thỏa lòng mong mỏi của hai người,
nhưng không thể giúp họ trở về sống bên
nhau. Cuối truyện, sau khi gặp được Thụy,
Hạnh yên tâm theo chồng đi nơi khác và
nhường lại ngôi nhà của mình cho bộ đội.
Tình yêu đã giúp cho không khí chiến
tranh bớt đi sự ngột ngạt, nhưng nó lại
càng làm rõ hơn sự tàn nhẫn của cuộc
chiến, khắc sâu hơn nỗi đau mà họ phải
gánh chịu. Chiến tranh đã đẩy họ xuống
vực sâu của sự mất mát và tổn thương,
khiến “bi kịch tình yêu” đeo bám tâm hồn
những con người ấy đến hết cuộc đời.
Sự khốc liệt và nghiệt ngã của chiến
tranh không chỉ hằn lên số phận những con
người đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào cuộc chiến mà còn được Nguyễn Minh
Châu miêu tả qua những cảnh tượng đổ nát,
hoang tàn của cảnh vật, thiên nhiên một
cách chân thực mà vô c ng khủng khiếp.
Đặc biệt là mảnh đất miền Trung nghèo đói,
xác xơ trong Cỏ lau với “cái thị xã
Quảng Trị này chiến sự chà đi xát lại
mấy phen, đến một nửa hòn gạch nguyên
lành cũng chẳng thấy, giá còn thì cũng
không nằm ở chỗ nhà cũ”, “nhà cửa, phố xá
chỉ còn một đống gạch vỡ cho cỏ lau mọc”
[2, tr.460]. Hình ảnh điêu tàn của mảnh đất
miền Trung trong Miền cháy sau những
ngày tháng bom đạn đã gieo vào lòng người
đọc nỗi xót xa, thương cảm. Trên mảnh đất
ấy, là những cảnh chia ly, mất mát, là những
người mẹ, người vợchờ đợi người thân
trong vô vọng mỏi mòn.
NGUYỄN DI U LINH
63
Và sự tàn phá của chiến tranh cũng
được miêu tả qua cái nhìn của Q y:
“trong các làng xóm vẫn còn tiêu điều
và nát như tương Sau trận tàn phá của
bom đạn Mỹ như nạn hồng thủy vừa tràn
qua, cuộc sống của con người y như vừa
mới bắt đầu” (Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành) [2, tr.187]. Ngay đến cả ngôi
đền linh thiêng nhất làng Thơi cũng bị
“đánh bom nhiều đợt chỉ còn một hàng bậc
thềm xây đá Thanh” [2, tr.376].
Từ cái nhìn về hiện thực chiến tranh
mang tính chất khám phá, phát hiện, có
chiều sâu, Nguyễn Minh Châu muốn phê
phán cái nhìn lãng mạn, một chiều về cuộc
sống. Nhà văn đặt ra vấn đề trách nhiệm
của người nghệ sĩ, của nghệ thuật phải đào
sâu, phải phản ánh chân thực cuộc sống, d
thực tế ấy gai góc, x xì, quá phũ phàng,
bất công, ngang trái. Đó chính là tư tưởng
nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua
từng trang viết.
1.2. Sự xuống cấp đạo đức của con
người trong chiến tranh
Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã
khai thác hình tượng người lính ở nhiều
bình diện khác nhau. Đặc biệt là ở trạng
thái tâm lý và nhân cách đạo đức. Bên cạnh
việc miêu tả những con người có lối sống
trong sáng, có nhân cách, có ý chí, thể hiện
niềm tin yêu của tác giả đối với thế hệ trẻ,
thì vẫn còn đó những con người có lối sống
tham lam, vị kỷ, biến chất, tha hoá nhân
cách vì mải mê chạy theo chủ nghĩa vật
chất, chủ nghĩa danh lợi “con người vì cái
lợi vật chất đang hèn đi, tầm thường đi”
(Ma Văn Kháng). Nhà văn đã mạnh dạn đề
cập đến những con người “rắn rết” trong
hình dạng “rồng phượng”, là khuôn mặt
“thiên thần” trong một tâm hồn “ác
quỷ”, những con người chịu sự tác động
tiêu cực của chiến tranh lên tính cách và số
phận, trong: Bức tranh, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau và Mùa trái
cóc ở miền Nam. Đồng thời, nhà văn đã
không ngần ngại thẳng thắn vạch trần bộ
mặt đạo đức giả, sự vô ơn bội nghĩa, sự tha
hóa của những người lính đã không giữ
được nhân phẩm của mình. Chiến tranh đã
sàng lọc phẩm giá con người đến mức đau
xót. Chiến tranh cũng đã phanh phui đến
trần trụi những sai lầm không chỉ của
người lính mà còn của cả một số vị lãnh
đạo chỉ huy của ta trong quân đội. Đây là
điều nhạy cảm mà chưa một nhà văn nào
c ng thời với Nguyễn Minh Châu nhắc đến
trong những sáng tác của mình.
Ngọn lửa chiến tranh đã giúp người
đọc nhìn nhận và đánh giá đâu là những
phẩm chất tốt đẹp, anh h ng, đâu là sự hèn
nhát, đố kỵ, hám lợi của con người. Ngay
cả những nhân vật được nhà văn tôn vinh
như những anh h ng vẫn có những khuyết
điểm thậm chí tầm thường, đốn mạt Mới
hôm qua có thể họ sẵn sàng hy sinh bản
thân cho lý tưởng cao đẹp, sát cánh c ng
đồng đội, nhưng hôm nay khi được phong
chức tước, quân hàm thì họ trở nên cao
ngạo, tự mãn, thậm chí có những hành
động chỉ huy hết sức sai lầm, để rồi phải
trả giá bằng cả mạng sống và cuộc đời của
những người lính khác.
Toàn trong Mùa trái cóc ở miền Nam
là một nhân vật như thế. Toàn được miêu
tả là một tay tiểu đoàn trưởng bạc bẽo, lạnh
l ng, ham hố quyền lực, địa vị Sau khi
chiếm được căn cứ “con nhím” của địch,
Toàn đã vin vào kỷ luật quân đội biến
người lính anh h ng thành những người t
khổ sai. Toàn bắt anh em trong tiểu đoàn
“dầm mưa” luyện tập “đi đều” và hát
những bài hát ca ngợi người lính. Sự cứng
nhắc trong suy nghĩ lãnh đạo và sự lạnh
l ng của một “bàn tay sắt” đã biến những
CÁI NHÌN NHÂN BẢN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VỀ HI N THỰC CHIẾN TRANH
64
người từng sát cánh bên Toàn trở thành
những cỗ máy biết nói và thật nực cười. Sự
nhẫn tâm lên đến đỉnh điểm trong cách chỉ
huy sai lầm của Toàn là cái chết thương
tâm của Phác - người anh em, người đồng
đội đã vào sinh ra tử với anh. Cũng chính
vì địa vị quyền lực, Toàn đã tỏ ra thờ ơ,
lạnh nhạt với mẹ ruột vì hắn muốn mình có
một bản “lý lịch trong sạch” để thuận lợi
trên con đường thăng quan tiến chức. Đến
lúc này, Nguyễn Minh Châu không thể kìm
nén nổi thái độ căm ghét mà phải thốt lên
rằng: “Lâu nay mình chỉ sống với người,
chỉ biết sống với người, với thần thánh, thì
bây giờ hãy sống với quỷ, hãy chạm chén
với quỷ, quỷ già đời quỷ mới tập sự”
[2, tr.557] Đây cũng là một hiện thực
đau lòng tồn tại ngay trong hàng ngũ cách
mạng mà Nguyễn Minh Châu đã mạnh dạn
phanh phui trên trang giấy.
Đó còn là hình ảnh của Quang trong
Cơn giông. Vì ham muốn quyền lực, muốn
được thỏa mãn những nhu cầu “dung tục
thường ngày”, không chịu được cảnh thiếu
thốn khi phải “ăn rau tàu bay, ăn củ đoác,
uống nước suối để duy trì chiến đấu”
[2, tr.227], Quang đã chạy sang hàng ngũ
địch, trở thành kẻ phản bội Tổ quốc. Thông
qua Cơn giông, Nguyễn Minh Châu muốn
nêu lên một thực trạng, người chiến sĩ cách
mạng d chân chính đến đâu cũng có thể
đánh mất mình, bị những lợi lộc, ham muốn
tầm thường làm lu mờ lương tâm, phẩm
chất, nhân cách nếu không có một tinh thần
tỉnh táo, sự kiên định và lòng quả cảm.
Hòa - một Trung đoàn trưởng trong
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
tuy là một người chỉ huy tài năng trong
quân sự, nhạy bén trong chiến lược, am hiểu
binh pháp với những trận đánh thần thánh,
vang dội và được tôn vinh như một người
anh hùng, nhưng cũng có những khiếm
khuyết trên cơ thể, thậm chí là cả những nhu
cầu cá nhân tầm thường, ích kỷ. Anh “cũng
mừng rỡ hí hửng khi được thăng cấp
cũng chăn một đàn gà riêng, đánh một cái
quần xà lỏn đi phát rẫy, cũng yêu người
này, nói xấu sau lưng người kia” và đặc biệt
là “có mồ hôi tay, hai bàn tay lúc nào cũng
dấp dính” [2, tr.152]. Ngay đến chính bản
thân Quỳ là một người đàn bà hoàn hảo, đẹp
về mọi mặt: thể xác, tâm hồn, tài năng, đức
hạnh nhưng cũng mắc không ít sai lầm,
nhất là trong tình yêu với Hòa.
Trong Cỏ lau, Lực - một phó chính ủy
kiên trung, anh dũng cũng có những phút
tầm thường. Chỉ vì sự ích kỷ, nhỏ nhen với
một chút tư th cá nhân mà anh đã đẩy
người lính vào chỗ chết. Không những thế,
Lực luôn muốn che đậy những sai lầm khi
chỉ huy trận đánh: “Trong khi chuẩn bị
trận đánh, tôi chỉ hạ lệnh mà không kiểm
tra, và nhát sợ chết trong một lúc trận
đánh quá ác liệt, đã để cho xe tăng địch
khống chế được bãi tha ma, khi mà chúng
ồ ạt phản kích vào lúc nửa đêm”. Sự thiếu
trách nhiệm, “hục hặc, đòn phép, thậm chí
là kèn cựa địa vị” [2, tr.152] đã dẫn đến sự
hy sinh, đổ máu vô nghĩa của những người
lính trẻ. Nguyễn Minh Châu đã cay đắng
nhận rằng: “chiến tranh làm con người ta
hư hơn là làm cho người ta tốt hơn”
[2, tr.504]. Chiến tranh đã ném con người
vào vòng thử thách phẩm giá hết sức nghiệt
ngã, nhưng nó cũng dạy cho mỗi người biết
hối lỗi và nhìn ra sai lầm.
2. K ám p á ỗ đ ị l
số ủ ữ ờ ậ
Phản ánh nỗi đau riêng của từng con
người cá nhân có ý nghĩa sâu sắc và đậm
tính nhân văn. Nguyễn Minh Châu đã khắc
họa những bi kịch ấy một cách chân thực,
không tô vẽ, gượng ép. Với cái nhìn nhân
bản, nhà văn đã thấy được miền đất mới
NGUYỄN DI U LINH
65
mà mình cần đi đến và khám phá. Bằng sự
đổi mới “thầm lặng” của một cây bút mẫn
cảm với đời và tràn đầy tình yêu thương
con người, Nguyễn Minh Châu đã kéo gần
khoảng cách giữa nhân vật văn học với
hiện thực cuộc sống, đưa văn học Việt
Nam tới chân trời của những cách tân và
đổi mới trong tư duy nghệ thuật.
2.1. Số phận của những người lính
chịu nhiều bất hạnh
Văn học kháng chiến đã xây dựng hình
ảnh những người lính hiên ngang trước đầu
đạn quân th . Họ luôn mang trong mình vẻ
đẹp lý tưởng, đại diện cho sức mạnh và ý
chí của cả cộng đồng. Chiến tranh qua đi,
người lính hạnh phúc đón nhận sự tự do,
được rời tay súng với niềm tin về một cuộc
sống với những trọng trách lớn lao và mới
mẻ: kiến thiết và xây dựng đất nước. Thế
nhưng, chưa hưởng hết niềm vui bất tận
của chiến thắng, người lính đã bừng tỉnh và
hụt hẫng bởi những khắc nghiệt, những lo
toan của cuộc sống thường ngày. Họ chao
đảo giữa cuộc đời và nỗi đau đầu tiên đến
với họ, chính là bi kịch “lạc thời”. Họ như
đứng ngoài xã hội, cô đơn giữa đồng loại
và lạc lõng trước cuộc sống mới. Ngày nào
những người lính còn sục sôi khí thế lên
đường tham gia chiến đấu bảo vệ từng mái
nhà, và cả những người họ yêu thương, thì
trong khoảnh khắc của sự trở về, những
người lính lại cảm thấy bơ vơ trên chính
mảnh đất từng thấm máu của mình, trong
chính gia đình mà họ đã cất bước ra đi. Họ
thành kẻ trắng tay khi mất đi tất cả: gia
đình, vợ con, người yêu, bè bạnNếu
trong chiến tranh, người lính có thể giải
quyết mọi vấn đề một cách công minh và
sòng phẳng thì trong thời bình, họ lại lúng
túng trong việc ứng xử với các mối quan hệ
xã hội đầy phức tạp. Nguyễn Minh Châu
luôn trăn trở với số phận của những con
người sau chiến tranh. Họ hòa nhập vào
cuộc sống thường nhật với vô vàn những
mất mát, đớn đau.
Chúng ta đều biết rằng “chiến tranh
đâu phải trò đùa”. Đó là chân lí, bởi chiến
tranh đã gây nên tội ác, những vết thương
không thể hàn gắn. Cuộc đời và số phận
của anh lính Lực trong truyện ngắn Cỏ lau
thật nghiệt ngã, trớ trêu. Bước vào cuộc
chiến, Lực mới là một thanh niên ngoài hai
mươi tuổi, còn khi trở về anh đã ngoài bốn
mươi. Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, hạnh
phúc lứa đôi và xót xa hơn, nó đã để lại
trong anh một nỗi đau, một vết thương tinh
thần không thể lành. Anh đã dằn vặt trong
sự đau đớn mà nghĩ rằng “Hai mươi bốn
năm, cả tôi và Thai đều đã già. Chúng tôi
đánh mất nhau suốt cả một thời trẻ tuổi,
nhưng trừ phi kẻ sống người chết, bây giờ
gặp nhau chúng tôi không thể nào quen
được trông thấy mỗi người có một cuộc đời
khác. Chúng tôi vẫn còn yêu nhau. Tôi
không dám nghĩ đến ngày mai Thai lại trở
về với gia đình. Tôi biết rằng chỉ có người
đàn bà đang đi bên cạnh, giữa đáy con
sông khô này mới có thể xoa dịu bao nhiêu
vết thương mà chiến tranh đã để lại trong
lòng tôi” [2, tr.517]. Lực trở về quê hương
sau chiến tranh để nối lại cuộc sống hạnh
phúc xưa, nhưng rốt cục lại trở thành người
thừa ngay trong chính ngôi nhà của mình.
Chiến tranh như “một nhát dao phạt
ngang” khiến cuộc đời Lực trở nên dang
dở. Số phận của Lực tiêu biểu cho biết bao
người lính trở về hậu phương phải chịu
cảnh mất người yêu, mất vợ, mất gia đình.
Nhưng không vì thế mà người lính xưa
chạy trốn số phận, anh đã dũng cảm đối
mặt với sự thật nghiệt ngã ấy. Dường như
Nguyễn Minh Châu chưa bao giờ mất đi
niềm tin vào những người lính. Vì thế mà
“Cái làm nên sự hấp dẫn của câu chuyện
CÁI NHÌN NHÂN BẢN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VỀ HI N THỰC CHIẾN TRANH
66
trong Cỏ lau không phải là việc khắc phục
khó khăn, rắc rối trong khi đi tìm mộ các
chiến sĩ đã hy sinh ở chiến trường Quảng
Trị, mà là câu chuyện đôi vợ chồng vì
chiến tranh phải tan vỡ hạnh phúc, chuyện
về thân phận những người đã trải qua hai
cuộc chiến tranh, những hi sinh mất mát
của những người trẻ tuổi chiến đấu cho
độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc, tự do của
nhân dân” [7, tr.219].
Những cô thanh niên xung phong trực
tiếp tham gia chiến đấu trên các cánh rừng
Trường Sơn như Q y (Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành) có số phận đau đớn
với một chuỗi bi kịch trong tình yêu. Tạo
hóa đã ưu ái cho Quỳ vẻ đẹp từ khuôn mặt
đến dáng dấp, làm chết đứng bao chàng trai
nơi chiến trường. Và cũng thật trớ trêu khi
Q y bước vào tình yêu - sự khởi nguồn của
hạnh phúc và cả những khổ đau, tê tái. Khi
yêu, có lúc chị mãnh mẽ, quyết liệt, sẵn
sàng “vừa van lạy như một con nô lệ vừa
rút súng K54 ra dạo” [2, tr.151], nhưng
cũng lại có những phút giây chị trốn chạy,
nhẫn tâm bỏ rơi người mà mình yêu tha
thiết. Và cũng chính tình yêu đã khiến cuộc
đời chị rơi vào những cơn mộng du triền
miên, không dứt. Sống trong cuộc đời mới
nhưng Quỳ lại chìm đắm trong hoài niệm,
quá khứ với sự cô đơn hối tiếc khôn nguôi.
Thế nhưng, nhờ có tình yêu của Hòa, của
Hậu, của Ph mà Quỳ đã không đánh mất
chính mình, không làm mờ đi phẩm chất
cao đẹp của một người lính cũng như phẩm
hạnh của một người phụ nữ mẫu mực.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng ngọn lửa
nhiệt thành và nỗi đau của những người
lính thì còn mãi. Nguyễn Minh Châu đã đề
cập tới số phận người lính ở nhiều khía
cạnh và bình diện khác nhau. Cái nhìn về
bi kịch của những con người hậu chiến
mang âm hưởng của nỗi đau, nỗi xót xa
không dứt. Những phẩm chất cao đẹp của
người lính giữa cuộc sống thường lại được
thử thách bởi những nghĩa vụ đời thường
diễn ra âm thầm nhưng vô c ng khốc liệt.
Nhà văn đã thể hiện sự trăn trở suy tư về số
phận của con người sau chiến tranh, khi họ
hòa nhập vào cuộc sống đời thường với
biết bao mất mát, đớn đau và thua thiệt.
Nhưng tựu chung lại, điều cốt lõi mà nhà
văn muốn cho chúng ta thấy được là sự
khắc nghiệt và những khó khăn trong cuộc
sống thực tại đã đẩy người lính đến “tấn bi
kịch” của số phận.
2.2. Những người phụ nữ vượt lên số
phận để sống đẹp
Bên cạnh những câu chuyện về số
phận người lính, Nguyễn Minh Châu còn
dành sự quan tâm đặc biệt tới người phụ nữ
với một sự cảm thông, thấu hiểu sâu sắc.
Nhà văn đã ghi dấu ngòi bút của mình qua
một loạt sáng tác viết về kiểu nhân vật này
với số lượng và nội dung khá dày dặn, như:
tiểu thuyết Những người đi từ trong rừng
ra (1982), tập truyện ngắn Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê
(1985), Cỏ lau (1989) Với các câu
chuyện này, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu
vào những góc khuất, những bi kịch của
người phụ nữ trong và sau chiến tranh.
Thông qua “những lát cắt của hiện thực”,
nhà văn đã làm sáng lên phẩm giá tốt đẹp
của người phụ nữ ngay cả trong những thời
khắc khó khăn nhất của cuộc sống.
Những người phụ nữ nơi hậu chiến
suốt chặng đường dài chiến tranh đã chôn
v i tuổi thanh xuân trong cô đơn và đợi
chờ vô vọng. D trong hoàn cảnh chiến
tranh hay khi hòa bình lập lại, họ vẫn chấp
nhận và sẵn sàng trở thành “hòn vọng phu”
với “những hình người đàn bà bằng đá đầy
cô đơn giữa trời xanh” [2, tr.518]. Đó là
Thai trong Cỏ lau. Cũng giống như bao
NGUYỄN DI U LINH
67
người con gái khác, Thai ao ước có một
mái ấm gia đình và những đứa con. Chị kết
hôn với Lực, nhưng chưa đầy một tuần bên
nhau anh đã phải ra chiến trường và rồi
Thai đau đớn nhận nhầm cái xác trôi sông
là chồng mình. Nỗi đau ấy tưởng chừng đã
ngủ yên trong kí ức, khi Thai quyết định đi
bước nữa với Quảng, người đã hết lòng yêu
thương, tôn trọng và cho chị mái nhà yên
ấm. Nhưng trớ trêu thay, sau hai mươi bốn
năm xa cách, Lực quay trở về. Thai bị đặt
trong hoàn cảnh éo le khi phải đứng trước
sự lựa chọn giữa người cũ và kẻ mới: Lực,
người đàn ông duy nhất mà chị yêu suốt
đời và Quảng - người chồng mới với những
đứa con... Cuộc gặp gỡ với Lực đã trỗi dậy
trong chị tình yêu thời tuổi trẻ và dấy lên
niềm đau đớn, ân hận. Tận đáy lòng, chị
muốn b đắp và xoa dịu vết thương chiến
tranh đã để lại cho Lực: “Em sẽ van xin
anh ấy cho em được nuôi nấng mấy đứa
con em. Anh ấy thương cho thì được, bằng
không em cũng tay trắng trở về với anh.
Vớt vát mấy năm tuổi già, em sống với
anh” [2, tr.517]. Thế nhưng cuối cùng,
Thai vẫn không thể chối bỏ trách nhiệm và
thiên chức làm mẹ của một người đàn bà.
Số phận đã an bài, chị không dễ gì thay đổi
được hoàn cảnh và phải chấp nhận số phận
éo le của mình.
Loan trong Sống mãi với cây xanh
may mắn hơn Thai bởi trước khi chồng hy
sinh, đã kịp để lại cho cô một đứa con.
Loan đã kìm nén nỗi đau riêng để nuôi dạy
đứa con trai khôn lớn và dành cho con tất
cả tình yêu của một người mẹ, cũng là tình
yêu của một người cha. Chiến tranh đã
cướp Huân khỏi tay Loan nhưng suốt bao
năm sống trong cảnh mẹ góa con côi, cô
vẫn giữ trọn tình yêu thủy chung với
chồng, chấp nhận cuộc sống cô đơn đến
cuối đời và hy vọng vào một ngày mai tươi
sáng, bình yên.
Một trong những yếu tố quan trọng
giúp cho những người phụ nữ vượt lên sự
éo le của cuộc sống chính là chức năng
thiên bẩm: thiên chức làm mẹ. Nguyễn
Minh Châu viết về họ trong tư cách một
người mẹ với một thái độ đầy ưu ái. Q y
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành)
đã nói lên điều thiêng liêng này thật trân
trọng: “Tôi đã trông thấy, tất cả cái phần
sâu thẳm như một thiên phú riêng của tâm
hồn những người đàn bà chúng tôi: Đó là
bản năng chăm lo, bảo vệ lấy sự sống của
con người - do chính chúng tôi mang nặng
đẻ đau sinh ra. Đó là tình thương người
bẩm sinh của nữ tính - sợi dây thần kinh
đặc biệt nhạy cảm của nữ giới chúng tôi”
[2, tr.184].
Có thể nói, hình tượng người phụ nữ
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
sau năm 1975 luôn mang nét tính cách dịu
dàng, nhưng ẩn chứa bên trong một khát
khao sống mạnh mẽ và quyết liệt. Tất cả
họ: Q y, Loan, Hạnh, Thai đều là những
người đàn bà thủy chung, son sắc, tình yêu
của họ chỉ dành riêng cho một người. Tuy
cuộc đời họ trải qua những bi kịch, nhưng
ở bất cứ hoàn cảnh nào, nỗi đau nào họ vẫn
chọn cho mình một cách sống đẹp, đầy
niềm tin và lạc quan vào cuộc sống. Họ là
những người phụ nữ có sự chịu đựng, sự hi
sinh đầy cảm phục. Chính sự nhẫn nhịn ấy
làm đẹp thêm “thiên tính nữ” của những
người phụ nữ với bản tính tốt đẹp không dễ
gì bị thay đổi. Họ đã tự vươn lên thoát khỏi
hoàn cảnh éo le của cuộc sống, luôn giữ
trong mình đức hy sinh cao cả, lòng thủy
chung và giàu lòng yêu thương con người.
Qua những tác phẩm của mình,
Nguyễn Minh Châu đã khai thác tận c ng
nội tâm nhân vật với những bi kịch số phận
của mỗi người lính, mỗi người phụ nữ, để
CÁI NHÌN NHÂN BẢN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VỀ HI N THỰC CHIẾN TRANH
68
từ đó nhìn thấy rất nhiều vấn đề nổi cộm,
khẩn thiết mà trước đây văn học chưa nhìn
thấy và chưa dám động chạm tới. Nhà văn
cũng đã bộc lộ những nỗi day dứt về sự tha
hóa biến chất của con người bởi chiến
tranh. Chiến tranh có thể đem lại cho người
lính những chiến thắng vinh quang nhưng
nó cũng sẵn sàng lấy đi thiên lương và
phẩm giá cao cả của những người không
vững tâm trên con đường cách mạng mà họ
đã chọn và chiến đấu vì nó. Phải chăng nhà
văn đã ngộ ra rằng d là anh h ng thì vẫn
là con người, mà đã là con người thì không
thể không mắc sai lầm, không thể là thánh
nhân. Bằng thái độ nhìn thẳng, nói thật,
Nguyễn Minh Châu muốn nhấn mạnh sự
suy thoái đạo đức của con người sẽ là mầm
mống cho cái xấu, cái ác xuất hiện làm rối
xã hội nếu như nó không bị lên án, không
được tiêu diệt đến tận gốc rễ.
K
1. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam
1975 - 1995 những đổi mới cơ bản, Nxb
Giáo dục.
2. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện
ngắn, Nxb Văn học.
3. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước
đèn, Nxb Khoa Học Xã Hội, H.
4. Nguyễn Văn Công (2011), Những chuyển
biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, Luận văn
thạc sĩ văn học, Trường Đại học Sư phạm
Tp. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Chân dung các
nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Hoàn (Giới thiệu và tuyển
chọn) (2004), Nguyễn Minh Châu về tác giả
và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
7. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu tác phẩm và lời bình, Nxb
Văn học.
Ngày nhận bài: 20/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_7426_2215054.pdf