Tài liệu Cách thức xác lập quan hệ của Bồ Đào Nha ở Trung Quốc (thế kỷ XVI): CÁCH THỨC XÁC LẬP QUAN HỆ CỦA BỒ ĐÀO NHA Ở
TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI)
Nguyễn Thị Vĩnh Linh1
Tóm tắt: Năm 1505, cùng với sự ra đời của Estado da India2, nhà nước thuộc địa đầu
tiên của Bồ Đào Nha tại phương Đông đã được thành lập. Dựa trên các cứ điểm ven
biển phía Tây Ấn Độ, Bồ Đào Nha đã lần lượt thiết lập hệ thống thương điếm ở vịnh
Bengal, Đông Nam Á và Viễn Đông. Trung Quốc với tư cách là một trong những
quốc gia hùng mạnh bậc nhất của châu Á thời bấy giờ thật sự là thử thách khó khăn
đối với tham vọng của Bồ Đào Nha. Vì thế, Bồ Đào Nha phải sử dụng nhiều cách
thức khác nhau để xâm nhập vào đế quốc rộng lớn này.
1. Bồ Đào Nha xâm nhập vào Trung Quốc thông qua hoạt động thương mại
1.1. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa thương nhân Bồ Đào Nha với Trung Quốc
Quan hệ của Bồ Đào Nha và thương nhân Trung Quốc bắt đầu được thiết lập từ
đầu thế kỷ XVI thông qua việc tham gia mạng lưới giao thương tại Đông Nam Á.
Năm 1511, thương nhân Trung Quốc đã cho Albuquerque v...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 435 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách thức xác lập quan hệ của Bồ Đào Nha ở Trung Quốc (thế kỷ XVI), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁCH THỨC XÁC LẬP QUAN HỆ CỦA BỒ ĐÀO NHA Ở
TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI)
Nguyễn Thị Vĩnh Linh1
Tóm tắt: Năm 1505, cùng với sự ra đời của Estado da India2, nhà nước thuộc địa đầu
tiên của Bồ Đào Nha tại phương Đông đã được thành lập. Dựa trên các cứ điểm ven
biển phía Tây Ấn Độ, Bồ Đào Nha đã lần lượt thiết lập hệ thống thương điếm ở vịnh
Bengal, Đông Nam Á và Viễn Đông. Trung Quốc với tư cách là một trong những
quốc gia hùng mạnh bậc nhất của châu Á thời bấy giờ thật sự là thử thách khó khăn
đối với tham vọng của Bồ Đào Nha. Vì thế, Bồ Đào Nha phải sử dụng nhiều cách
thức khác nhau để xâm nhập vào đế quốc rộng lớn này.
1. Bồ Đào Nha xâm nhập vào Trung Quốc thông qua hoạt động thương mại
1.1. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa thương nhân Bồ Đào Nha với Trung Quốc
Quan hệ của Bồ Đào Nha và thương nhân Trung Quốc bắt đầu được thiết lập từ
đầu thế kỷ XVI thông qua việc tham gia mạng lưới giao thương tại Đông Nam Á.
Năm 1511, thương nhân Trung Quốc đã cho Albuquerque và Antonio de Abreu mượn
những chiếc thuyền mành của mình để xâm chiếm chiếc cầu nổi tiếng chia cắt
Malacca. Tuy nhiên, quá trình tiếp xúc giữa Bồ Đào Nha với Trung Quốc thật sự khá
khó khăn do chính sách đóng cửa của triều Minh. Trước tình trạng mất an ninh vùng
duyên hải, uy hiếp nghiêm trọng đến sự tồn vong của chính quyền mới bởi hoạt động
của Wako3, nhà nước đã thực thi chính sách “hải cấm” (Haijin hay Haichin). Chính
điều này đã dẫn đến sự trì trệ của nền thương nghiệp Trung Quốc so với các quốc gia
khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Trong bối cảnh đó, việc xuất hiện các
thương nhân đến từ phương Tây đã khiến cho bộ máy quan liêu ven biển phía Nam
cảm thấy bối rối.
1 ThS, GV khoa VH-DL. Trường Đại học Quảng Nam
2 Thuật ngữ Estado da India – liên bang Ấn Độ được dùng để chỉ về tất cả các thành phố, pháo đài và
các vùng lãnh thổ mà người Bồ Đào Nha đã kiểm soát được ở châu Á và Đông Phi. Tuy nhiên, đôi khi
thuật ngữ Estado còn được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả các vùng ven biển và
các đảo thuộc phía Đông mũi Hảo Vọng được giới hạn từ cực đông nam châu Phi đến vùng đất thấp ở
cửa sông Dương Tử. Trong thực tế, cũng có một số khu vực không nằm trong phạm vi quản lý của cơ
quan này (ví dụ như Macau – Trung Quốc). [7;146]
3 Cướp biển người Nhật Bản, hoạt động tại bờ biển Trung Quốc và Nhật Bản từ thế kỷ XIII đến thế kỷ
XVII. Tuy nhiên, thành phần tham gia mạng lưới này còn có cả người Trung Quốc, Triều Tiên, Đông
Nam Á
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
72
Vào năm 1513, những tư thương Bồ Đào Nha (trong đó có Jorge Álvares (? -
1521)) lần đầu tiên tiếp xúc với Trung Quốc thông qua thương mại thuyền mành1.
Tuy nhiên, những cuộc tiếp xúc từ năm 1513 đến 1520 hầu như không thu được kết
quả như mong đợi2. Ngoại trừ, Fernão Peres de Andrade buôn bán tại Quảng Châu
bất chấp lệnh cấm của triều Minh còn lại hầu hết thương nhân Bồ đều không thể tiến
hành giao thương với người Trung Quốc. Vào năm 1521-1522, người Bồ Đào Nha có
nỗ lực mới trong việc thiết lập quan hệ với Trung Quốc: “Tháng 8 năm 1522, ba chiếc
tàu dưới sự chỉ huy của Martin Affonso de Mello Coutinho cập bến tại Tunmen3 với
nhiệm vụ ký kết hiệp ước hòa bình và thiết lập một pháo đài nếu nhận được sự đồng ý
của quan chức Trung Quốc” [7; 340]. Thế nhưng hai chiếc tàu đã bị bắt giữ bởi lực
lượng Trung Quốc, những người sống sót phải chạy trốn sau 14 ngày xâm nhập vào
vùng bờ biển Trung Hoa. Hoạt động ngày càng mạnh mẽ của Bồ Đào Nha chỉ làm
tăng thêm sự nghi kỵ của Hoàng đế đối với người phương Tây. Những Sử quan của
vương triều Minh thì hình dung “người Bồ Đào Nha là kẻ bắt cóc, thương nhân buôn
bán nô lệ, người ăn thịt trẻ em sau khi nấu chín chúng” [7; 101]. Kết quả là họ nhận
được lệnh cấm buôn bán tại bất kỳ hải cảng nào của Trung Quốc và Tomé Pires
(1465-1524) là một trong những người bị bắt giữ và giam cầm cho đến chết tại Trung
Hoa [5; 96].
Tuy nhiên, vẫn có một vài thương nhân Bồ Đào Nha thành công từng bước
trong việc xâm nhập vào bờ biển Fujian (Phúc Kiến) và Chejiang (Chiết Giang). Thực
chất hoạt động trong thời kỳ này của người Bồ Đào Nha là giao thương không được
cấp phép với nhiều rủi ro giữa thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản và chủ tàu Hồi
giáo. Cho đến giai đoạn từ 1530 đến 1540, một số cộng đồng cư trú tạm thời hình
thành tại những khu định cư không chính thức trên duyên hải Trung Quốc, lớn nhất là
Lampacao [5; 115]. Cùng với việc hối lộ các quan chức địa phương, lợi dụng mạng
lưới của người Malay hoặc Xiêm, thương nhân Bồ Đào Nha đã đến các hải cảng khác
như Thường Châu, Chiian-chu, Ninh Ba ở Phúc Kiến và Chiết Giang.
1 Trong tác phẩm “An historical sketch of the Portuguese settlements in China; and of the Roman
Catholic Church and mission in China” của Ljungstedt Anders, tác giả cho rằng Rafael Perestello đã
theo thương mại thuyền mành từ Malacca đến Trung Quốc vào năm 1516. Chuyến đi của ông dù chỉ
thu lại những thông tin ít ỏi nhưng đó là cơ sở để Fernão Peres de Andrade thực hiện chuyến đi của
mình trong năm tiếp sau [3; 1].
2 Đến năm 1517, hạm đội do Fernão Peres de Andrade (?- 1552) dẫn đầu cập bến tại Guangdong
(Quảng Đông). Ông được xem là đại diện chính thức đầu tiên của vương quyền Bồ Đào Nha đến
Trung Quốc và thể hiện mong muốn đặt quan hệ thương mại trực tiếp với quốc gia này. Sau đó một
năm (1518), hạm đội Bồ Đào Nha dưới sự chỉ huy của Simão de Andrade đến Canton (Quảng Châu)
nhưng để lại ấn tượng không tốt khi tham gia vào việc mua bán trẻ em Trung Quốc làm nô lệ và đụng
độ với hạm đội phòng vệ bờ biển [5; 96].
3 Hiện nay là Đồ Môn thuộc châu tự trị Diên Biên tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc.
CÁCH THỨC XÁC LẬP QUAN HỆ CỦA BỒ ĐÀO NHA
73
1.2. Sự ra đời của thương điếm Macao
Những tiếp xúc không chính thức ấy đối với chính quyền Bồ Đào Nha là một
thất bại. Cú hích tạo nên bước chuyển biến trong tình hình là cuộc khủng hoảng
wako. Chính sách “hải cấm” của nhà Minh không những không đẩy lùi được các hoạt
động thương mại bất hợp pháp mà từ 1549 đến 1561, wako ngày càng quyết liệt hơn
trong việc sử dụng vũ khí nhằm chống lại thành phố Yangtze (Dương Tử) và ở vùng
bờ biển phía Nam Trung Quốc. Những hành động của wako có sự tiếp tay của người
Bồ Đào Nha đã đặt chính quyền Trung Quốc dưới áp lực mới. Nhà Minh đã kiên
quyết sử dụng bạo lực nhằm loại trừ thế lực thương mại đáng ghét này. Từ năm 1543
đến 1548, lực lượng của nhà Minh dưới sự lãnh đạo của Lu T'ang tấn công căn cứ của
cướp biển tại Shuang-hsu. Tại đây hạm đội Bồ Đào Nha đã có một cuộc chạm trán
nhỏ với lực lượng hải quân của Lu T'ang và bị truy kích đến tận đảo Wu-hsu trong
vịnh Amoy (Hạ Môn). Dưới áp lực quân sự của nhà Minh, nếu người Bồ Đào Nha
vẫn tiếp tục các hoạt động trái phép của họ, thì quan hệ giao thương chính thức sẽ
chấm dứt vĩnh viễn. Vì thế, những thương nhân người Bồ đã chuyển sang bắt tay với
nhà Minh nhằm loại trừ wako. Như một cách thức trả ơn, năm 1550, viên chức nhà
Minh cho phép thương nhân Bồ Đào Nha sử dụng những địa điểm trên bờ biển
Guangdong, đầu tiên tại Shangchuan (Đài Sơn, Giang Môn), sau đó là Lampacau và
cuối cùng là Macao để buôn bán.
Do có công trong việc tiêu diệt được bọn cướp, triều Minh đã cho phép Bồ Đào
Nha được định cư buôn bán ở Ma cao với điều kiện không được xây dựng thành trì
kiên cố và không được đặt pháo binh trong thành. Tuy nhiên, đến năm 1557, lợi dụng
sự lơ là của Minh triều, họ tự ý thiết lập cơ quan chính quyền, xây thành luỹ, pháo đài
rồi biến hòn đảo này thành thương điếm thuộc Bồ Đào Nha.
Bên cạnh đó, do sự cần thiết của bạc nén từ Nhật Bản đối với sự phát triển kinh
tế Trung Quốc thời nhà Minh mà người Bồ Đào Nha đã được trao cơ hội để trở thành
trung gian một cách hợp pháp giữa người Trung Quốc và Nhật Bản. Vào cuối thế kỷ
XVI, những nhân vật trung gian người Iberia này đã khiến Macao từ một làng chài
nhỏ, nghèo trở thành một hải cảng chính và trung tâm thương mại phía Nam Trung
Quốc. Với vị trí địa lý vô cùng thuận lợi1 đã tạo điều kiện để Macao phát triển kinh tế
biển. Năm 1563, thành phố Ma cao đã có hàng vạn người, trong đó có 900 người Bồ
Đào Nha. Từ các cứ điểm tại Trung Quốc, Bồ Đào Nha lợi dụng mạng lưới wako để
đến kinh doanh ở Nhật Bản.
1 Cách không xa các chợ tại Canton và những đảo lân cận làm nơi cung cấp địa điểm bí mật tương đối
lý tưởng cho các hoạt động buôn lậu và một hải cảng an toàn để bảo vệ cho các tàu của họ.
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
74
2. Bồ Đào Nha xâm nhập vào Trung Quốc thông qua hoạt động truyền giáo
của Dòng Tên
Sau khi giáo phận Goa được thiết lập (1533), các giáo đoàn Bồ Đào Nha đã đến
Đông Nam Á và sau đó là Trung Quốc để thực hiện công cuộc truyền giáo. Đối diện
với một đất nước “vào đầu thế kỷ XVII có khoảng 200 đến 230 triệu dân, chiếm 1/3
tổng dân số thế giới, và lớn hơn số dân của tất cả các nước châu Âu cộng lại” [4; 6]
khiến các linh mục Dòng Tên không khỏi choáng ngợp.
Linh mục Dòng Tên Francis Xavier là người đầu tiên thể hiện mong muốn phát
triển cộng đồng Kitô hữu tại Trung Quốc. Do không thể cập bến một cách chính thức,
Xavier thông qua thuyền của các tư thương ẩn lậu xâm nhập Trung Quốc từ đảo
Shangchuan (Đài Sơn, Giang Môn). Mệt mỏi sau chuyến hành trình vất vả, Xavier
qua đời vào ngày 3/12/1552, kết thúc sự nghiệp truyền giáo của mình ở phương
Đông. Tiếp nối con đường của Xavier, năm 1555, linh mục Melchior Nunes Barreto
(1520-1571) theo thuyền đến Quảng Châu và ở lại thành phố này trong 10 tháng.
Nhưng khi hội chợ thương mại định kỳ 6 tháng kết thúc, ông phải rời khỏi Trung Quốc.
Những thất bại ban đầu này đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy Giáo hội Rome
nỗ lực hơn nữa trong công cuộc truyền đạo tại quốc gia rộng lớn này.
Linh mục đóng vai trò quan trọng tạo nên sự thay đổi bước ngoặt trong quá trình
truyền giáo của Dòng Tên là Alessandro Valignano (1539-1606). Dựa vào những
chuyến đi để tìm hiểu tình hình ở Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Quốc và
Nhật Bản, ông cho rằng các quan chức Trung Quốc có thể sẽ cho phép những người
đàn ông có giáo dục, am hiểu phong tục tập quán và ngôn ngữ bản địa xâm nhập sâu
hơn vào đế quốc của họ [1; 30]. Do đó, Valignano yêu cầu Tỉnh dòng Ấn Độ ở Goa
một nhân vật có đủ điều kiện để gửi đến Macao học tiếng Trung Quốc. Michele
Ruggieri (1543-1607) là người được chọn. Đến Trung Quốc, Ruggieri hoàn toàn đắm
mình trong việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa của quốc gia này. Dòng Tên đã tạo
những điều kiện thuận lợi nhất cho nhiệm vụ của Ruggieri. Theo chỉ dẫn của
Valignano, Ruggieri phải học hỏi phương ngữ Nanjing (Nam Kinh) được sử dụng bởi
các văn nhân người Trung Quốc chứ không phải là tiếng Quảng Châu của phần đông
dân cư tại Macao và Quảng Đông.
Do có thể sử dụng phương ngữ, Ruggieri nhanh chóng thu hút sự chú ý của
quan lại địa phương và được cho phép ở lại Quảng Châu một cách chính thức trong
gần ba năm (1580-1582). Dựa vào những tri thức được lĩnh hội, ông tìm cách thiết lập
mối quan hệ thân thiết với giới chức địa phương như tổng đốc tỉnh Quảng Đông, một
quân sư và vài quan chức nhỏ khác. Chính điều này góp phần tạo ra thuận lợi nhất
CÁCH THỨC XÁC LẬP QUAN HỆ CỦA BỒ ĐÀO NHA
75
định cho công việc của Ruggieri vì cư dân có thể tiếp xúc một cách thoải mái với ông
mà không quá lo sợ về sự trừng phạt từ chính quyền.
Bằng cách nhận sự bảo vệ từ giới quan chức có quyền lực, Ruggieri đã định hình
chiến lược truyền giáo mới cho linh mục Dòng Tên tại Trung Quốc trong gần ba thế kỷ.
Mặc dù một số học giả cho rằng Matteo Ricci, bạn đồng hành đầu tiên của Ruggieri là
người đặt nền móng cho công cuộc truyền giáo tại Trung Quốc, nhưng vinh dự đó nên
thuộc về Ruggieri. Điều này một phần xuất phát từ quan hệ ngoại giao của ông tại Quảng
Châu khi Dòng Tên không chỉ được cho phép định cư bên trong đế quốc Minh triều từ
năm 1582 mà còn được giao cho một đền thờ ở Zhaoqing (Triệu Khánh), trung tâm tỉnh
Quảng Đông.
Để hỗ trợ cho công việc của Ruggieri, Matteo Ricci1 (1552-1610) và Francesco
Pasio (1554-1612) đã được phái đến Trung Quốc. Hai linh mục lưu lại ở Triệu Khánh
trong 6 năm, tiếp tục công việc nghiên cứu và tìm cách để tuyên truyền tôn giáo của
họ có hiệu quả [1; 33]. “Matteo Ricci nhanh chóng nhận ra rằng kiến thức khoa học
và thậm chí là khả năng ghi nhớ bẩm sinh của ông gây ấn tượng mạnh mẽ, thu hút sự
chú ý của tầng lớp văn nhân Trung Quốc”. Cùng với Ruggieri, Ricci bên cạnh việc
thỏa mãn trí tò mò của các vị khách về hình học Euclid, vị trí của Trung Quốc trên
bản đồ thế giới, giải thích chức năng của hỗn thiên nghi và lăng kính thủy tinh thì
cũng cố gắng thu hút sự chú ý của họ vào bức tranh sơn mài Chúa và Đức Mẹ đồng
trinh. Vào cuối năm 1584, hai linh mục phiên dịch hoàn chỉnh Paternoster (Bài kinh
cầu Chúa), Ten Commandments (Mười điều răn), Ave Maria (Kinh cầu nguyện Đức
mẹ đồng trinh) để giúp nhân dân hiểu hơn về Thiên chúa giáo [1; 34].
Từ Quảng Đông, theo lời mời của Wang Pan - quan kinh lý Quảng Đông và
Jiangxi (Giang Tây), Ruggieri đi cùng Almeida đến Peking (Bắc Kinh) vào tháng
11/1585. Mặc dù không đến được thủ đô nhưng họ đã qua thủ phủ tỉnh Giang Tây,
Nam Xương, đến Jingdezhen (Cảnh Đức Trấn) nơi “cung ứng gần như toàn bộ nhu
cầu đồ sứ cho Ấn Độ và châu Âu” [4; 51]. Vào năm 1587, họ cũng thực hiện các
chuyến thăm đến Quảng Châu và Huguang. Tận mắt chứng kiến sự rộng lớn của đất
nước Trung Quốc cũng như sự đông đúc của cư dân, các linh mục Dòng Tên hiểu
rằng trách nhiệm của họ sẽ nặng nề nhưng không kém phần vinh quang. Họ đang xây
dựng những nền tảng đầu tiên cho quá trình truyền bá Thiên Chúa giáo tại một trong
những quốc gia rộng lớn nhất thế giới thời bấy giờ.
Việc mở rộng phạm vi truyền giáo khiến Dòng Tên tại Trung Quốc phải đối diện
với vấn đề thiếu linh mục ngày một trầm trọng. Vì vậy, bên cạnh việc bổ sung nguồn
1 Tên Trung Quốc của ông là Li Madou.
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
76
nhân lực từ Goa1 thì việc đào tạo các Ky tô hữu người Trung Quốc được sinh ra ở
Macao hoặc có sự hỗn huyết với người Bồ Đào Nha bước đầu được quan tâm2.
Như vậy, nếu tính từ năm 1513, khi người Bồ Đào Nha đầu tiên đến giao thương
tại các hải cảng ven biển Trung Quốc thì Dòng Tên đã phải mất gần một thế kỷ để có thể
xâm nhập xã hội Trung Quốc và truyền bá tôn giáo của mình. Điều này vừa cho thấy sự
khó khăn mà các linh mục Bồ Đào Nha phải vượt qua vừa chứng minh nỗ lực không
ngừng nghỉ của họ để mang Thiên Chúa giáo đến các vùng đất khác nhau trong lãnh thổ
Trung Quốc.
3. Vài đối sánh về cách thức xác lập quan hệ của Bồ Đào Nha ở Trung
Quốc và Ấn Độ
Qua phần trình bày ở trên, có thể thấy cách thức xác lập quan hệ của Bồ Đào
Nha ở Trung Quốc, Ấn Độ có nhiều nét tương đồng. Ở cả hai quốc gia này, Bồ Đào
Nha đều sử dụng thương mại và truyền giáo làm phương thức chủ yếu để xâm nhập.
Bồ Đào Nha cũng tiến hành xác lập mạng lưới thương điếm trải dài từ Ấn Độ đến
Trung Quốc nhằm kết nối hoạt động, góp phần tạo dựng nên Estado da India. Tuy có
nhiều điểm chung nhưng sự khác nhau trong chiều sâu văn hóa của hai quốc gia đã
khiến cách thức Bồ Đào Nha sử dụng có nhiều điểm dị biệt.
Thứ nhất, xét về hoạt động thương mại
Về mặt thời gian, theo tuyến đường vòng qua mũi Hảo Vọng, các cứ điểm ven
biển phía Tây Ấn Độ là mục tiêu trong quá trình bành trướng của Bồ Đào Nha ngay
từ đầu thế kỷ XVI (1502)⋅. Sau đó hơn một nửa thế kỷ, thương điếm Macao (theo
đúng nghĩa của nó) mới chính thức được xác lập tại Trung Quốc (1557).
Xét về phạm vi không gian, hai cụm thương điếm này được phân bố trong hai
không gian hoàn toàn tách biệt nhau (nếu không tính sự kết nối của các cứ điểm tại
Đông Nam Á) với mức độ hoạt động thương mại biển không giống nhau. Một mạng
lưới được phân bố rộng khắp trên Ấn Độ Dương bắt đầu từ ven bờ Tây Ấn đến vịnh
Bengal đầy sôi động với sự tham gia của nhiều tầng lớp thương nhân khác nhau như
Ấn Độ giáo, Hồi giáo Ở chiều ngược lại là khung cảnh trầm lắng, rời rạc do chính
sách hải cấm của triều nhà Minh. Ngoài những hoạt động tư thương lậu và mạng lưới
cướp biển Wako thì những quan hệ giao thương chính thức đều không tồn tại. Vì thế,
1 Vào giữa những năm 1590, Giáo hội Rome cũng có những bổ sung cần thiết cho công cuộc truyền
giáo tại Trung Quốc với một giáo sĩ người Italia và 2 người Bồ Đào Nha: Lazzaro Cattaneo (1560-
1640), João Soeiro (1556-1607), và João da Rocha (1565-1623) [1; 40].
2 Năm 1591, Duarte de Sande chuyển giao hai người Macao: Sebastião Fernandes (1562-1621) và
Francisco Martins (1545-1604) đến Shaozhou (Thiều Quan) để đào tạo trợ lý giám mục.
CÁCH THỨC XÁC LẬP QUAN HỆ CỦA BỒ ĐÀO NHA
77
phạm vi không gian có phần hạn chế với một số cứ điểm tại Canton, Kwangtung,
Shang-ch'uan, Lampacau và cuối cùng là Macao.
Chính sự khác nhau về thời gian, không gian cũng như nhiều yếu tố khác đã chi
phối cách thức Bồ Đào Nha chọn lựa để thiết lập hai mạng lưới thương điếm này.
Mặc dù thương mại và truyền giáo là mục tiêu và cũng là phương thức xâm nhập của
Bồ Đào Nha vào Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng mức độ đậm nhạt có nét dị biệt. Tại
Ấn Độ, hoàng gia Bồ tận dụng ưu thế về quân sự (nhất là kỹ thuật pháo binh) để
chiếm đóng, xây dựng pháo đài với thương điếm đầu tiên tại Calicut (1502). Chỉ
trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ, bằng việc chia rẽ, phân tán lực lượng các Hồi vương
kết hợp với kỹ thuật quân sự hiện đại, Bồ Đào Nha đã xây dựng mạng lưới dày đặc
với những thương điếm nổi bật như: Ceylon, Goa (1510), Diu, Daman, Salsette,
Bassein, Chaul và Bombay ở phía Tây Ấn Độ, San Thome (São Tome) gần Madras
và Ugolim (Hooghly), Chittagong, Syriam (ngày nay gần Rangoon), Dianga (ở
Arakan) ở vịnh Bengal; Nagapattinam, Porto Novo, Masulipatam, Pulicat, Ugolim
(ngày nay gần Calcutta) ở duyên hải Coromandel. Đây là thành tựu to lớn và là chìa
khóa cho sự ra đời Estado da India (Liên bang Bồ Đào Nha tại Ấn Độ). Cách thức
mà hoàng gia Bồ áp dụng tại Ấn Độ lại không thể thực thi trọn vẹn ở Trung Quốc.
Quá trình tiếp xúc giữa người Bồ Đào Nha và người Trung Quốc thông qua hoạt
động của các tư thương diễn ra tương đối chậm chạp và không có biến động lớn. Vì
vậy, ngoại trừ Macao, người Bồ Đào Nha không xác lập được thêm bất kỳ một
nhượng địa nào khác trên lãnh thổ Trung Quốc, có chăng chỉ là sự tham gia vào các
hội chợ được tổ chức định kỳ hàng năm để thu mua hàng hóa. Bản thân Macao
không thể tồn tại biệt lập mà phải tận dụng mạng lưới Wako trước đó để đến buôn
bán tại Nhật Bản và các thương nhân Bồ chấp nhận vai trò trung gian trên tuyến
thương mại Naggasaki - Macao.
Thứ hai, đối với hoạt động truyền giáo
Ngay sau khi lực lượng viễn chinh Bồ Đào Nha tìm ra Ấn Độ thì các linh mục
truyền giáo cũng theo các chuyến tàu đến vùng đất này. Nhiệm vụ ban đầu của các
giáo sĩ là chăm sóc đời sống tinh thần cho binh lính, quan chức và thương nhân Bồ
Đào Nha. Vì thế, phần lớn hoạt động của các linh mục vào đầu thế kỷ XVI diễn ra
trong cộng đồng người Bồ Đào Nha đang sinh sống tại Ấn Độ. Cũng giống như
Trung Quốc sau này, việc xâm nhập vào một xã hội phương Đông cổ truyền không
phải là vấn đề dễ dàng. Ấn Độ là một trong 5 nền văn minh tối cổ của nhân loại, chứa
đựng những giá trị sâu sắc trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng. Mặc dù vào thế kỷ
XV, XVI, Hồi giáo là quốc giáo trong toàn bộ đế quốc Mugol cũng như các tiểu quốc
miền duyên hải nhưng phần lớn cư dân vẫn bảo lưu tôn giáo cổ truyền của họ - Hindu
giáo. Sự khác nhau về mọi phương diện giữa Thiên Chúa giáo với Hindu giáo và Hồi
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
78
giáo đã khiến cho quá trình truyền giáo của các linh mục Bồ Đào Nha gặp không ít
trở ngại. Cánh cửa đến với thế giới của cư dân Ấn Độ chỉ được mở dần dần thông qua
một quá trình hoạt động khá lâu dài và kiên nhẫn của các giáo sĩ. Bên cạnh đó, ngôn
ngữ cũng trở thành vấn đề nghiêm trọng. Những linh mục Bồ Đào Nha chỉ có thể sử
dụng ngữ hệ Latin hoàn toàn bất lực khi đi vào một xã hội với sự đa dạng về sắc tộc
và phong phú về ngôn ngữ. Ngoài tiếng Sankrit - Pali được sử dụng trong đại bộ phận
cư dân, Ba Tư là ngôn ngữ chính thức của triều đình Mugol thì có đến hàng trăm
phương ngữ khác nhau, có một số phương ngữ chưa hình thành chữ viết. Đó cũng
chính là khó khăn mà các linh mục dòng Tên gặp phải khi xâm nhập vào Trung Quốc.
Cũng giống Ấn Độ, Trung Quốc có một nền văn minh dày và phát triển liên tục.
Trung Quốc còn là mảnh đất mà nhiều hệ tư tưởng nảy sinh và hội tụ. Đạo Nho
không chỉ là hệ tư tưởng chính thống mà quan trọng hơn nó đã trở thành yếu tố không
thể thiếu trong đời sống tinh thần của mọi tầng lớp cư dân. Vì thế, những nhà truyền
giáo không chỉ đơn giản là mang một tôn giáo mới đến cho một cộng đồng trước kia
chưa hề có điều kiện tiếp xúc mà quan trọng là làm thế nào để họ từ bỏ những tín
ngưỡng trước kia để toàn tâm, toàn ý phụng sự Thiên Chúa giáo. Khoảng cách và sự
khác biệt quá lớn giữa văn minh phương Đông và văn minh phương Tây trở thành
rào cản cho quá trình truyền bá Thiên Chúa giáo của các linh mục Bồ Đào Nha.
Thế nhưng, bên cạnh những đặc điểm chung, hoạt động truyền giáo của các giáo
đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc thế kỷ XVI vẫn có những nét riêng được
phân biệt khá rõ nét.
Chúng ta có thể thấy, tại Ấn Độ, các linh mục nhận được sự hỗ trợ tích cực từ
Hoàng gia Bồ Đào Nha. Đây không chỉ là nghĩa vụ mà còn là cam kết đã được quy
định giữa Giáo hội Rome và vua Bồ Đào Nha. Ngay khi chiếm đóng và thiết lập được
thương điếm, bên cạnh các đại lý, các pháo đài thì nhà thờ cũng được xây dựng để
phục vụ cho các nghi lễ Thiên Chúa giáo của cộng đồng cư dân Bồ Đào Nha sinh
sống tại đây. Ngay sau khi chiếm được Goa (1510) thì Goa cũng ngay lập tức trở
thành trung tâm cho các hoạt động truyền giáo tại Ấn Độ. Từ Goa, các linh mục được
tạo điều kiện để xâm nhập vào cộng đồng của cư dân Ấn Độ miền duyên hải. Tuy
nhiên, đây không phải là sự cố gắng của một cá nhân hoặc một giáo đoàn mà sau lưng
các linh mục luôn có đội quân hùng hậu của Estado da India. Sự cải đạo được tiến
hành thông qua con đường cưỡng bức đồng loạt (nhất là tại các cứ điểm thương mại
của Bồ) nên số lượng giáo dân được tăng lên nhanh chóng.
Tuy vậy, tại Trung Quốc, sự nỗ lực của các nhân các linh mục vẫn đóng vai trò
quan trọng nhất. Do đặc trưng của mạng lưới thương mại tại khu vực này, Bồ Đào
Nha (ngoài Macao) đã không thể thiết lập bất kỳ một thương điếm nào trong lục địa.
Do đó, Dòng Tên đã phải tự mình nỗ lực xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc mà
CÁCH THỨC XÁC LẬP QUAN HỆ CỦA BỒ ĐÀO NHA
79
không có được bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía chính quyền. Quá trình truyền giáo ban
đầu vô cùng khó khăn khi họ chỉ có thể sử dụng đức tin và lòng nhiệt thành để hoạt
động. Không có bất kỳ một đợt cải đạo mang tính cưỡng bức nào, sự gia nhập Thiên
Chúa giáo của cư dân Trung Hoa hoàn toàn mang tính chất tự nguyện.
4. Kết luận
Thứ nhất, Bồ Đào Nha xâm nhập vào Trung Quốc với mong muốn thiết lập
được các cứ điểm thương mại, bành trướng quyền lực tại vùng Viễn Đông. Thế
nhưng, do những đặc trưng về lịch sử và bối cảnh, Bồ Đào Nha đã không thể nào áp
dụng mô hình của Estado da India tại Trung Quốc.
Thứ hai, quá trình xác lập ảnh hưởng của Bồ Đào Nha trong xã hội Trung Hoa
diễn ra qua nhiều giai đoạn với hai cách thức chính: thương mại và tôn giáo. Thông
qua hoạt động của các tư thương, Bồ Đào Nha đã dần xác lập các đại lý buôn bán tại
Guangdong, đầu tiên tại Shang-ch'uan, sau đó là Lampacau và cuối cùng là Macao
(1557). Trong khi đó, các linh mục dòng Tên phải trải qua một thời kỳ dài với rất
nhiều khó khăn trở ngại để xâm nhập vào đời sống tinh thần của cư dân Trung Hoa.
Việc lựa chọn các thức truyền đạo mềm mỏng và khéo léo đã mang đến cho dòng Tên
những thành tựu đầu tiên trong quá trình hoạt động của mình.
Thứ ba, thành công lớn nhất của Bồ Đào Nha là sự xác lập thương điếm Macao.
Tại đây, một thể chế quản lý mới đã được áp dụng mà trong đó thương mại biển đóng
vai trò chi phối. Bên cạnh đó, Macao cũng chính thức trở thành giáo phận của Giáo
hội Thiên Chúa giáo Rome vào năm 1576. Đây không chỉ là sự kiện đánh dấu vai trò
và xác định rõ ràng chức năng của Macao mà còn là dấu mốc đáng nhớ trong quá
trình thiết lập quan hệ giữa Bồ Đào Nha và Trung Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Brockey L.M (2009), Journey to the East: The Jesuit Mission to China, 1579–
1724, Harvard University Press.
[2] Disney A.R (2009), A History of Portugal and the Portuguese Empire: From
Beginnings to 1807, Cambridge University Press, London.
[3] Ljungstedt Anders (1836), An historical sketch of the Portuguese settlements in
China; and of the Roman Catholic Church and mission in China, Boston, 323 pp.
[4] Manel Ollé (2008), The Jesuit portrayals of china between 1583 – 1590, BPJS,
16, 45-57.
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
80
[5] Newitt Malyn (2005), A History of Portuguese Overseas Expansion, 1400–1668,
Taylor & Francis e-Library, London and New York.
[6] Souza, G.B.(2004), The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in
China and the South China sea 1630 – 1754, Cambridge University press,
London.
[7] Subrahmanyam, Sanjay (1993), The Portuguese Empire in Asia 1500 – 1700, a
political and economic history, Longman, London and New York.
[8] Twitchett D.C, Mote F.W (1998), The Cambridge History of China: Volume 8,
The Ming Dynasty (1368-1644), Cambridge University Press, London, 1.231 pp.
Title: THE WAY TO ESTABLISH THE RELATIONSHIP BETWEEN
PORTUGAL AND CHINA (16th CENTURY)
NGUYEN THI VINH LINH
Quang Nam University
Abstract: In 1505, Estado da India, the first colony of Portugal in the Orient was
established. With the help of entrenched fortifications on the Western India coast,
Portugal gradually built commercial firm systems in Bengal bay, Southeast Asia and
the Far East. China, one of the most powerful empires in Asia then, became a big
challenger to the expansion of the Portuguese Crown. Therefore, Portugal had to use
various ways to penetrate into this vast empire.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2147_0477_2134833.pdf