Tài liệu Cách dạy và học chữ Hán của người việt xưa dưới góc nhìn của phương pháp giảng dạy hiện đại: 105KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
HOÀNG THỊ THU THỦY*
*Đại học Hạ Môn – Trung Quốc, thuyhoangdph@hcmussh.edu.vn
Ngày nhận bài: 02/4/2019; ngày sửa chữa: 29/5/2019; ngày duyệt đăng: 10/6/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua hơn 2000 năm thăng trầm lịch sử,
bao phen nước ta đổi chữ thay triều, nhưng gần
như chữ Hán đã chiếm một địa vị không thể thay
thế trong cuộc sống người Việt Nam xưa. Trong tư
duy người học hiện đại hiện nay, đa phần đều lên
án cách học của người xưa là “học vẹt”, lối học
thuộc lòng sách vở... Thậm chí đã từng có thời gian
chữ Hán của Việt Nam “bị liên lụy”, do cách học
chữ Hán cứng nhắc, không phát triển được tư duy
người học. Nhưng nếu xem xét một cách khách
quan, tổng quát về phương pháp học cũng như hệ
thống giáo trình chữ Hán của người xưa có lẽ chúng
CÁCH DẠY VÀ HỌC CHỮ HÁN
CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA DƯỚI GÓC NHÌN
CỦA PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY HIỆN ĐẠI
TÓM TẮT
Từng là hệ thống văn tự mượn dùng, vào giai đoạn đầu, chữ Hán đ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách dạy và học chữ Hán của người việt xưa dưới góc nhìn của phương pháp giảng dạy hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
105KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
HOÀNG THỊ THU THỦY*
*Đại học Hạ Môn – Trung Quốc, thuyhoangdph@hcmussh.edu.vn
Ngày nhận bài: 02/4/2019; ngày sửa chữa: 29/5/2019; ngày duyệt đăng: 10/6/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua hơn 2000 năm thăng trầm lịch sử,
bao phen nước ta đổi chữ thay triều, nhưng gần
như chữ Hán đã chiếm một địa vị không thể thay
thế trong cuộc sống người Việt Nam xưa. Trong tư
duy người học hiện đại hiện nay, đa phần đều lên
án cách học của người xưa là “học vẹt”, lối học
thuộc lòng sách vở... Thậm chí đã từng có thời gian
chữ Hán của Việt Nam “bị liên lụy”, do cách học
chữ Hán cứng nhắc, không phát triển được tư duy
người học. Nhưng nếu xem xét một cách khách
quan, tổng quát về phương pháp học cũng như hệ
thống giáo trình chữ Hán của người xưa có lẽ chúng
CÁCH DẠY VÀ HỌC CHỮ HÁN
CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA DƯỚI GÓC NHÌN
CỦA PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY HIỆN ĐẠI
TÓM TẮT
Từng là hệ thống văn tự mượn dùng, vào giai đoạn đầu, chữ Hán đóng vai trò như hệ thống văn tự
ngoại ngữ, ai cũng biết thế giới đánh giá chữ Hán là một trong những thứ chữ khó học, khó nắm
bắt nhất. Vậy ngày xưa người Việt Nam ta học chữ Hán như thế nào, hệ thống sách giáo khoa dạy
chữ Hán được biên soạn thế nào cho phù hợp với trình độ, độ tuổi của người học. Người viết thiết
nghĩ, hẳn phải có một hệ thống sách vở dạy chữ Hán hoàn chỉnh, có thứ tự lớp lang theo trình độ
và độ tuổi người học thì Việt Nam mới có thể đào tạo ra vô vàn những danh sĩ nổi tiếng uyên bác,
có thể sánh ngang với các nước trong khu vực sử dụng chữ Hán (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật
Bản...), mà sử sách vẫn thường nhắc đến các cuộc đối thơ, khẩu thí giữa các sứ giả nước ta với
láng giềng. Vậy nên, bài viết này muốn từ góc độ giảng dạy ngoại ngữ hiện đại để nhìn nhận cách
học chữ Hán của người Việt xưa, nhằm ôn cố tri tân, giữ gìn những truyền thống cha ông xưa mà
vẫn hiện đại, hữu dụng.
Từ khóa: chữ Hán, phương pháp học chữ Hán, sách giáo khoa dạy chữ Hán
ta có thêm minh chứng về truyền thống học hành
của người Việt: hiếu học, thông minh, và lôgic,
trong phạm vi nào đó còn đi trước thời đại trong
phương pháp giáo dục sớm, và giáo dục gia đình.
2. PHƯƠNG PHÁP HỌC CHỮ HÁN CỦA
NGƯỜI VIỆT XƯA
2.1. Chiết tự
Ngày nay Việt Nam không còn sử dụng chữ
Hán như một hệ thống văn tự quốc gia, đa phần
người Việt không thường xuyên sử dụng chữ Hán,
nhưng người Việt vẫn yêu chữ Hán, trân trọng
106 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
con chữ, hằng năm xếp hàng “thỉnh” chữ về nhà.
So với các nước đồng văn khác, người Việt nâng
niu chữ Hán, tôn thờ đến mức gọi là “chữ thánh
hiền”, là thứ chữ chỉ dùng để tải đạo, để ghi chép
sử sách.. Vậy có phải người Việt phải đi học hay
mời thầy về dạy mới biết chữ nghĩa?
Trong các câu chuyện kể dân gian cho trẻ em
Việt Nam, không thiếu những giai thoại đố chữ
như: Trạng Nguyễn Hiền “Tự là chữ, cắt giằng
đầu, chữ tử là con, con ai con ấy?” (chữ “字” và
“子”), “Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là
đứa, đứa nào đứa này!” (chữ “于” và “丁”). Lại có
giai thoại cậu bé Lê Quý Đôn trêu người, bên bờ
sông, trần truồng dang rộng tay chân đố người hỏi
đường là cái chữ chi? (chữ “太”) ... Tất cả những
giai thoại vui này nghe thì tưởng ấy chỉ là những
câu chuyện trẻ con, hay dân gian trào phúng những
kẻ ở giai cấp thống trị ngu dốt, hợm hĩnh, ngạo
mạn, và đề cao trí tuệ người xưa, nhưng đối với trẻ
em Việt Nam xưa, thông qua các các câu chuyện
truyền miệng đã bước đầu làm quen với vài con
chữ đơn giản, các chữ Hán xuất hiện trong giai
thoại vừa gây hưng phấn, hấp dẫn trí tò mò của trẻ,
lại giúp trẻ khắc sâu những nét chữ Hán đầu đời.
Học chữ Hán qua giai thoại chuyện kể hay
ca dao văn vần đều dùng phương pháp “chiết
tự”, phương pháp này vốn là một phương thức
bói toán xem chữ ngày xưa1, nhưng về sau “chiết
tự” trở thành phương pháp học chữ Hán phổ biến
của người Việt, tách nét những chữ Hán phức tạp
thành các chữ Hán, nét bút đơn giản, cơ bản hơn để
người học nắm bắt dễ dàng cấu tạo của chữ Hán đó.
Ví dụ:
Chim chích mà đậu cành tre,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.
Đức “德” chúng ta hay biết được tách ra thành
"Chim chích mà đậu cành tre"(彳), và các chữ
‘nhất’(一), ‘thập’(十),‘tứ’(四), ‘tâm’(心).
Chữ lập (立) đập chữ viết (曰), chữ viết đập
chữ thập (十). (Chữ chương 章)
Theo thống kê của Nguyễn Thị Hường (2002),
tỷ lệ chữ được chiết tự về mặt hình thể 60% (44/73
chữ), chiết tự về mặt ý nghĩa chiếm 38% (28/73
chữ). Chỉ có 2% còn lại là số chữ được chiết tự về
mặt âm đọc (3,77-82). Tuy tác giả không ghi rõ cơ
sở dữ liệu của 73 chữ Hán này nhưng với trẻ nhỏ
từ 3-5 tuổi, biết được khoảng gần trăm chữ cộng
thêm vô số các chữ bộ phận được tách ra giải thích
kèm, một chữ Hán chiết tự được từ 2-5 bộ thủ hay
chữ Hán kèm theo đã tạo nên một vốn từ khá lớn,
như chữ Đức (德) gồm 1 bộ thủ và 4 chữ Hán khác
cấu thành (ví dụ bên trên) thì khi đến tuổi đi học,
trong tiềm thức trẻ đã có số vốn ngoài 300 chữ
Hán là phương pháp chiết tự đã có hiệu quả to lớn
trong dạy ngoại ngữ.
2.2. Vần hóa bài học chữ Hán
Trong cuộc sống hàng ngày của người Việt có
thói quen trích dẫn ca dao, tục ngữ, vè, đối... trong
hoạt động giao tiếp hàng ngày.
Cô kia đội nón chờ ai?
Chớ lất chú chệt mà hoài mất công. (chữ “安”)
Nhất diện lưỡng mi
Nhất sấu nhất phi
Nhất niên nhất nguyệt
Nhất nhật tam kỳ. (chữ “八”)
Dạng ca dao tục ngữ dạy chữ Hán này hiện
nay vẫn được các bạn trẻ hiện đại ngâm nga, điều
đó chứng tỏ tính ứng dụng của nó vẫn còn, hoàn
toàn không lỗi thời. Đối với trẻ nhỏ qua 3, 5 tuổi,
khả năng học nói đã tốt và có một vốn từ kha khá
lại sẽ thích thú với các dạng đố chữ có vần như thế
này, dễ thuộc, khi vui đùa đố chữ nhau cũng thành
một trò chơi hấp dẫn. Chưa cần biết viết nhưng trẻ
sẽ thông qua các câu văn có vần mà nắm bắt nét
chữ, tạo bước đệm cho trẻ khi đến tuổi cắp sách
đến trường.
Tuy đây là phương thức học vẹt, trẻ chỉ ngâm
nga đọc vô thức khi chơi đùa, nhưng ở thời đại đó
với độ tuổi đó các học này được đánh giá là có hiệu
quả. Khi đến tuổi đến trường trẻ bắt đầu được làm
107KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
quen với sách chữ Hán vỡ lòng “Nhất thiên tự”
(一千字), “Tam thiên tự”(三千字) tên sách
cũng chính là nội dung của sách, gồm số lượng
1000 chữ và 3000 chữ Hán thông dụng:
Ví dụ: bài đọc đầu tiên trong quyển Tam thiên tự
天𡗶 地坦 举拮 存噲 子𡥵 孙𡥙 六𦒹
三𠀧 家茄 国渃 先𠓀 後𢖖
Dịch nghĩa: Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn,
tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc
nước, tiên trước hậu sau
Vẫn cách biên soạn theo lối văn vần, bao gồm
một chữ Hán đi kèm một chữ Nôm giải nghĩa, qua
các lần tái bản sau, sách được chú thêm phần chữ
quốc ngữ cho phù hợp thời đại. Phương pháp vần
hóa các cặp chữ Hán Nôm phù hợp cho trẻ trước
quen với việc học chữ Hán do vẫn như cách chơi
trò đố chữ khi bé, nhưng đã được nâng lên ở mức
độ cao hơn, các chữ phức tạp hơn, nhiều nét hơn.
Các nhà nho Việt Nam xưa nổi tiếng nghiêm khắc,
đạo mạo ít lời, nhưng thật sự đã luôn đứng từ góc
độ người học để biên soạn sách giáo khoa sao cho
phù hợp trình độ đối tượng học, khác gì với khẩu
hiệu “lấy người học làm trung tâm” của giảng dạy
hiện đại?
Ở đây cũng cần nhắc đến vấn đề chữ Nôm
được sáng tạo dựa trên cấu tạo cơ bản của chữ Hán,
nghĩa là phải biết chữ Hán trước rồi mới có thể học
chữ Nôm. Do đó, trẻ nhỏ từ các câu chuyện dân
gian, các câu vè vần hay đọc trước làm quen chữ
Hán, tích lũy dần kiến thức để sau đi học được dạy
thêm về nét chữ dân tộc mình, ấy cũng là tính hợp
lý trong cách phân chia nội dung giảng dạy cho
phù hợp từng đối tượng học của người Việt xưa.
2.3. Phương pháp lặp lại, thực hành
Trong giảng dạy và học ngoại ngữ, một trong
những cách học từ vựng phổ biến nhất, tuy hơi
khô cứng nhưng với người đã có trình độ trung
bình, có vốn từ cơ bản thì việc mở rộng vốn từ và
nâng độ khó lớp từ mới được chú trọng hơn cả.
Nếu ở lớp vỡ lòng, phương pháp học chữ Hán chú
trọng nhiều vào việc tạo hứng thú cho trẻ thì ở mức
độ cao hơn, người học được học bằng những giáo
trình biên soạn theo lối tự từ điển, một số lượng
lớn từ vựng được lặp đi lặp lại trong các bài học,
kể cả cấu trúc câu, như cấu trúc câu “A là B” xuất
hiện hơn 4000 lần trong quyển giáo trình chữ Hán
“Nhật dụng thường đàm” (日用常谈) của Phạm
Đình Hổ, chữ “thiên” (天) xuất hiện 42 lần trong
toàn bộ giáo trình2 , chữ “quan” (官) xuất hiện 22
lần trong toàn bộ giáo trình3.
Ngoài phương pháp lặp lại nhiều lần nhằm
giúp người học khắc sâu hơn từ vựng mới thì, các
nhà biên soạn còn tránh gây nhàm chán cho người
học nên dùng lặp lại trên cơ sở mở rộng vốn từ và
phần giải thích chữ Nôm chú thêm chữ Hán, như
chữ “thiên” (天) đã nhắc ở trên, chữ này còn xuất
hiện trong các từ vựng như:
天神, 各神天界 (thiên thần, các thần thiên giới),
Nhật dụng thường đàm (日用常谈), tr.5, cột 2.
徐道行禪師, 羅翁聖徐本囯李時人證道
在山西鎮佛跡山天福寺偌號厨柴後身爲李
神宗又後身爲黎神宗 (Dịch âm Hán Việt: Từ
Đạo Hạnh Thiền Sư, là ông Thánh Từ bản quốc
Lí thời nhân, chứng đạo tại Sơn Tây trấn, Phật
Tích sơn, Thiên Phúc tự, nhạ hiệu Chùa Thầy,
hậu thân vi Lí Thần Tông, hựu hậu thân vi Lê
Thần Tông. Dịch nghĩa: người thời Lí, đắc đạo
ở chùa Thiên Phúc còn có hiệu là Chùa Thầy
tại núi Phật Tích trấn Sơn Tây, có hậu thân là Lí
Thần Tông, lại thêm hậu thân là Lê Thần Tông),
Nhật dụng thường đàm (日用常谈), tr.32, cột 3.
3. HỆ THỐNG GIÁO TRÌNH DẠY CHỮ
HÁN CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA
3.1. Sách do người Việt biên soạn
Do đến nay, vì nhiều nguyên nhân như chiến
tranh, loạn lạc, khí hậu, và kể cả không còn sử
dụng chữ Hán Nôm mà sách vở điển tịch cổ của
Việt Nam hiện còn bảo tồn rất ít, niên đại cũng
không quá cổ xưa, quyển Chỉ âm ngọc nam giải
nghĩa (指南玉音解义) đoán có từ thế kỷ 14,15
108 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
được xem là cổ nhất hiện nay. Các sách giáo khoa,
sách vỡ lòng dạy chữ Hán không nhiều, tính luôn
cả dạng sách đa dụng vừa dạy chữ Hán vừa kiêm
tự – từ điển, bách khoa thư như Nhật dụng thường
đàm (日用常谈) cũng chỉ được khoảng hơn chục
cuốn: Nhất thiên tự (千字文), Tam thiên tự (三千
字), Ngũ thiên tự (五千字), Càn khôn tam thiên tự
(乾坤三千字), Ấu học Hán tự tân thư (幼学汉字
新书)
Các sách chuyên dạy chữ Hán của Việt Nam
không nhiều, khi học trò đã có trình độ nhất định
thì chữ Hán sẽ được học kèm theo kiến thức khác
như: Huấn mông tập khúc hội yếu (训蒙集曲会
要) dạy về đạo đức lối sống; Ấu học đối liễn tập
(幼学对联集) (A.2241, MF.1985) chủ yếu là sách
chữ Hán và cách gieo vần cho trẻ nhỏ; Ấu học văn
thức (幼学文式) (A.1144) là sách dạy cách chọn
chữ, viết chính tả; Sơ học chỉ nam (初学指南)
(A.1634, MF.2325) là sách dạy chữ Hán, dạy kỷ
luật, đạo đức Nho giáo4... Dạng thức biên soạn như
vậy cũng thể hiện rõ tư duy của người xưa đối với
việc học chữ Hán, trong các bài tựa của những sách
trên đều nói rõ mục đích biên soạn là cho học trò
học chữ Hán. Như trong bài tựa Nhật dụng thường
đàm của Phạm Đình Hổ: “因举日用常談授之門
人衍譯訓詁積以成編收以遺之或能粗知所問”5
(Dịch âm Hán Việt: Nhân cử nhật dụng thường
đàm thụ chi môn nhân diễn thích huấn hỗ tích dĩ
thành biên thu dĩ di chi hoặc năng thô tri sở vấn.
Dịch nghĩa: Nhân đó bèn đem những từ hay nói
thường ngày trao cho môn nhân, phiên dịch, huấn
hỗ, tích mãi thành sách. Thu thập lại để truyền
cho mai sau, hoặc có ai biết được cái học vấn của
mình). Sách được biên soạn theo hình thức từ điển,
nội dung theo lối bách khoa thư, đề cập đến mọi
khía cạnh, lĩnh vực có sử dụng chữ Hán của người
Việt xưa. Phổ biến nhất có lẽ là Tam thiên tự và
những sách bổ sung, hiệu chỉnh của nó (Tam thiên
tự, Tam thiên tự giải âm, Tam thiên tự giải âm quốc
ngữ...), do sách được biên soạn có số lượng từ vừa
phải (3000 chữ), từ vựng mang tính thông dụng,
đời sống, hình thức biên soạn theo lối văn vần,
đọc lên thuận miệng dễ nhớ, ấy chính là những
ưu điểm nổi bật của sách. Tuy nhiên, do sách biên
soạn theo lối văn vần, đôi lúc giải thích nghĩa Nôm
hơi khiên cưỡng, như:
Ảnh 1. Sách Tam thiên tự giải âm
Tam thiên tự chữ 3 dòng 3 trang 2 “ngưu
trâu, mã ngựa” ... chữ 9 dòng 3 trang 2 “khuyển
chó, dương dê”
“Ngưu”, nghĩa chính là ‘bò’, mà ‘thủy ngưu’
mới chính xác là trâu, hoặc “Dương” nghĩa
chính là ‘cừu’, mà ‘sơn dương’ mới chính xác là
‘dê’ như trong tiếng Việt, hoặc nghĩa được chọn
cũng nương theo vần, nhưng về mặt chữ Hán thì
không vấn đề gì.
3.2. Sử dụng sách giáo khoa của Trung Quốc
Như trong phần trước có đề cập thì chữ Hán ở
Việt Nam có đời sống riêng, có hướng phát triển
riêng nhưng các nhà Nho vẫn luôn cập nhật tình
hình của Trung Quốc. Nếu có điều kiện các nhà
Nho Việt Nam luôn mong có thể đến gần hơn tri
thức phương Bắc, học chữ Hán cũng là vì mục
đích tiếp cận với chuẩn mực Nho gia. Theo trang
www.cohanvan.com thống kê, 10 quyển Hán văn
kinh điển thường được các nhà Nho Việt xưa sử
dụng trong việc dạy học chữ Hán gồm: Tam tự
kinh, Thiên tự văn, Bách gia tính, Thần đồng thi,
Ấu học quỳnh lâm, Chu tử cách ngôn, Minh đạo
gia huấn, Nhị thập tứ hiếu, Hiếu kinh, Minh tâm
bửu giám.
109KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
Trong thời đại phong kiến Nho học thịnh hành,
việc các sách giáo khoa dạy chữ Hán thông qua
các bài học đạo đức, luân lý để tạo nền tảng và xây
dựng lối sống chuẩn mực cho học trò trở thành
điểm nhấn trong lý luận giáo dục thời bấy giờ.
Tuy chú trọng Nho học, khoa cử tiến thân, nhưng
giáo dục Việt Nam xưa không quy định chặt chẽ
hệ thống giáo trình. Việc dùng giáo trình gì, sách
gì, theo độ tuổi nào đa phần phụ thuộc vào thầy
dạy, mà các thầy đồ Việt Nam lại xem kinh điển
Nho gia (Trung Quốc) là khuôn vàng thước ngọc
để noi theo.
Như đã nói ở trên, nền giáo dục phong kiến
Việt Nam chú trọng kinh văn, học chữ Hán không
ngoài mục đích hỗ trợ việc đọc sách vở điển tịch,
thế nên các sách vỡ lòng sử dụng của Trung Quốc
cũng đều dùng các sách kinh điển dạy luân lý, lịch
sử hay khuyên răn học hành tạo cơ sở, động lực
cho người học sau này.
3.3. Hệ thống sách giáo khoa dạy chữ Hán
của Việt Nam
Cho đến hiện nay, dạy chữ Hán được hiểu như
cung cấp cho người học công cụ để tiếp nhận tri
thức Nho giáo, nhưng đứng ở góc độ giảng dạy
ngoại ngữ, người viết đã làm một khảo sát nhỏ các
sách giáo khoa dạy chữ Hán cổ hiện tồn tại các thư
viện ở Việt Nam thì rõ ràng việc học và dạy chữ Hán
vẫn luôn được sắp xếp theo một trình tự nhất định,
từ đơn giản đến phức tạp, từ từ đơn đến từ ghép.
Đầu tiên trẻ nhỏ sẽ được làm quen với các chữ
Hán cơ bản thông qua các trò chơi, câu đố, lớn
thêm tí nữa trẻ sẽ ê a thuộc lòng các chữ Hán khó
hơn theo lối văn có vần điệu. Chỉ đến khi chính
thức vào lớp, theo thầy, người học lúc này đã có
vốn chữ Hán kha khá, có thể học tiếp những chữ
mới, từ mới thông qua các kiến thức khác.
Khi đã lớn hẳn, thì chữ Hán vẫn luôn là môn
học bắt buộc, nhưng lại được thể hiện thành các
nhóm từ có liên kết, hoặc có trường nghĩa chung
mà người xưa gọi là môn loại. Môn loại là các
nhóm từ được căn cứ theo một đặc điểm chung,
hoặc có đặc tính tương đồng sẽ được tập trung lại
thành một loại, như Nhật dụng thường đàm được
phân 32 môn loại: Thiên văn, Luân tự, Nho giáo,
Đạo giáo, Thích giáo, Thân thể, Thất ốc, Tác dụng,
Thực phẩm, Quả thưởng, Khí dụng (cơ khí), Công
dụng, Du hí (trò chơi), Tật bệnh, Cầm thú, Trùng
loại (sâu bọ, côn trùng) ...
Gần đây, giới nghiên cứu giáo dục học thịnh
hành khái niệm Integration, tích hợp là chương
trình nhằm giúp học sinh có cơ hội vận dụng kiến
thức, kỹ năng của nhiều lĩnh vực chuyên môn để
giải quyết các vấn đề thực tiễn trong học tập7, các
môn ngoại ngữ không chỉ là môn học, mà các loại
ngoại ngữ được tiếp xúc qua các môn học khác để
bồi dưỡng và nâng cao kỹ năng. Vào thời phong
kiến, tuy khái niệm không chính xác như vậy,
nhưng rõ ràng, cách dạy chữ Hán của người xưa
thông qua việc biên soạn sách giáo khoa chữ Hán
có hình thức như tự điển bách khoa thư, hay học
chữ Hán thông qua các môn học Nho gia lý luận
cũng có ý nghĩa tương đương.
4. PHÂN CHIA NỘI DUNG GIẢNG DẠY
THEO TRÌNH ĐỘ VÀ ĐỘ TUỔI NGƯỜI HỌC
Theo bộ Trung Hoa đại từ điển của Từ Nguyệt
Cật, xuất bản năm 1915 đã thống kê, tổng số chữ
Hán hiện có khoảng hơn 48.000, bao gồm các loại
chữ Giáp cốt văn, Kim văn, chữ phồn thể, giản
thể ... Do tính chất địa lý, và các yếu tố lịch sử,
chính trị ... mà Việt Nam cho đến trước năm 1975
tuy vẫn luôn phát triển theo hướng riêng, nhưng
vẫn luôn cập nhật theo xu hướng phát triển của
chữ Hán Trung Quốc. Số lượng chữ Hán Nôm
cũng được nâng lên theo trình độ của người học
1000 chữ (Thiên tự văn), 3000 chữ (Tam thiên tự),
5000 chữ cho cấp bậc thanh thiếu niên cần chuẩn
bị nhiều kiến thức khác để tham gia các cuộc thi
Hương, thi Đình (Ngũ thiên tự, Nhật dụng thường
đàm) ...
Dạy từ chữ đến từ, trẻ nhỏ hoặc người mới học
thường sẽ được hướng dẫn đọc các sách biên soạn
theo chữ, từ đơn, như: Nhất thiên tự, Tam thiên tự..
Nhưng ở Tam thiên tự, các từ đơn được xếp theo
cặp có liên quan về mặt ý nghĩa, hoặc phản nghĩa:
110 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
“牛Ngưu - trâu, 马mã - ngựa; 巨cự - cựa, 牙nha -
răng; 无vô - chăng (không),有hữu - có” nhằm cho
mở rộng vốn từ hơn cho người học.
Trong quyển Ấu học Hán tự tân thư do Dương
Lâm, Đoàn Triển biên soạn đã biên soạn từ từ đơn
sang từ ghép 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ, hoặc cụm sử
dụng từ trong bài học:
Bảng 1. Trích từ vựng trong quyển Ấu học
Hán tự tân thư
Chữ
Hán
Âm
đọc
Hán
Việt
Nghĩa
Chữ
Hán
Âm
đọc
Hán
Việt
Nghĩa
必,则 Tất, tắc ắt, thì 梅必酸 Mai tất
toan
Mơ ắt
chua
桂必辛 Quế tắc
tân
Quế ắt
cay
其,所 Kỳ sở Đó, chỗ
随其时 Tùy kỳ
thời
Tùy thời
đó
随其景 Tùy kỳ
cảnh
Tùy cảnh
đó
天 地 英
气
Thiên
địa anh
khí
Anh khí
trời đất
终而为
人
Chung
nhi vi
nhân
Tụ lại ở
người
人 笑 吾
学愚
Nhân
tiếu ngô
học ngu
Người
cười ta
học dốt
雪耻莫
如学
T u y ế t
sỉ mạc
như học
Rửa nhục
c h ẳ n g
bằng học
言界欺、容界傲、
行界淫、才界贪、
心宜正、意宜诚、
志宜坚、患宜防、
事宜谨
Ngôn giới khi,
dung giới ngạo,
hành giới dâm, tài
giới tham. Tâm nghi
chính, ý nghi thành,
chí nghi kiên, hoạn
nghi phòng, sự nghi
cẩn.
Cấm nói dối, mặt
ngạo, hành vi cấm
dâm, giàu cấm than.
Tâm phải ngay thẳng,
ý phải thành thực, chí
phải vững vàng, họa
phải phòng, việc phải
cẩn trọng.
Ngữ pháp Hán cổ không phân theo cấu trúc
Chủ - Vị như ngôn ngữ hiện đại, mà ý nghĩa ngữ
pháp chủ yếu phụ thuộc vào các hư từ8, trong các
sách dạy chữ Hán của Việt Nam xưa chú trọng
giảng thực từ, còn hư từ chủ yếu được dạy kèm
thông qua các bài học. Thực từ theo chủ điểm hay
môn loại cũng được đưa vào từ đơn giản đến phức
tạp, trong Nhật dụng thường đàm, môn loại đầu
tiên được đưa vào học là Thiên văn. Nếu theo tư
duy của trẻ em hiện đại thì bài học đầu đời phải là
những chủ đề gần gũi với trẻ, thế nhưng vào thời
phong kiến theo lôgic tư tưởng phương Đông thì
Thiên – Địa – Nhân là khái niệm triết học cơ bản
nhất9. Do đó bài học được xem là cơ bản và đầu
tiên của các sách dạy chữ Hán không phải là bố
mẹ, chào hỏi mà phải là Thiên văn, thiên trời, địa
đất,... là như thế.
Thường các bài thực từ được chia theo chủ
điểm, chủ đề hoặc môn loại thì hư từ trong Ấu học
Hán tự tân thư cũng được đưa dần vào bài học khi
người học đã đạt được trình độ chữ Hán nhất định.
Ban đầu hư từ được đưa vào các bài học có nội
dung gần gũi, trong các cụm từ cố định, ngắn chưa
sử dụng thêm dấu câu, dần dần độ khó của hư từ
cũng tăng lên, đến cuối cùng dạy phương pháp đọc
hiểu một câu dài mà không có dấu ngắt câu như
văn hiện đại: “凡训蒙须讲究详训诂明句读为
学者必有初小学终至四书” (Dịch âm Hán Việt:
Phàm huấn mông tu giảng cứu tường huấn minh
cú độc vi học giả tất hữu sơ tiểu học chung chí Tứ
thư. Dịch nghĩa: hễ dạy trẻ nhỏ cần giảng giải, tỏ
tường ngữ nghĩa, rõ ràng câu cú; còn kẻ học giả
tất phải học từ chỗ ban đầu, hết sách Tiểu học rồi
đến Tứ thư.)
Người viết thiết nghĩ, hẳn phải có một hệ thống
sách vở dạy chữ Hán hoàn chỉnh, có thứ tự lớp
lang theo trình độ và độ tuổi người học thì Việt
Nam mới có thể đào tạo ra vô vàn những danh sĩ
nổi tiếng uyên bác, có thể sánh ngang với các nước
trong khu vực sử dụng chữ Hán (Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản...), mà sử sách vẫn thường
nhắc đến các cuộc đối thơ, khẩu thí giữa các sứ
giả nước ta với láng giềng. Do đó, việc nghiên cứu
lại toàn bộ hệ thống giáo trình chữ Hán xưa của
người Việt ta không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về chữ Hán là thứ chữ dân tộc đang cần được mọi
người quan tâm đúng mức, mà còn qua đó có thể
từ những phân bố bài học, bài dạy của người xưa
để rút ra những ưu điểm trong biên soạn giáo trình
chữ Hán hiện đại.
5. KẾT LUẬN
Tóm lại, theo quan điểm dạy và học hiện đại
nếu cứ cho rằng ngày xưa ông cha chúng ta vẫn
dạy và học theo kiểu học nhồi, học vẹt, nội dung
nặng về “nhập môn thủ luận lý, cựu học trọng từ
111KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
chương” thì qua bài phân tích này, chúng tôi hy
vọng người đọc sẽ có cái nhìn mới đối với phương
pháp và nội dung dạy học của Việt Nam xưa tuy
chưa thật bài bản nhưng vẫn đủ tính khoa học, hệ
thống và hợp lý. Các sách vở, thư tịch Hán Nôm
hiện tồn không còn nhiều để củng cố hơn các ý
kiến bài viết ở mức độ xưa hơn (thế kỷ 13 trở về
trước), sâu hơn. Nhưng qua những tấm gương
danh nhân Việt Nam để lại, chúng ta có thể khẳng
định các cách dạy-học xưa rõ ràng có hiệu quả to
lớn, cũng như qua bài phân tích theo góc độ giảng
dạy hiện đại các cách dạy-học này đã được nghiên
cứu, cải tiến để chúng ta có thể “ôn cố tri tân”, giữ
và học điều hay của người xưa, bỏ qua những nội
dung cứng nhắc, sáo rỗng nhằm tiến đến việc gìn
giữ một nền văn hóa chữ Hán của Việt Nam./.
Chú thích:
1. Nguyễn Quốc Hùng, Hán Việt tân tự điển, Sài Gòn,
NXB. Khai Trí, 1975 <https://hvdic.thivien.net/hv/
chi%E1%BA%BFt>.
2.
Nhat-dung-thuong-dam-Dictionary/NDTD-
lookup?uiLang=vn, thống kê chữ Thiên trong
Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ.
3 .h t tp : / /www.nomfoundat ion .org /nom-tools /
Nhat-dung-thuong-dam-Dictionary/NDTD-
lookup?uiLang=vn , thống kê chữ Quan trong Nhật
dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ.
4. Các sách này đều hiện được bảo tồn trong các thư
viện tại Việt Nam hoặc nước ngoài, có cung cấp số
thư mục đi kèm trong ngoặc.
5. Phạm Đình Hổ, Nhật dụng thường đàm, tr.2 (sách
hiện tồn trong Thư viện quốc gia Việt Nam, có số
thư mục R.1726)
6. Theo bản dịch của Trần Trọng Dương, Khảo cứu từ
điển song ngữ Hán Việt Nhật dụng thường đàm của
Phạm Đình Hổ, NXB Văn học, 2016, tr.284.
7.
moi-dinh-huong-day-hoc-tich-hop-o-bac-trung-
hoc-co-so/giao-duc/2066256.html
8. Hư từ là những từ không mang ý nghĩa từ vựng, mà
chỉ có nghĩa về mặt ngữ pháp, thực hiện chức năng
ngữ pháp trong câu, trong ngữ pháp Hán cổ có các
hư từ thông dụng như: chi (之), hồ (乎), giả (者),
dã (也) ... thực hiện chức năng ngữ pháp như: liên
từ, giới từ ...
9. Theo Kinh Dịch cũng như lời bàn của Chu Hy sau
này, trong mỗi quẻ đơn Bát quái đều có ba vạch
biểu hiện Tam Tài (ba cõi), sau phát triển thành các
quẻ kép 6 hào (hai hào trên là Thiên, hai hào giữa là
Nhân, hai hào dưới là Địa). Lão Tử viết trong Đạo
Đức Kinh: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo
Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên”
(Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo,
Đạo pháp tự nhiên). Đổng Trọng Thư, thuyết “Thiên
Địa Vạn Vật đồng nhất thể” và “Thiên Nhân tương
dữ” nói về tính thống nhất và mối liên hệ khăng
khít của vũ trụ: “Trời, Đất và Người là nguồn gốc
của vạn vật. Trời sinh ra vạn vật, Đất nuôi chúng,
Người hoàn thành chúng.” (Thiên Địa Nhân, vạn
vật chi bản dã. Thiên sinh chi, Địa dưỡng chi, Nhân
thành chi).
Tài liệu tham khảo:
Bùi Đình Mỹ (1996), "Sách dạy – học chữ Hán một di
sản tư tưởng lớn đối với sự nghiệp vĩ đại nâng cao
dân trí hiện nay", Tạp chí Hán nôm, số 2, 3-15.
Dương Lâm, Đoàn Triển, Ấu học Hán tự tân thư, lưu
giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, VHv.1485.
Đoàn Trung Còn hiệu đính (1969), Tam thiên tự, NXB
Trí-Đức Tòng-Thơ (Sài Gòn) .
Nguyễn Thị Hường (2002), "Chiết tự - một phương
pháp nhớ chữ Hán độc đáo", Tạp chí Hán Nôm, số
5/54, 77-82.
Phạm Đình Hổ, Nhật dụng thường đàm, lưu giữ tại Thư
viện quốc gia, R.1726.
Thế Anh (1999), "Những cuốn sách giáo khoa truyền
thống của Trung Quốc dành cho lứa tuổi vỡ lòng",
Tạp chí Hán Nôm, số 2/1999, tr.89-93.
Vũ Văn Kính, Khổng Đức biên soạn (2008), Ngũ thiên
tự, NXB Văn hóa Thông tin.
Phạm Văn Khoái (1999), Về truyền thống biên soạn
sách dạy chữ Hán ở Việt Nam thế kỷ XVII-XIX,
Phạm Đại Doãn chủ biên, Một số vấn đề về Nho
giáo Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.237-251.
112 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
TEACHING AND LEARNING CHINESE CHARACTERS
IN THE FEUDAL PERIOD OF VIETNAM FROM THE PERSPECTIVE
OF MODERN FOREIGN LANGUAGE TEACHING
HOANG THI THU THUY
Abstract: Borrowing from foreign countries, Chinese characters were initially used as a system
of foreign languages in the sense that there has not been definite evidences to prove that the
Vietnamese people had their own writing system existed before importing the Chinese characters.
In common sense, Chinese writing language has been considered as one of the most difficult
characters to learn and memorize. This raises a question: How did Vietnamese people effectively
learned Chinese characters in the past? How did the system of teaching Chinese textbooks
compiled in accordance with learners at different level and age? The author claims that there
might be a complete system of textbooks teaching Chinese characters, clasified relying to the
level and age of different learners, through which, many Vietnamese famous celebrities were
succefully trained in comparison with other countries in the region using Chinese characters
(Chinese, Korean, Japanese, etc.). Historical materials often refers to the competition of poems
and speeches between Vietnamese people and neighbors. Therefore, this article aims to research
the perspectives of the Chinese characters learning system of ancient Vietnamese in order to
suggest some solution to the improvement of teaching modern foreign language for Vietnamese
youth, to preserve the old father's traditions in the modern society.
Keywords: Chinese characters, Chinese Character Teaching Method, Chinese Character
Textbook etc
Received: 02/4/2019; Revised: 29/5/2019; Accepted: 10/6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_day_va_hoc_chu_han_cua_nguoi_viet_xua_duoi_goc_nhin_cua_phuong_phap_giang_day_hien_dai_5377_217.pdf