Tài liệu Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Trần Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 189 - 194
189
CÁCH TIẾP CẬN CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH LIÊN MINH CHÂU ÂU
VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG MANG TÍNH TRỤC LỢI
Trần Thùy Linh*, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong các hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thì hành vi lạm dụng
mang tính trục lợi vừa là nhóm hành vi lạm dụng mang tính độc lập, vừa là nhóm hành vi có tính
liền sau của các nhóm hành vi lạm dụng khác. Bởi lẽ đó, việc xem xét bản chất hành vi lạm dụng
cũng như đánh giá tính chất trục lợi của hành vi lạm dụng luôn được đặt ra trong tất cả các vụ việc
về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Pháp luật cạnh tranh liên minh Châu Âu được coi là một
trong hai trụ cột của pháp luật cạnh tranh Thế giới. Việc nghiên cứu cách tiếp cận của pháp luật
cạnh tranh liên minh Châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi là hữu ích cả trong công tác
nghiên cứu pháp luật, hoạch định chính sách và công tác giảng dạy.
Từ khóa: hành vi lạm dụng; thống lĩnh thị trường;lạm dụng trục lợi;liên minh Châu Âu; luật cạnh tranh
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Từ góc độ khoa học pháp lý, việc định nghĩa
và giới hạn phạm vi các hành vi bị coi là lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường phụ thuộc
vào mục tiêu của luật cạnh tranh mỗi nước.
Mục tiêu cơ bản của luật cạnh tranh các nước
đều hướng đến việc bảo vệ (quá trình) cạnh
tranh trên thị trường và bảo vệ phúc lợi xã
hội, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như là
kết quả của cạnh tranh. Dựa vào bản chất của
hành vi và đối tượng mà nó tác động tới các
hành vi lạm dụng có thể phân thành nhóm
hành vi mang tính trục lợi (exploitative
abuses), gây thiệt hại cho phúc lợi xã hội và
người tiêu dùng và nhóm hành vi mang tính
loại bỏ (exclusionary abuses), gây thiệt hại
cho đối thủ cạnh tranh, cản trở cạnh tranh trên
thị trường.
Hành vi lạm dụng mang tính trục lợi là hành
vi đối xử không công bằng hoặc bất hợp lý
đối với những bên bị phụ thuộc vào doanh
nghiệp thống lĩnh trong việc cung cấp hàng
hóa hoặc dịch vụ trên thị trường liên quan.
Những đối tượng này có thể là các khách
hàng (khi doanh nghiệp thống lĩnh định giá
quá cao) hoặc các nhà cung cấp của doanh
nghiệp thống lĩnh (khi nó trả một mức giá quá
thấp). Mặc dù tác động kinh tế của hành vi
*Tel: 0989761083, Email: dngbaolinh2@gmail.com
lạm dụng mang tính trục lợi với môi trường
cạnh tranh được coi là không nghiêm trọng
bằng hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ,
song xét cả về lý thuyết và thực tiễn thì trục
lợi lại là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường khi khai thác quyền lực
thị trường của mình. Nói cách khác dù ban
đầu doanh nghiệp thống lĩnh có thực hiện
hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ thì sau
khi đạt được mục tiêu loại bỏ đối thủ, doanh
nghiệp thống lĩnh sẽ tiếp tục thực hiện các
hành vi lạm dụng mang tính trục lợi. Bên
cạnh đó, bảo vệ người tiêu dùng cũng là một
mục tiêu của luật cạnh tranh, do đó, rất cần
thiết phải xem xét, đánh giá liệu một hành vi
mang tính loại bỏ trên thực tế có gây thiệt hại
cho người tiêu dùng hoặc có dẫn đến việc
tăng giá hoặc hạn chế sản lượng, hạn chế sự
lựa chọn hay không. Bởi lẽ đó, việc xem xét
bản chất hành vi lạm dụng cũng như đánh giá
tính chất trục lợi của hành vi lạm dụng luôn
được đặt ra trong tất cả các vụ việc về lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường.Pháp luật
cạnh tranh liên minh Châu Âu (EU) được coi
là một trong hai trụ cột của pháp luật cạnh
tranh Thế giới. Việc nghiên cứu cách tiếp cận
của pháp luật cạnh tranh EU về hành vi lạm
dụng mang tính trục lợi là hữu ích cả trong
công tác nghiên cứu pháp luật, hoạch định
chính sách và công tác giảng dạy.
Trần Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 189 - 194
190
CÁC HỌC THUYẾT VỀ LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ
ẢNH HƯỞNG TỚI PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH LIÊN MINH CHÂU ÂU
Sự phát triển của pháp luật về kiểm soát hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gắn liền
với sự phát triển của ba học thuyết chính về
cạnh tranh là trường phái Havard, trường phái
Chicago và trường phái hậu – Chicago [1].
Trường phái Havard là học thuyết lâu đời
nhất, với những quan điểm về cạnh tranh
được hình thành dựa trên cơ sở lý thuyết kinh
tế cổ điển và cấu trúc thị trường truyền thống.
Trường phái Havard nêu quan điểm việc đánh
giá một hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh
liệu có phải là lạm dụng hay không chủ yếu
dựa trên việc xem xét hình thức (biểu hiện)
của hành vi có phù hợp với mô tả trong quy
định pháp luật về các hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường hay không. Khi hành vi
bị xem xét có cấu thành pháp lý phù hợp với
hành vi bị coi là lạm dụng được mô tả trong
luật thì hành vi đó mặc nhiên bị coi là lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường mà không
cần phải xem xét hành vi đó có thực sự gây ra
những tác động tiêu cực hay không. Nguyên
tắc này được gọi là per se rule. Cách tiếp cận
của học thuyết Havard được cho là nặng về
tính hình thức.
Những năm 1970, học thuyết của trường phái
Havard bị chỉ trích bởi các nhà kinh tế học
của đại học Chicago. Quan điểm của các học
giả Chicago và Havard là tương tự nhau về
vấn đề điều kiện cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn
đến hiệu quả của thị trường và phúc lợi tiêu
dùng là tối đa. Tuy nhiên, trong khi trường
phái Harvard cho rằng cần có sự can thiệp của
chính phủ để làm cho cấu trúc thị trường gần
hơn với các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, thì
trường phái Chicago coi những điều kiện này
là định hướng cần đạt được, có tác dụng
hướng dẫn hành vi của các lực lượng tham gia
thị trường tự do. Nói một cách ngắn gọn
thìTrường phái Chicago ủng hộ hệ thống thị
trường tự do và phủ nhận sự can thiệp cần
thiết của chính phủ thông qua luật cạnh tranh.
Trường phái hậu Chicago cũng có quan điểm
tương đồng với trường phái Havard là ủng hộ
sự can thiệp của chính phủ vào thị trường
thông qua luật cạnh tranh. Các học giả hậu
Chicago cho rằng việc chính phủ can thiệp
thông qua luật cạnh tranh là rất quan trọng để
khôi phục lại cạnh tranh và tăng cường phúc
lợi cho người tiêu dùng trong một thị trường
tập trung. Trong một thị trường cạnh tranh
không hoàn hảo, mang tính tập trung cao, đặc
biệt ở các thị trường độc quyền, các lực lượng
thị trường tự do không thể tự mình khắc phục
được những khiếm khuyết của thị trường mà
sự can thiệp của chính phủ là cần thiết. Sự
khác biệt của trường phái hậu Chicago nằm ở
quan điểm không mặc nhiên coi hành vi có
biểu hiện lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường là vi phạm mà yêu cầu
cần có những phân tích kinh tế rất chi tiết và
phức tạp với sự tập trung đặc biệt vào động
lực và hiệu quả thị trường.
Vào những năm 1960, Liên minh châu Âu đã
tạo ra một cách tiếp cận mới về luật cạnh
tranh và về vấn đề lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường trên cơ sở kết hợp các trường phái
Harvard, Chicago, hậu Chicago và được gọi
là Trường phái Châu Âu. Với mục tiêu quan
trọng nhất là thốngnhất tất cả các thị trường
quốc gia và tạo ra một thị trường chung, luật
cạnh tranh của liên minh được coi là công cụ
chính sách cơ bản. Do đó, các học thuyết có
tư tưởng phù hợp với mục tiêu trên có ảnh
hưởng lớn hơn đối với sự hình thành và phát
triển của luật cạnh tranh Châu Âu. Thời gian
đầu, do chịu sự ảnh hưởng đồng thời bởi cả
trường phái Havard và Chicago nên dẫn đến
một số phán quyết hay quyết định thể hiện sự
mâu thuẫnvề mặt lý luận. Dần dần do sự khác
biệt về tư tưởng, mâu thuẫn với mục tiêu
chung nên trường phái Chicago không còn
ảnh hưởng nhiềuđến luật cạnh tranh Châu Âu.
Ngược lại, trường phái Havard có ảnh hưởng
rất đáng kể. Trường phái hậu Chicago với
quan điểm tương tự với trường phái Havard
trong việc ủng hộ sự can thiệp của chính phủ
vào thị trường cũng nhanh chóng có ảnh
hưởng to lớn với luật cạnh tranh của EU. Mặc
dù vậy, với sự đòi hỏi những phân tích kinh tế
sâu và phức tạp làm dấy lên quan điểm cần có
sự đổi mới trong cách tiếp cận của luật cạnh
tranh Châu Âu trong giai đoạn hiện nay.
Trần Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 189 - 194
191
NỘI DUNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
LIÊN MINH CHÂU ÂU VỀ HÀNH VI LẠM
DỤNG MANG TÍNH TRỤC LỢI CỦA
DOANH NGHIỆP CÓ VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG
Cũng giống như luật cạnh tranh của nhiều
nước, Luật cạnh tranh của liên minh Châu
Âu cũng tập trung vào các nội dung: xác
định thị trường liên quan, xác định vị trí
thống lĩnh thị trường, các hành vi lạm dụng
bị cấm và xử lý đối với các doanh nghiệp
thực hiện các hành vi lạm dụng bị cấm.
Nghiên cứu các quy định về xác định thị
trường liên quan, xác định vị trí thống lĩnh
thị trường và các hành vi lạm dụng bị cấm sẽ
cho thấy cách tiếp cận của liên minh Châu
Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường. Quy định về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường nói chung và hành vi
mang tính trục lợi nói riêng được quy định
tại Điều 82 Hiệp ước về thành lập cộng đồng
Châu Âu (Hiệp ước EC) và hiện nay được
sửa đổi trở thành Điều 102 của Công ước về
Chức năng của Liên Minh Châu Âu (TFEU)
đồng thời được giải thích và phát triển qua
thực tiễn xét xử của Tòa án tư pháp châu Âu
(ECJ) và các quyết định, hướng dẫn của Ủy
ban Châu Âu.
Xác định thị trường liên quan
Luật cạnh tranh EU đòi hỏi việc xác định vị
trí thống lĩnh phải trên một thị trường liên
quan xác định và thị trường liên quan phải
được phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau:
thị trường sản phẩm, thị trường địa lý, thị
trường về thời gian. Để xác định thị trường
liên quan trước hết cần phân tích thị trường
sản phẩm. Một doanh nghiệp chỉ có thể có vị
trí thống lĩnh trên một thị trường của sản
phẩm hay dịch vụ xác định, cụ thể. Nếu việc
xác định thị trường sản phẩm càng hẹp thì
doanh nghiệp càng dễ có khả năng hình thành
vị trí thống lĩnh trên thị trường sản phẩm cụ
thể đó. Việc xác định thị trường địa lý sẽ
được thực hiện sau bước xác định thị trường
sản phẩm. Thị trường địa lý liên quan là khu
vực lãnh thổ (ranh giới) nơi tất cả các thương
nhân cạnh tranh ở điều kiện như nhau hay
tương đồng nhau về sản phẩm hay dịch vụ
xác định. Ở bước thứ ba sẽ thực hiện phân
tích xem liệu có yếu tố về thời gian tác động
đến thị trường hay không. Một công ty có thể
có sức mạnh thị trường trong một thị trường
sản phẩm chỉ trong một thời điểm cụ thể trong
năm bởi vì các sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh có thể có sẵn theo mùa. Để định nghĩa
thị trường liên quan, Ủy ban đã công bố
Thông báo về Định nghĩa Thị trường Liên
quan cho Mục đích của Luật Cạnh tranh
Chung của liên minh [2]. Mục đích của
Thông báo của Ủy ban là mang lại một
phương pháp phân tích dựa trên khía cạnh
kinh tế nhiều hơn và dễ dự đoán hơn cho
phương pháp tiếp cận của Ủy ban.
Xác định vị trí thống lĩnh thị trường
Sau khi xác định thị trường liên quan, thông
qua xác định các yếu tố sản phẩm, địa lý và
thời gian, bước tiếp theo là xác định xem liệu
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị
trường xác định hay không. Điều 82 Hiệp
định EC và Điều 102 TFEU đều không trực
tiếp đưa ra khái niệm thống lĩnh thị trường mà
chỉ khẳng định “các hành vi mang tính chiến
lược được thực hiện bởi các doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường, làm loại bỏ cạnh tranh
một cách bất hợp pháp, nhằm duy trì và củng
cố quyền lực thị trường” bị lên án. Trên thực
tế, khái niệm thống lĩnh thị trường được phát
triển qua thực tiễn giải quyết các vụ việc của
ECJ. Theo quan điểm của ECJ, thống lĩnh thị
trường là “Vị trí của doanh nghiệp mang sức
mạnh kinh tế có khả năng ngăn cản cạnh
tranh hiệu quả được duy trì trên thị trường
liên quan bằng cách cho phép nó hành xử độc
lập ở một mức độ đáng kể không phụ thuộc
vào đối thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối
cùng là người tiêu dùng”. Khái niệm thống
lĩnh thị trường trong luật cạnh tranh EU gồm
3 yếu tố: (1) Tồn tại vị trí nắm giữ sức mạnh
kinh tế trên thị trường. Sức mạnh kinh tế
được hiểu là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp nắm giữ vị trí dẫn dắt thị trường
(leading position) so với các đối thủ cạnh
tranh của nó, (2) Doanh nghiệp nắm giữ vị trí
này có thể ngăn ngừa sự cạnh tranh hiệu quả
được duy trì trên thị trường đó, (3) vị trí này
Trần Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 189 - 194
192
cho phép doanh nghiệp nắm giữ có thể hành
động độc lập ở mức độ đáng kể với các nhân
tố khác của thị trường (đối thủ cạnh tranh,
khách hàng, người tiêu dùng)
Các hành vi lạm dụng mang tính trục lợi
Điều 102 TFEU liệt kê các hành vi nhất định
bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Tuy nhiên, những hành vi này chỉ là những
dạng hành vi lạm dụng điển hình nhất, chứ
không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Điều
này được khẳng định thông qua thực tiễn xét
xử của ECJ. Từ thực tiễn giải quyết các vụ
việc, ECJ đưa ra quan điểm để giải thích cho
khái niệm thống lĩnh thị trường. Theo quan
điểm của ECJ thể hiện qua các phán quyết cụ
thể, hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường có bị coi là lạm dụng hay
không căn cứ vào tác động của hành vi đó đối
với môi trường cạnh tranh [3] Do đó, một
hành vi, dù không nằm trong những trường
hợp điển hình được liệt kê tại Điều 102 TFEU
vẫn có thể bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh
nếu nó do một doanh nghiệp thống lĩnh thị
trường thực hiện và có ảnh hưởng tiêu cực tới
môi trường cạnh tranh.
Căn cứ vào điều 102 TFEU và từ thực tiễn xét
xử của ECJ có thể rút ra các hành vi lạm dụng
mang tính trục lợi theo pháp luật cạnh tranh
của Liên minh Châu Âu như sau:
Định giá quá mức: Định giá quá mức là hành
vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường định giá quá cao so với giá trị kinh tế
của sản phẩm. Để đánh giá xem giá bán của
sản phẩm có phải là quá cao hay không. ECJ
dựa trên các phân tích kinh tế, thực hiện hai
bước kiểm tra. Bước thứ nhất, so sánh giá
thành và giá bán của sản phẩm. Bước hai,
kiểm tra xem mức giá của nó có quá cao
không trên cơ sở các yếu tố nội tại của chính
nó và so sánh với giá bán sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, ECJ cũng thừa
nhận rằng việc xác định chi phí sản xuất để
tính giá thành là một việc khó khăn, đặc biệt
là ở các công ty lớn với cơ cấu sản phẩm
phức tạp. Thực tế, nhiều phán quyết của ECJ
đưa ra đã bị chỉ trích bởi thiếu các kiến thức
về kinh tế cần thiết và phớt lờ sự thực là việc
xác định chi phí cấu thành đối với sản phẩm
của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thì
không thể thực hiện đơn giản như vậy được.
Bán kèm và bán hàng theo gói: Bán kèm
(Tying) là tình trạng mà một người bán sản
phẩm A (gọi là sản phẩm bán kèm) yêu cầu
các khách hàng muốn mua A phải mua cả sản
phẩm B (sản phẩm được bán kèm), trong khi
bán hàng theo gói là bán các sản phẩm cùng
nhau với mức giá hấp dẫn hơn khi bán các sản
phẩm riêng lẻ. Cách tiếp cận của EU gần với
cách tiếp cận cổ điển và ngược lại với quan
điểm của trường phái Chicago về bán kèm,
trong đó Luật cạnh tranh EU quy định cấm
hành vi bán kèm, bán hàng theo gói của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
mà không cần xem xét hiệu quả thực sự đối
với người tiêu dùng. Việc phân tích hành vi
bán kèm mới chỉ căn cứvào hình thức biểu
hiện của hành vi mà không xem xét đến hiệu
quả thực tế của nó. Mặc dù, trong Quyết định
của vụ Microsoft [4], Ủy ban Châu Âu đã
công nhận bán kèm có thể mang lại những lợi
ích kinh tế nhất định và các quan điểm ban
đầu của pháp luật cạnh tranh EU là mâu thuẫn
với các lý thuyết kinh tế mới nhưng vẫn giữ
quan điểm cho rằng bán kèm nói chung là
hành vi phản cạnh tranh.
Hạn chế sản lượng và sự phát triển khoa học
kỹ thuật: Điều 102(b) TFEU cấm các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hạn chế
sản lượng và sự phát triển khoa học kỹ thuật
bởi hậu quả của những hành vi này sẽ gây
thiệt hại trực tiếp cho người tiêu dùng. Các
quy định của Luật cạnh tranh EU về vấn đề
này còn khá chung chung. Từ các phán quyết
và quyết định của ECJ và Ủy ban Châu Âu
cho thấy các hành vi này trên thực tế rất đa
dạng, do đó, không dễ cho các cơ quan thẩm
quyền trong việc nhận diện. Có hai trường
hợp phổ biến của hạn chế sản lượng và được
xác định là vi phạm. Thứ nhất, việc giới hạn
hoặc chấm dứt sản xuất hoặc cung ứng sản
phẩm của doanh nghiệp thống lĩnh được thực
hiện để làm tăng giá hoặc tăng doanh thu của
một sản phẩm khác. Thứ hai, một công ty
thống lĩnh, thông qua các hợp đồng li - xăng
của nó, hạn chế sản xuất đối với một lĩnh vực
cụ thể, giới hạn việc tiêu thụ ở một khu vực
Trần Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 189 - 194
193
địa lý nhất định và hạn chế số lượng sản
phẩm. Đối với hạn chế sự phát triển khoa học
kỹ thuật, với việc nắm giữ quyền lực thị
trường, các công ty thống lĩnh nắm quyền
kiểm soát quyền tiếp cận công nghệ, do đó,
khi nó ngăn cản sự phát triển khoa học kỹ
thuật sẽ có cơ hội kéo dài vòng đời sản phẩm,
công nghệ đang sử dụng. Bởi vậy, trong khi
người tiêu dùng không được hưởng những
thành quả của khoa học công nghệ, thể hiện ở
việc tăng chất lượng, giảm giá thành sản
phẩm thì vẫn tiếp tục bị doanh nghiệp thống
lĩnh trục lợi bằng việc buộc phải sử dụng các
sản phẩm với chất lượng không được cải
thiện mà giá bán không có tính cạnh tranh.
Áp đặt điều khoản không công bằng với
khách hàng: Điều 82(a) Hiệp định EC cấm
các doanh nghiệp thống lĩnh áp đặt các điều
khoản hợp đồng không công bằng (unfair
contract term). Tuy nhiên, việc xác định, giải
thích thế nào là các điều khoản hợp đồng bất
hợp lý hay không công bằng thuộc về các cơ
quan xét xử và điều này được cho thấy là
không hề dễ dàng qua thực tiễn xét xử của
ECJ. Trong vụ BRT kiện SABAM [5] cho
rằng sự công bằng hay hợp lý có liên quan
đến sự cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên ký kết hợp đồng. Do đó, một điều
kiện vượt xa những gì là hoàn toàn cần thiết
cho việc đạt được các mục tiêu của một bên là
giới hạn 'không công bằng' cho sự tự do của
bên kia. Bất kể việc xác định các điều khoản
không công bằng trong từng vụ việc có khác
nhau thì một điểm chung là việc doanh nghiệp
áp đặt các điều kiện như vậy cho khách hàng
sẽ trực tiếp gây thiệ hại cho họ, thường là gây
ra sự hạn chế quyền tự do hành động của họ.
ĐÁNH GIÁ VÀ KẾT LUẬN
Qua phân tích có thể thấy các quy định về lạm
dụng mang tính trục lợi của doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường trong pháp luật cạnh
tranh Châu Âu được hình thành và phát triển
trên cơ sở kết hợp cả lý luận được phản ánh
qua các quy định của Hiệp ước EC và Công
ước TFEU và thực tiễn qua hoạt động của
ECJ và Ủy ban Châu Âu. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng nhiều hơn từ trường phái Havard nên
các phán quyết của ECJ mặc dù đã dựa trên
các phân tích kinh tế nhiều hơn nhưng vẫn
cho thấy xu hướng tiếp cận theo hướng doanh
nghiệp thống lĩnh thực hiện các hành vi thỏa
mãn các dấu hiệu trong luật thì bị coi là vi
phạm cho dù vẫn thừa nhận, ở góc độ kinh tế
những hành vi lạm dụng đó cũng mang lại
những tác động tích cực, những lợi ích nhất
định. Cách tiếp cận của luật cạnh tranh sẽ bảo
vệ được khách hàng, người tiêu dùng, những
đối tượng bị phụ thuộc vào doanh nghiệp
thống lĩnh trong ngắn hạn nhưng các lý thuyết
kinh tế mới cho thấy rằng nó thực sự có thể
cản trở sự cạnh tranh trong dài hạn và giảm sự
khuyến khích công ty chi phối đầu tư vào các
khu vực mới. Chính sách cạnh tranh như vậy
sẽ cản trở các hoạt động sáng tạo, giảm mức
độ năng động và hiệu quả trên thị trường [6].
Những vấn đề hạn chế trong luật cạnh tranh
EU về lạm dụng mang tính trục lợi của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã được
nhận ra trong Báo cáo thảo luận năm 2005
của Châu Âu [7]. Hiện nay EU đang cố gắng
giải quyết những vấn đề khác biệt giữa lý luận
và thực tiễn, đồng thời xây dựng một phương
pháp tiếp cận dựa vào các phân tích kinh tế
nhiều hơn và sử dụng nguyên tắc rule of
reason thay cho nguyên tắc per se rule. Tuy
nhiên, cần lưu ý là Luật Cạnh tranh của EU
không chỉ là công cụ bảo vệ thị trường, công
cụ kinh tế mà còn là một phần của chính sách
của EU để thúc đẩy hội nhập sâu hơn và hoạt
động hài hòa giữa các thị trường nội địa.
Trong khi các rào cản nhập cảnh đã bị tháo dỡ
trong Liên minh thông qua việc bãi bỏ các rào
cản thuế quan và phi thuế quan giữa các nước
thành viên, Ủy ban Châu Âu càng phải cảnh
giác hơn đối với việc các công ty tư nhân có
thể tự tạo ra rào cản thông qua việc lạm dụng
quyền lực thị trường để trục lợi từ khách hàng
và loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Do đó, cách tiếp
cận mới cần tránh nguy cơ gây ảnh hưởng cho
các mục tiêu chung của Liên minh Châu Âu.
Lý thuyết mới đưa ra quan điểm cần dựa vào
nhiều hơn các phân tích kinh tế để hạn chế sự
cứng nhắc của các quy định pháp luật ở EU
hiện nay được gọi là lý thuyết lực lượng lãnh
đạo thị trường (The theory of market leaders).
Lý thuyết này đưa ra quan điểm xác định các
Trần Thùy Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 189 - 194
194
hành vi lạm dụng phải dựa trên các phân tích
kinh tế có cân nhắc giữa tác động tích cực và
tác động tiêu cực của hành vi [6]. Với quan
điểm hiện đại, lý thuyết này cho thấy tính khả
thi được áp dụng trong luật cạnh tranh EU.
Hình dung một cách đơn giản lý thuyết này
cho rằng, hành vi của doanh nghiệp thống
lĩnh dựa trên năng lực nội sinh (đổi mới, đầu
tư nhiều hơn vào R&D, nâng cao chất lượng
sản phẩm) là tích cực nhưng có thể gây hạn
chế cạnh tranh, làm giảm khả năng cạnh tranh
của đối thủ, làm gia tăng tính tập trung của thị
trường nhưng vẫn có thể có tác động có lợi
cho khách hàng và người tiêu dùng và ngược
lại. Do đó, cần đánh giá tính tiêu cực và tích
cực của hành vi làm cơ sở xác định có vi
phạm hay không vi phạm.
Luật cạnh tranh EU vốn được coi là một trong
hai trụ cột về luật cạnh tranh của Thế Giới, sự
thay đổi trong quan điểm, lý luận của hệ
thống này chắc chắn có tác động nhất định
đối với các hệ thống pháp luật khác, trong đó
có Việt Nam. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu
sâu hơn về lý thuyết mới của các học giả
Châu Âu về kiểm soát hành vi lạm dụng
mang tính trục lợi của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường là cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Massimo Motta, (2004), Competition Policy:
Theory and Practice, Cambridge: Cambridge
University Press (Chapter 7).
2. Commission Notice on the Definition of
Relevant market for the Purposes of Community
Competition Law (1997), OJ C 372, pp. 5–13
3. Global Competition Center (2005), GCLC
Research Papers on Article 82 EC, College of
Europe, Brugge, July, pp. 40 – 42.
4. Commission Decision Microsoft 24 March
2004 COMP/C-3/37.792
5. Vụ việc số 127/73 Belgische Radio en Televisie
v SV SABAM and NV Fonior [1974] ECR 313
6. Nagy, Csongor Istvan (2007) “Refusal to Deal
and The Doctrine of Essential Facilities in US and
EC Competition Law: A Comparative Perspective
and Proposal for a Workable Analtical
Framework”, European Law Review, Vol. 32, pp.
664-685
7. DG Competition discussion paper on the
application of Article 82 of the Treaty to
exclusionary abuses,
antitrust/art82/discpaper2005.pdf.
SUMMARY
EUROPEAN UNION COMPETITION LAW APPROACH
ON EXPLOITATIVE ABUSES
Tran Thuy Linh*, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang
TNU – University of Economics and Business Administration
Among abusive behaviors of market dominance, exploitative abuse is alsoindependent abusive
behavior and next behavior of other abusive behaviors. For this reason, the nature of abusive
behavior as well as the exploitation of abusive behavior is always set in all instances of abusive
market dominance case. European Union competition law is considered one of the two pillars of
the World Competition Law. Studying the approach of European Union competition law on
exploitative abuses is useful both in legal research, in policymaking and in teaching.
Keywords: abusive practices; market dominance; exploitative abuses; European Union;
competition law.
Ngày nhận bài: 08/5/2018; Ngày phản biện: 18/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0989761083, Email: dngbaolinh2@gmail.com
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 412_442_1_pb_3525_2127114.pdf