Các yếu tố tác động đến lợi nhuận vụ lúa hè thu và đông xuân của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng

Tài liệu Các yếu tố tác động đến lợi nhuận vụ lúa hè thu và đông xuân của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng: 67 Các yếu tố tác động đến lợi nhuận . . . CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỢI NHUẬN VỤ LÚA HÈ THU VÀ ĐÔNG XUÂN CỦA NÔNG HỘ TRỒNG LÚA ĐỒNG BÀO KHMER TỈNH SÓC TRĔNG DETERMINANTS OF THE PROFITS AMONG SUMMER-AUTUMN AND WINTER- SPRING RICE CROP OF KHMER RICE FARMERS IN SOC TRANG PROVINCE Trịnh Anh Khoa(*) * GV. Khoa Kinh tế, Trừng Cao đẳng Cộng đ̀ng Sóc Trĕng, Email: takhoastcc@gmail.com TÓM TẮT Bài viết tr̀nh bày kết quả nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận c̉a vụ Hè Thu và vụ Đông Xuân được ức lượng từ hàm lợi nhuận Cobb-Douglas dạng logarit-tuyến t́nh, dựa trên bộ dữ liệu khảo sát 193 nông hộ tr̀ng lúa đ̀ng bào Khmer tỉnh Sóc Trĕng. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận c̉a vụ Đông Xuân cao hơn lợi nhuận c̉a vụ Hè Thu khoảng 21,2%. Các yếu tố tác động đến lợi nhuận c̉a vụ Hè Thu theo mô h̀nh ức lượng bao g̀m: chi ph́ phân bón, chi ph́ lao động, các chi ph́ khác (tương quan nghịch), tham gia hội đoàn th̉ và áp dụng khoa ḥc kỹ thuật vào sản xuất (t...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tác động đến lợi nhuận vụ lúa hè thu và đông xuân của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
67 Các yếu tố tác động đến lợi nhuận . . . CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỢI NHUẬN VỤ LÚA HÈ THU VÀ ĐÔNG XUÂN CỦA NÔNG HỘ TRỒNG LÚA ĐỒNG BÀO KHMER TỈNH SÓC TRĔNG DETERMINANTS OF THE PROFITS AMONG SUMMER-AUTUMN AND WINTER- SPRING RICE CROP OF KHMER RICE FARMERS IN SOC TRANG PROVINCE Trịnh Anh Khoa(*) * GV. Khoa Kinh tế, Trừng Cao đẳng Cộng đ̀ng Sóc Trĕng, Email: takhoastcc@gmail.com TÓM TẮT Bài viết tr̀nh bày kết quả nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận c̉a vụ Hè Thu và vụ Đông Xuân được ức lượng từ hàm lợi nhuận Cobb-Douglas dạng logarit-tuyến t́nh, dựa trên bộ dữ liệu khảo sát 193 nông hộ tr̀ng lúa đ̀ng bào Khmer tỉnh Sóc Trĕng. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận c̉a vụ Đông Xuân cao hơn lợi nhuận c̉a vụ Hè Thu khoảng 21,2%. Các yếu tố tác động đến lợi nhuận c̉a vụ Hè Thu theo mô h̀nh ức lượng bao g̀m: chi ph́ phân bón, chi ph́ lao động, các chi ph́ khác (tương quan nghịch), tham gia hội đoàn th̉ và áp dụng khoa ḥc kỹ thuật vào sản xuất (tương quan thuận). Đối v́i vụ Đông Xuân, yếu tố chi ph́ giống, chi ph́ lao động và tham gia hội đoàn th̉ có tác động t́ch cực đến lợi nhuận, trong khi, chi ph́ cho thuốc bảo vệ thực vật có tác động tiêu cực đến lợi nhuận c̉a vụ lúa này. Từ khóa: lợi nhuận, nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer, vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu ABSTRACT This article aims at presenting the research results on determinants affecting the proits of Summer-Autumn and Winter-Spring crop from the Cobb-Douglas proit function. The study used data collected from 193 Khmer rice farmers in Soc Trang province. The results showed that the average proit of Winter-Spring rice crop was higher than that of Summer-Autumn rice crop about 21,2 percent. The factors affecting the proits of Summer-Autumn rice crop in the model included the costs of fertilizer, labor costs, other costs (negative correlation), joining local associations and applying science and technology to production (positive correlation). For Winter- Spring rice crop, the seed costs, labor costs and joininglocal associations had a positive impact on proits, while the costs for herbicide had a negative impact on the proits of this crop. Keywords: proits, Khmer rice farmer, Winter- Spring rice crop, Summer-Autumn rice crop 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Lúa là cây lương thực quan trọng, nuôi sống khoảng một nửa dân số và khoảng ba phần tư người nghèo của thế giới. Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), lúa vẫn là cây trồng quan trọng nhất cho sinh kế của phần lớn người dân trong vùng, an toàn lương thực quốc gia và xuất khẩu (Đặng Kiều Nhân, 2009). ĐBSCL cung ứng hơn 20 triệu tấn lúa cho nền kinh tế, chiếm hơn 50% tổng sản lượng lúa và khoảng 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước (Phạm Lê Thông, 2011). Do đó, để cải thiện được đời sống của người dân thì việc nâng cao nĕng suất, tĕng lợi nhuận của hoạt động canh tác lúa là một trong những mục tiêu rất quan trọng cần hướng đến. Sóc Trĕng là một tỉnh nằm trong vùng ĐBSCL với diện tích tự nhiên 3.223km2, 80,84% diện tích đất được dùng vào sản xuất nông nghiệp, trong đó, đất trồng lúa chiếm 75,50% diện tích đất nông nghiệp. Cơ cấu dân số của tỉnh ngoài người Kinh chiếm tỷ lệ đa số còn có nhiều dân tộc khác cùng chung sống, trong đó người 68 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Khmer chiếm 28,9%, người Hoa chiếm 5,9% (Trần Thanh Bé và cs, 2007).Những nĕm gần đây, tỉnh Sóc Trĕng đã thực hiện tốt chính sách về công tác xóa đói, giảm nghèo, góp phần từng bước nâng cao đời sống người dân trong tỉnh nói chung và đồng bào dân tộc Khmer nói riêng. Một trong những chính sách đó là tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp, đổi mới hướng canh tác và nâng cao mức sinh lợi của hoạt động canh tác nông nghiệp mà chủ yếu là cây lúa. Tuy nhiên, cũng như nhiều hộ nông dân người Kinh và người Hoa trên địa bàn, nông hộ đồng bào Khmer chủ yếu sản xuất lúa theo hướng độc canh hai vụ hoặc ba vụ. Trong ba vụ lúa, vụ Hè Thu và vụ Thu Đông có nĕng suất tương đương nhau và điều kiện canh tác cũng tương đồng, và vụ Thu Đông thường được chọn thay thế trong các mô hình luân canh lúa màu (Phạm Lê Thông, 2011). Vì vậy, vụ Hè Thu và vụ Đông Xuân trở thành hai vụ lúa chính và là nguồn thu nhập quan trọng của nông hộ trồng lúa. Bên cạnh đó, vụ Đông Xuân luôn mang lại nĕng suất và lợi nhuận cao hơn so với vụ Hè Thu. Do đó, cùng với việc chuyển đổi hướng canh tác thì việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của hai vụ lúa chính trong nĕm là rất cần thiết để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nông hộ.Bài viết này nhằm mục tiêu trình bày kết quả nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của vụ lúa Hè Thu và Đông Xuân của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trĕng. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học cho việc đề ra các giải pháp nhằm nâng cao nĕng suất và lợi nhuận, cải thiện đời sống của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trĕng. 2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Dữ liệu nghiên cứu Dữ liệu nghiên cứu được thu thập thông qua khảo sát trực tiếp 210 nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trĕng. Địa bàn nghiên cứu được lựa chọn là 3 huyện Châu Thành, Mỹ Xuyên và Long Phú, với cơ cấu mẫu cụ thể lần lượt là 80, 60 và 70 hộ. Ba huyện trên được lựa chọn vì là những huyện có đông đồng bào Khmer sinh sống, đồng thời, đồng bào Khmer sinh sống ở địa bàn các huyện này chủ yếu sinh sống bằng nghề làm nông. Vì vậy, việc chọn ba huyện trên để thu thập dữ liệu sẽ đảm bảo tính đại diện của mẫu dữ liệu nghiên cứu. Bảng 1: Đặc trưng của mẫu dữ liệu nghiên cứu Chỉ tiêu Đơn vị tính Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình Học vấn Cấp học Trên cấp 3 Mù chữ Cấp 2 Số thành viên Người 9,00 2,00 4,00±1,39 Tuổi Nĕm tuổi 76,00 28,00 49,00±10,52 Kinh nghiệm Nĕm 50,00 2,00 23,60±10,21 Diện tích đất canh tác Hecta 9,07 0,10 1,57±1,39 Nguồn: t́nh toán từ dữ liệu điều tra thực tế c̉a tác giả nĕm 2016 Những thông tin thu thập bao gồm: các đặc điểm nhân khẩu học của nông hộ, nĕng suất bình quân, giá bán, các loại chi phí sản xuất lúa, việc tham gia hội đoàn thể và thực trạng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của nông hộ canh tác lúa vụ Hè Thu và vụ Thu Đông. Sau khi loại bỏ một số phiếu thiếu dữ liệu, số mẫu còn lại đưa vào phân tích là 193 mẫu. 69 Các yếu tố tác động đến lợi nhuận . . . Bảng 2: T̀nh h̀nh tham gia hội đoàn th̉, áp dụng khoa ḥc kỹ thuật vào sản xuất c̉a nông hộ Chỉ tiêu Số lượng Tỷ lệ (%) Tham gia hội đoàn thể 28 14,51 Không tham gia hội đoàn thể 165 85,49 Tổng 193 100,00 Có áp dụng khoa học kỹ thuật 56 29,01 Không áp dụng khoa học kỹ thuật 137 70,99 Tổng 193 100,00 Nguồn: t́nh toán từ dữ liệu điều tra thực tế c̉a tác giả nĕm 2016 2.2. Phương pháp nghiên cứu Nhằm phân tích và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến nĕng suất đạt được, các nghiên cứu ứng dụng hàm sản xuất Cobb- Douglas dạng translog như sau: LnY = α0 + αilnXi + ei Trong đó, Y là logarit tự nhiên của nĕng suất, lnXi là logarit tự nhiên của các yếu tố đầu vào, bao gồm: phân bón, thuốc, giống, lao động và một số chi phí bằng tiền khác (Phạm Lê Thông, 2011; Phạm Vĕn Hùng, 2006). Nghiên cứu của David và Terwase (2011) đo lường và đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất lúa bằng hàm Cobb-Douglas dạng bán logarit (logarit-tuyến tính) như sau: Y = logA + b i logX i Trong đó, Y là nĕng suất đạt được, A là hằng số của mô hình và logXi là logarit của các yếu tố đầu vào, bao gồm: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống và lao động. Từ hàm sản xuất Cobb-Douglas, có thể xây dựng được hàm lợi nhuận tương ứng (Phạm Lê Thông, 2011; Nay, 2011). Trong nghiên cứu này, để đo lường tác động của các yếu tố đến lợi nhuận đạt được, hàm lợi nhuận được sử dụng là hàm logarit-tuyến tính có dạng như sau: Y = α + α 1 lnphan + α 2 lnthuoc + α3lngiong + α4lnkhauhao + α5lnlaodong + α6lncpkhac + α 7 thamgiahdt+ α 8 apdungkhkt + e i Với, Y là lợi nhuận lúa đạt được (ngàn đồng/ ha), αi là các hệ số tương quan, lnphan, lnthuoc, lngiong, lnkhauhao, lnlaodong và lncpkhac lần lượt là logarit tự nhiên của chi phí phân bón, chi phí thuốc bảo vệ thực vật, chi phí giống, chi phí khấu hao, chi phí lao động và chi phí khác tính cho một hecta đất sản xuất. Chi phí khấu hao là chi phí cho hao mòn máy móc sử dụng cho mục đích sản xuất lúaước tính. Chi phí khác bao gồm các chi phí như thu hoạch, tưới tiêu, Yếu tố tham gia hội đoàn thể (thamgiahdt) và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất (apdungkhkt) được đưa vào mô hình với kỳ vọng, việc tham gia hội đoàn thể sẽ giúp nông hộ có thêm nhiều thông tin bổ ích phục vụ sản xuất, trong khi, việc áp dụng khoa học kỹ thuật sẽ giúp tiết giảm chi phí, tĕng nĕng suất và lợi nhuận. Trong mô hình nghiên cứu, việc tham gia hội đoàn thể là biến giả, nhận giá trị 1 nếu hộ có tham gia vào các hội đoàn thể như hội nông dân, hội cựu chiến binh, Tương tự, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất là biến giả, nhận giá trị 1 nếu nông hộ có áp dụng ít nhất một mô hình tiến bộ vào sản xuất như IPM, 3 giảm 3 tĕng, 1 phải 5 giảm, , ngược lại sẽ nhận giá trị 0. 70 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 2.3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 2.3.1. Chi phí, nĕng suất, doanh thu và lợi nhuận của hai vụ lúa Hè Thu và Đông Xuân Bảng 3: Chi ph́ sản xuất c̉a vụ lúa Hè Thu và Đông Xuân Các loại chi phí Vụ Hè Thu Vụ Đông Xuân Trung bình (ngàn đồng/ha) Tỷ lệ (%) Trung bình (ngàn đồng/ha) Tỷ lệ (%) Chi phí phân 4968,98 30,59 5687,82 32,64 Chi phí giống 1757,32 10,82 1740,72 9,99 Chi phí thuốc 4382,93 26,98 4634,51 26,60 Chi phí khấu hao 58,89 0,36 58,89 0,34 Chi phí lao động 742,85 4,57 713,99 4,10 Chi phí khác 4335,19 26,68 4587,91 26,33 Tổng chi phí 16246,16 100,00 17423,84 100,00 Nguồn: tính toán từ dữ liệu điều tra thực tế của tác giả nĕm 2016 Kết quả phân tích cơ cấu chi phí sản xuất trung bình giữa vụ Hè Thu và Đông Xuân cho thấy, tổng chi phí trung của vụ lúa Đông Xuân cao hơn vụ Hè Thu khoảng 6,1%. Trong đó, chi phí phân bón, chi phí thuốc bảo vệ thực vật và các chi phí khác của vụ Đông Xuân cao hơn vụ Hè Thu với mức chênh lệch lần lượt là 14,47%; 5,74% và 5,83%. Tuy nhiên, chi phí giống và chi phí lao động của vụ Hè Thu lại cao hơn vụ Đông Xuân nhưng mức chênh lệch không cao (lần lượt là 1,4% và 4,04%). Trong cơ cấu tổng chi phí của hai vụ lúa, chi phí phân bón, chi phí thuốc bảo vệ thực vật và chi phí khác chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng chi phí sản xuất (84,25% trong vụ Hè Thu và 85,57% trong vụ Đông Xuân). Đây là những chi phí thiết yếu trong hoạt động sản xuất lúa nói chung. Chi phí lao động và chi phí khấu hao máy móc thiết bị sử dụng trong sản xuất lúa chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng chi phí (4,93% trong vụ Hè Thu và 4,44% trong vụ Đông Xuân) cho thấy một thực tế là nông dân vẫn còn sử dụng chủ yếu sức lao động trong gia đình thay vì thuê mướn hay sử dụng máy móc trong sản xuất. Bảng 4: Nĕng suất, doanh thu và lợi nhuận vụ Hè Thu và vụ Đông Xuân Chỉ tiêu Đơn vị tính Vụ Hè Thu Vụ Đông Xuân Sig. t-test Nĕng suất Tấn/ha 6,1 6,7 0,000 Giá bán Đồng/kg 4433,9 4470,3 0,248 Doanh thu Ngàn đồng/ha 27054,4 30273,4 0,000 Chi phí Ngàn đồng/ha 16246,2 17423,8 0,000 Lợi nhuận Ngàn đồng/ha 10808,2 13099,2 0,000 Nguồn: t́nh toán từ dữ liệu điều tra thực tế c̉a tác giả nĕm 2016 71 Các yếu tố tác động đến lợi nhuận . . . Nĕng suất trung bình của vụ Hè Thu là 6,1 tấn/ha thấp hơn nĕng suất trung bình của vụ Đông Xuân 0,6 tấn/ha. Như đã trình bày, vụ Đông Xuân điều kiện thời tiết thuận lợi, cùng với việc sử dụng tĕng liều lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nên nĕng suất lúa có phần cao hơn so với vụ Hè Thu. Mức giá bán trung bình không có sự khác biệt giữa hai vụ lúa. Tuy nhiên, do nĕng suất vụ Đông Xuân cao hơn nên doanh thu trung bình của vụ Đông Xuân có phần cao hơn so với vụ Hè Thu, mức chênh lệch là khoảng 11,9%. Tổng chi phí sản xuất trung bình của vụ Hè Thu thấp hơn tổng chi phí sản xuất trung bình của vụ Đông Xuân khoảng 6,1% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Lợi nhuận trung bình của vụ Đông Xuân cao hơn lợi nhuận trung bình của vụ Hè Thu khoảng 21,2%. Đây là mức chênh lệch khá lớn dù chi phí cho vụ Đông Xuân có cao hơn chi phí cho vụ Hè Thu. Kết quả này phù hợp với thực tiễn sản xuất lúa vụ Hè Thu và Đông Xuân trên địa bàn nghiên cứu. 2.3.2. Các yếu tố tác động đến lợi nhuận của vụ Hè Thu và Đông Xuân Kết quả mô hình hồi quy Logarit-tuyến tính xác định các yếu tố tác động đến lợi nhuận vụ Hè Thu và Đông Xuân của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trĕng được trình bày trong bảng 5. Kiểm định đa cộng tuyến (VIF<2) và tự tương quan (dU<giá trị Durbin-Watson tra bảng<4 - dL) cho thấy hai mô hình là phù hợp, không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến và tự tương quan giữa các biến độc lập (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Các biến độc lập giải thích được 30,4% sự thay đổi lợi nhuận của vụ Hè Thu và 25,2% sự thay đổi lợi nhuận của vụ Đông Xuân. Đối với mô hình xác định các yếu tố tác động đến lợi nhuận của vụ Hè Thu, có 3 yếu tố có mối tương quan nghịch với lợi nhuận và có ý nghĩa thống kê là chi phí phân bón, các chi phí khác và chi phí lao động với độ tin cậy từ 95% đến 99%. Việc tham gia hội đoàn thể và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đều có tương quan thuận với lợi nhuận và độ tin cậy của kiểm định đạt 95%. Bảng 5: Kết quả mô h̀nh h̀i quy Logarit-tuyến t́nh Biến số Vụ Hè Thu Vụ Đông XuânTương quan Giá trị Sig. VIF Tương quan Giá trị Sig. VIF Hằng số 130751,115 0,000 121237,900 0,000 Lncpphan -5359,035 0,000 1,141 349,450 0,816 1,279 Lncpgiong 344,760 0,672 1,112 2716,000 0,012 1,442 Lncpthuoc -1003,632 0,517 1,136 -3774,637 0,018 1,383 Lncpkh 17,725 0,894 1,186 -1192,885 0,268 1,085 Lncpld -191,726 0,044 1,291 650,278 0,002 1,215 Lncpkhac -8184,728 0,000 1,325 -88,569 0,529 1,231 thamgiahdt 2112,359 0,030 1,227 8303,062 0,000 1,447 apdungkhkt 1518,645 0,036 1,515 78,790 0,969 1,213 R2 (%) 30,4 25,2 Durbin-Watson 2,020 2,124 Nguồn: kết quả h̀i quy từ dữ liệu điều tra thực tế c̉a tác giả nĕm 2016 72 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Trong mô hình xác định các yếu tố tác động đến lợi nhuận của vụ Đông Xuân, có 3 yếu tố có tương quan thuận với lợi nhuận và có ý nghĩa thống kê là chi phí giống, chi phí lao động và việc tham gia đội đoàn thể với độ tin cậy của kiểm định từ 95% đến 99%. Chi phí thuốc bảo vệ thực vật có tương quan nghịch với lợi nhuận và độ tin cậy của kiểm định đạt 95%. Ở vụ lúa Đông Xuân, chi phí giống có mối tương quan thuận với lợi nhuận hàm ý vai trò của giống chất lượng đối với hoạt động sản xuất lúa. Tại nhiều vùng nông thôn, nông hộ có thói quen giữ lại giống của vụ trước để sản xuất cho vụ sau nhằm giảm chi phí. Tuy nhiên, chất lượng giống để lại thường không cao và dẫn đến nĕng suất lúa thấp, từ đó, làm giảm lợi nhuận. Do đó, chi phí giống càng cao, chứng tỏ nông hộ có đầu tư cho giống chất lượng nên nĕng suất cao, lợi nhuận tĕng. Phân bón và thuốc bảo vệ giữ vai trò quan trọng trong việc tĕng nĕng suất, tuy nhiên, việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật quá liều sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nĕng suất lúa (Phạm Lê Thông, 2011), từ đó làm giảm lợi nhuận của nông hộ. Trong vụHè Thu, điều kiện thời tiết tương đối bất lợi cho việc sản xuất lúa nên nông hộ thường có xu hướng bón thêm nhiều phân bón, sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật với kỳ vọng sẽ nâng cao được sự phát triển của cây lúa. Tuy nhiên, việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật quá liều lượng, không đúng kỹ thuật cộng với điều kiện mưa nhiều làm thất thoát, tạo điều kiện cho sâu rầy phát triển (Nguyễn Vĕn Hòa và cs, 2007) nên không làm tĕng nĕng suất mà ngược lại làm tĕng chi phí, từ đó làm giảm lợi nhuận. Chi phí lao động có mối tương quan nghịch với lợi nhuận trong vụ Hè Thu nhưng lại có tương quan thuận với lợi nhuận trong vụ Đông Xuân. Điều này có thể giải thích là do trong vụ Hè Thu, điều kiện canh tác gặp nhiều bất lợi, không có đủ thời gian làm đất, mưa nhiều dẫn đến thất thoát trong khâu gieo sạ nên nông hộ nhiều lúc phải tốn công gieo làm đất, gieo sạ lại, cấy lúa, làm phát sinh chi phí lao động nhiều hơn. Về phương diện toán học, có thể nói, lượng lao động được sử dụng lúc này đang nằm trên phần dốc xuống của đường sản lượng và nĕng suất biên của lao động có thể âm (Lê Khương Ninh, 2008). Việc tham gia các hội đoàn thể và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất có tương quan thuận với lợi nhuận trong cả hai mô hình đúng như kỳ vọng ban đầu. Việc tham gia các hội đoàn thể sẽ tạo điều kiện cho nông hộ thiếp thu được những thông tin mới, kinh nghiệm phục vụ sản xuất. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ giúp tiết giảm chi phí, tĕng nĕng suất, từ đó làm tĕng lợi nhuận của nông hộ. Đặc biệt đối với vụ Hè Thu, điều kiện canh tác gặp nhiều khó khĕn, việc tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ giúp nông hộ cắt giảm được các chi phí không cần thiết, phòng trị được sâu bệnh giúp nông hộ cải thiện được nĕng suất và lợi nhuận. 3. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về lợi nhuận trung bình của vụHè Thu và vụ Đông Xuân. Ở vụ Đông Xuân, nĕng suất và lợi nhuận đều cao hơn so với vụ Hè Thu, trong đó, lợi nhuận đạt được của vụ Đông Xuân có sự chênh lệch khá lớn so với vụ Hè Thu (21,2%). Sự chênh lệch về lợi nhuận giữa hai vụ lúa chủ yếu do việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật chưa hợp lý trong vụ Hè Thu và một phần do điều kiện canh tác bất lợi của vụ lúa này so với vụ Đông Xuân. Nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của việc lựa chọn nguồn giống chất lượng cao và việc tham gia vào các hội đoàn thể đối với việc nâng cao lợi nhuận của nông hộ. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất có tác động tích cực đến việc gia tĕng lợi nhuận, đặc biệt là đối với vụ Hè Thu. Vì vậy, trong thời gian tới, để góp phần nâng cao lợi nhuận sản xuất lúa vụ Hè Thu và Đông Xuân của nông hộ trồng lúa đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trĕng, cần chú trọng đến những vấn đề sau: 73 Các yếu tố tác động đến lợi nhuận . . . Thứ nhất, tĕng cường công tác tập huấn phổ biến kỹ thuật sản xuất, hướng dẫn sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vậttiết kiệm và hiệu quả, đặc biệt là trong vụ Hè Thu để tiết giảm chi phí, tránh hiện tượng sử dụng quá liều làm ảnh hưởng tiêu cực đến nĕng suất và lợi nhuận. Thứ hai, tiếp tục phát huy vai trò định hướng giống có nĕng suất và chất lượng cao của các cơ quan chức nĕng, khuyến khích nông dân đầu tư cho giống chất lượng thay vì giữ lại giống cũ của những vụ trước để sản xuất. Thứ ba, các hội đoàn thể tại địa phương cần tiếp tục phát huy vai trò cung cấp thông tin, hỗ trợ nhau trong sản xuất và đặc biệt là thu hút sự tham gia ngày càng nhiều của nông hộ tại địa phương. Cuối cùng, cần khuyến khích và cho nông hộ thấy rõ vai trò tích cực của việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, mô hình sản xuất tiên tiến như: IPM, cánh đồng mẫu, sử dụng chế phẩm sinh học, đối với việc tĕng lợi nhuận sản xuất. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Trần Thanh Bé và cs, (2007), “Tác động của phong tục tập quán đến phát triển kinh tế – xã hội cộng đồng Khmer tỉnh Sóc Trĕng”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện nghiên cứu Phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ. [2]. David, T. A. & Terwase, S., (2011), “Eficiency of resource use in rice farming enterprise in Kwande local government area of Benue State, Nigeria”, International Journal of Humanities and Social Science, (1), pp.215-220. [3]. Nguyễn Vĕn Hòa và cs (2007), Sổ tay hứng d̃n sản xuất lúa Hè Thu 2007 các tỉnh Nam bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. [4]. Phạm Vĕn Hùng, (2006), “Phương pháp xác định khả nĕng sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân”, Tạp chí Khoa ḥc và Phát trỉn, (4&5), Học viện Nông nghiệp Việt Nam. [5]. Nay, M. A., (2011), “Agricultural eficiency of rice farmers in Myanmar: a case study in selected areas”, IDE Discussion Paper – Institute of Developing Economics, Japan, (306), pp.1-26. [6]. Đặng Kiều Nhân, (2009), “Nĕng suất và lợi tức sản xuất lúa cao sản ở Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 1995 – 2006”, Tạp chí Khoa ḥc Đại ḥc Cần Thơ, (12), tr.212-218. [7]. Lê Khương Ninh, (2008), Kinh tế ḥc vi mô, Nxb. Giáo dục. [8]. Phạm Lê Thông, (2011), “So sánh hiệu quả kỹ thuật của vụ lúa Hè Thu và Thu Đông ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát trỉn Kinh tế, (250), tr.12-19. [9]. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, (2008), Phân t́ch dữ liệu nghiên cứu v́i SPSS, Nxb. Hồng Đức.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf2_9498_2147999.pdf