Tài liệu Các yếu tố ngôn ngữ thể hiện tính chất mâu thuẫn trong tính cách Nga: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
PHẠM NGỌC HÀM - Ngữ cảnh và vai trò của ngữ cảnh trong dạy học ngoại ngữ 3
ĐOÀN THỤC ANH, NGUYỄN TUẤN ANH - Các yếu tố ngôn ngữ thể hiện tính
chất mâu thuẫn trong tính cách Nga
10
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ĐỖ THỊ THU GIANG - Phương pháp giảng dạy tiếng Pháp theo mục tiêu
chuyên biệt
19
NGÔ PHƯƠNG ANH - Năng lực tự chủ của người học ngoại ngữ và các lý
thuyết liên quan
27
BÙI THỊ HỒNG NHUNG - Giảm thiểu yếu tố tâm lý cản trở học viên quân sự
thực hành nói tiếng Anh
31
VĂN HÓA - VĂN HỌC
CẦM TÚ TÀI - Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/ Nước với con người trong tiếng Hán 38
NGÔ MINH NGUYỆT - Hàm ý văn hoá các từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán
hiện đại
45
ĐỖ TIẾN QUÂN - Sự độc đáo của không gian nghệ thuật trong các sáng tác của
Lỗ Tấn
51
TRẦN THỊ THU HIỀN - Vẻ đẹp của nhân của nhân vật Thuý Kiều từ câu 499 đến
câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) – Từ góc nhìn văn hoá
58
VŨ THÀNH CÔNG - Những khác biệt tương đồng trong văn hoá và việc dạy học
ngoại ng...
92 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Các yếu tố ngôn ngữ thể hiện tính chất mâu thuẫn trong tính cách Nga, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
PHẠM NGỌC HÀM - Ngữ cảnh và vai trò của ngữ cảnh trong dạy học ngoại ngữ 3
ĐOÀN THỤC ANH, NGUYỄN TUẤN ANH - Các yếu tố ngôn ngữ thể hiện tính
chất mâu thuẫn trong tính cách Nga
10
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ĐỖ THỊ THU GIANG - Phương pháp giảng dạy tiếng Pháp theo mục tiêu
chuyên biệt
19
NGÔ PHƯƠNG ANH - Năng lực tự chủ của người học ngoại ngữ và các lý
thuyết liên quan
27
BÙI THỊ HỒNG NHUNG - Giảm thiểu yếu tố tâm lý cản trở học viên quân sự
thực hành nói tiếng Anh
31
VĂN HÓA - VĂN HỌC
CẦM TÚ TÀI - Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/ Nước với con người trong tiếng Hán 38
NGÔ MINH NGUYỆT - Hàm ý văn hoá các từ ngữ chỉ thức ăn trong tiếng Hán
hiện đại
45
ĐỖ TIẾN QUÂN - Sự độc đáo của không gian nghệ thuật trong các sáng tác của
Lỗ Tấn
51
TRẦN THỊ THU HIỀN - Vẻ đẹp của nhân của nhân vật Thuý Kiều từ câu 499 đến
câu 524 trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) – Từ góc nhìn văn hoá
58
VŨ THÀNH CÔNG - Những khác biệt tương đồng trong văn hoá và việc dạy học
ngoại ngữ
63
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO
Chủ tịch
Thiếu tướng, GS.TS. ĐẶNG TRÍ DŨNG
Phó chủ tịch
Thiếu tướng, PGS.TS. QUẢN VĂN TRUNG
Ủy viên
Đại tá, TS. ĐỖ HỒNG ANH
Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG HẢI
Đại tá, TS. NGÔ QUỐC HÙNG
Đại tá, TS. TRẦN ANH THỜI
Đại tá, TS. PHẠM VĂN NGHĨA
Thượng tá, TS. TRẦN NGỌC TRUNG
Thượng tá, ThS. DƯƠNG THỊ THỰC
TỔNG BIÊN TẬP
Đại tá, TS. ĐỖ HỒNG ANH
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
Thượng tá, ThS. DƯƠNG THỊ THỰC
BAN BIÊN TẬP
Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH
Đại tá, TS. ĐINH QUANG TRUNG
Đại tá, ThS. DƯƠNG VĂN TUYỂN
Thượng tá, ThS. LÊ CÔNG PHÁT
Thượng tá, TS. BÙI THỊ THANH LƯƠNG
Trung tá, TS. TRẦN THỊ MINH THỤC
Trung tá, TS. NGUYỄN THU HẠNH
Thiếu tá, TS. NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
Thiếu tá, TS. ĐOÀN THỤC ANH
THƯ KÝ - TRỊ SỰ
Trưởng ban
Đại úy, ThS. NGUYỄN TUẤN ANH
Ủy viên
Thiếu tá CN, ThS. HOÀNG THỊ BẮC
Đại úy, ThS. NGÔ NGỌC HẢI
Đại úy, ThS. ĐẬU THỊ GIANG MINH
Thượng úy, ThS. NGUYỄN THỊ THU
GIẤY PHÉP HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ IN
Số 200/GP-BTTTT ngày 19/4/2016
của Bộ Thông tin và Truyền thông
Số 05 - 01/2017 ISSN 2525 - 2232
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TRẦN LÊ DUYẾN, ĐOÀN XUÂN PHÚ - Yếu tố bất tương xứng trong dịch Anh-
Việt hoặc Việt-Anh
67
NGUYỄN THỦY - Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng văn hóa đọc
cho học viên các trường Quân đội hiện nay
74
LƯU HỚN VŨ - Động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của sinh viên
ngành ngôn ngữ Anh, trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
78
NGUYỄN THỊ TÂM - Nâng cao chất lượng công tác tổ chức đào tạo và thi cấp
chứng chỉ ngoại ngữ B1, B2 cho học viên các cơ sở đào tạo ngoại ngữ trong
Quân đội
86
TRAO ĐỔI THÔNG TIN
HOÀNG THỊ BẮC - Việt Nam – Cái nôi nuôi dưỡng tiếng Nga ở Đông Nam Á 90
CONTENTS
1. Context and its role in teaching foreign languages; 2. Linguistic elements representing the contradiction in the
Russian characteristics; 3. Methodology of teaching French for Special Purposes; 4. Exploring the concepts of learner
autonomy and related literature; 5. Reducing military students’ psychological barriers to speaking English; 6. On the
conceptual Chinese metaphors of shui/Water as related to humans; 7. Cultural implications of food-related words in
modern Chinese; 8. The originality of art space in Lu Xun’s works; 9. Thuy Kieu’s beauty in The Tale of Kieu from line
499 to line 524: an analysis from the cultural perspective; 10. Differences and similarities in cultures and teaching
foreign languages; 11. Translation skewing in English - Vietnamese/Vietnamese - English translation; 12. Some
solutions to improve the quality of book-reading culture for cadets at military schools; 13. A study on motivations of
learning Japanese as a second foreign language by English major students at Banking University Ho Chi Minh City;
14. Improving the quality of the organization of training, examination and certification B1, B2 services for students
in Military foreign language institutions.
SOMMAIRE
1. Le contexte et ses rôles dans l’enseignement des langues étrangères; 2. Les éléments liguistiques exprimant la contradiction
dans le caractère des Russes; 3. La méthodologie d’enseignement du français sur objectif spécifique; 4. La compétence de
self-contrôle des apprenants de langues étrangères et les théories concernantes; 5. Limiter des facteurs psychologiques
défavorisant l’expression orale en anglais des étudiants militaires; 6. Quelques mots sur la métaphore de la notion Eau et
l’homme dans la langue chinoise; 7. Les sous-entendus culturels des expressions de nourriture dans le chinois modern. 8.
L’originalité artistique dans les oeuvres de Lo Tan; 9. La beauté du personnage Thuy Kieu dans les vers de 499 à 524 de l’oeuvre
“Truyen Kieu” (Nguyen Du) au point de vue culturel; 10. La différence et la ressemblance culturelles et l’enseignement
des langues étrangères; 11. Les éléments dissymétriques dans la traduction anglais-vietnamien et vietnamien-anglais; 12.
Quelques solutions visant à aider les étuadiants des écoles militaires à améliorer leur culture de lecture; 13. La motivation
dans l’apprentisage de la deuxième langue étrangère, le japonais, des étudiants de l’anglais de l’Université de Banque de Ho
Chi Minh ville; 14. Améliorer la qualité de l’organisation et de la certification B1, B2 dans les étabissements militaires de
langues.
СОДЕРЖАНИЕ
1. Контекст и роль контекста в преподавании иностранных языков; 2. Языковые элементы, выражающие
противоречие в русском характере; 3. Методы преподавания французского языка по обособленным целям;
4. Учебная самостоятельность учащихся в изучении иностранных языков и связанные теории; 5. Сведение к
минимуму психологических препятствий в практике разговорной речи на английском языке курсантов; 6.
К вопросу метафорического значения 水 / воды для людей на китайском языке; 7. Культурные импликации
слов, обозначающих пищу в современном китайском языке; 8. Уникальность художественного пространства в
произведениях писателя Лу Синь; 9. Красота героини Тхуй Kиеу от 499- до 524- ст.cт. в поэме «Повесть о Киеу»
(поэта Нгуен Зу) с культурной точки зрения; 10. Различия и сходства в культуре и обучение иностранным языкам;
11. Неэквивалентность при переводе с английского языка на вьетнамский и наоборот; 12. Некоторые пути решения,
способствующие повышению качества чтения для курсантов военно-учебных заведений в настоящее время; 13.
Мотив изучения японского языка как второго иностранного у филологических студентов английского языка
Хошиминского института банка; 14. Повышение качества организации учебного процесса и выдачи сертификатов
по иностранным языкам уровней B1, B2 для изучающих иностранных языков в армейских вузах.
目录
1. 语境及其在外语教学中的地位; 2. 体现俄国人性格中矛盾性的语言因素; 3. 专门用途法语教学法; 4. 外语
学习者的自主能力与有关的理论问题; 5. 减少军事学员英语口语练习中出现的心理障碍; 6. 论汉语中“水”
与“人”的意象’ 7. 现代汉语中食物词语的文化意蕴; 8. 鲁迅作品中叙述空间的独特性; 9. 从文化角度看
待翠翘的美——以阮攸《翘传》中第499句至第524句为例; 10. 文化差异与外语教学; 11. 英越互译的不对称
因素; 12. 提高现阶段军校学员阅读文化质量的若干办法; 13. 胡志明市银行大学英语言专业学生二外日语学习
动机; 14. 提高军队中外语培训机构学员B1, B2级外语证书的培训和考试质量.
3KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
NGỮ CẢNH VÀ VAI TRÒ CỦA NGỮ CẢNH
TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
PGS. TS. PHẠM NGỌC HÀM1
1 Đại học Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội ✉phamngochamnnvhtq@gmail.com
Ngày nhận: 17/01/2017; Ngày hoàn thiện: 25/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017
Phản biện khoa học: TS. NGUYỄN THANH HÀ
TÓM TẮT
Ngữ cảnh là một trong những nhân tố tác động rất lớn đến quá trình giao tiếp ngôn ngữ, đồng thời
cũng là cơ sở để xác định ý nghĩa của từ và nội dung thông tin mà người phát ngôn muốn chuyển
tải tới người nhận ngôn, từ lâu đã trở thành vấn đề được giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế
giới đặc biệt quan tâm. Ngày nay, ngữ cảnh được nghiên cứu dưới góc độ tri nhận và đặt trong
trạng thái động. Nghiên cứu ngữ cảnh có giá trị ứng dụng to lớn nhất là lĩnh vực dạy học ngoại ngữ.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi điểm lại lịch sử nghiên cứu về ngữ cảnh. Trên cơ sở đó chỉ
ra những nhân tố cấu thành ngữ cảnh cũng như vai trò của chúng đối với giao tiếp ngôn ngữ nói
chung và dạy học ngoại ngữ nói riêng.
Từ khóa: dạy học ngoại ngữ, ngữ cảnh, vai trò.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngôn ngữ với vai trò là công cụ giao tiếp, là phương
tiện để trao đổi tư tưởng, tình cảm, truyền đạt thông
tin, gắn kết con người với nhau. Một tín hiệu ngôn
ngữ được phát ra từ phía người phát ngôn thường
phải lệ thuộc vào những nhân tố chủ quan và khách
quan. Đồng thời, người nhận ngôn cũng phải căn cứ
vào những nhân tố đó để lý giải thông tin và đưa ra
phương án phản hồi nhằm đạt được sự hô ứng giữa
hai bên tham gia giao tiếp. Đối với văn bản viết, câu
hoặc đoạn văn trên dưới phải có quan hệ logic với
nhau, làm cơ sở xác định nghĩa của từ trong câu và
nghĩa của câu trong đoạn. Những nhân tố đó gọi là
ngữ cảnh. Khái niệm ngữ cảnh được coi là vấn đề hạt
nhân của ngôn ngữ học, nhất là ngôn ngữ học giao
tiếp và ngữ dụng học. Người Trung Quốc có câu “到什
么山,唱什么歌" (lên núi nào thì hát bài hát ấy/nhập
gia tùy tục) hay “见什么人说什么话" (gặp người nào
thì nói lời ấy). Câu nói tưởng chừng như một lời cửa
miệng đời thường, nhưng chất chứa trong đó là cả
một nguyên tắc giao tiếp và trong một chừng mực
nhất định, đã đề cập đến tâm điểm của ngữ cảnh:
Quan hệ giữa các đối tượng tham gia giao tiếp và môi
trường giao tiếp. Trong đó, việc phát ngôn phải có
chủ đích và hướng tới đối tượng nhận ngôn nhằm đạt
được hiệu quả như mong muốn. Ngữ cảnh không chỉ
là vấn đề được giới ngôn ngữ học quan tâm nghiên
cứu, mà nó còn là vấn đề thuộc lĩnh vực logic học và
có giá trị ứng dụng cao trong lĩnh vực dạy học ngôn
ngữ, nhất là dạy học ngoại ngữ và lĩnh vực dịch thuật.
Trải qua quá trình nghiên cứu, các học giả đã luôn
luôn kế thừa và phát triển, hình thành nên một môn
khoa học độc lập: Ngữ cảnh học. Ngữ cảnh học là một
môn khoa học gắn liền với khoa học ngôn ngữ, nhất
là giao tiếp ngôn ngữ.
4 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Những năm gần đây, các học giả nghiên cứu ngôn
ngữ nói chung và ngữ cảnh nói riêng trên thế giới đã
và đang đạt được những bước đột phá từ ngoại tại
đến bản tính bên trong, từ trạng thái tĩnh tới trạng
thái động và theo hướng mở với những nghiên cứu
liên ngành. Nghiên cứu ngữ cảnh từng bước được
nâng lên một tầm cao mới. Lý luận về ngữ cảnh tri
nhận được hình thành, giúp người nghiên cứu và sử
dụng ngôn ngữ có một cách nhìn mới về ngữ cảnh.
Giá trị ứng dụng của việc nghiên cứu ngữ cảnh càng
thiết thực. Trong bài viết này, trước hết, chúng tôi
tổng kết lại những thành quả nghiên cứu chính của
các học giả trên thế giới về vấn đề ngữ cảnh, trên cơ
sở đó chỉ ra những nhân tố cấu thành ngữ cảnh cũng
như vai trò của chúng đối với giao tiếp ngôn ngữ nói
chung và dạy học ngoại ngữ nói riêng.
2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGỮ CẢNH
2.1. Đôi nét về lịch sử nghiên cứu ngữ cảnh
Trên thế giới, học giả đề cập đến vấn đề ngữ cảnh đầu
tiên là nhà ngôn ngữ học người Ba Lan Malinowski
(1923), ông chia ngữ cảnh thành ba tiểu loại, gồm
(1) ngữ cảnh lời nói (context of utterance); (2) ngữ
cảnh tình huống, gọi tắt là cảnh huống (context of
situation) và ngữ cảnh văn hóa (context culture). Với
vai trò là người kế thừa và phát triển quan điểm của
Malinowski, nhà ngôn ngữ học người Anh tên là Firth
đã tiến hành phân tích, làm nổi rõ hàm ý của ngữ cảnh
(context) và khẳng định ngôn ngữ có quan hệ mật
thiết với môi trường xã hội. Về sau, nhà ngôn ngữ học
nổi tiếng người Anh Halliday tiếp thu thành quả của
các học giả đi trước và chia ngữ cảnh thành hai loại:
ngữ cảnh ngôn ngữ và ngữ cảnh phi ngôn ngữ, đồng
thời đưa ra khái niệm ngữ vực (register). Halliday đã
đi sâu phân tích ba nhân tố hợp thành cảnh huống
giao tiếp, gồm ngữ trường (field), ngữ chỉ (tenor) và
ngữ thức (mode).
Sau những năm 80 của thế kỷ 20, giới nghiên cứu
ngôn ngữ học phương Tây đã tiếp thu có phê phán
thành tựu của ngữ cảnh học truyền thống, xây
dựng nên lí thuyết về ngữ cảnh học tri nhận và xem
xét ngữ cảnh ở trạng thái động. Năm 1986, hai nhà
ngôn ngữ học Dansperber và Deirdre Wilson cùng
cộng tác nghiên cứu, cho ra đời cuốn sách mang
tên “Liên quan: Giao tiếp và tri nhận” (Relevance:
Communication and Cognition). Từ đó, họ xây dựng
nên lý thuyết liên quan (The Relevance Theory) và đưa
ra khái niệm giả thiết ngữ cảnh (context assumptions).
Trong bối cảnh đó, trường phái ngữ cảnh tri nhận
(Cognitive environment) cũng được hình thành.
Lý luận về ngữ cảnh tri nhận ra đời đã mở ra một
không gian mới và cách nhìn mới cho công tác nghiên
cứu ngữ cảnh.
Cùng với các học giả phương Tây, giới ngôn ngữ học
Trung Quốc từ những năm 30 của thế kỷ trước cũng
bắt đầu quan tâm đến vấn đề ngữ cảnh. Người đầu
tiên đề cập đến ngữ cảnh ở Trung Quốc là Trần Vọng
Đạo với cuốn sách nhan đề “Tu từ học phát phàm” (修
辞学发凡). Trong đó có một nội dung dành cho ngữ
cảnh. Ông khẳng định, tu từ phải thích ứng với cảnh
huống giao tiếp, đồng thời chỉ ra sáu nhân tố cấu
thành cảnh huống, gồm 何故hà cố (nguyên cớ gì),
何事hà sự (sự việc gì), 何人hà nhân (ai/ người nào),
何地hà địa (nơi nào), 何时hà thời (lúc nào), 如何như
hà (như thế nào) (陈望道,1976). Như vậy, sáu nhân tố
tạo nên cảnh huống theo quan điểm của Trần Vọng
Đạo đã bao quát cả đối tượng, không gian, thời gian,
phương thức, có tác động đến quá trình giao tiếp.
Vương Đức Xuân từ những năm 60 của thế kỷ trước
cũng đã dành tâm sức cho nghiên cứu ngữ cảnh.
Trước hết, ông xuất phát từ vấn đề hoàn cảnh sử
dụng ngôn ngữ, từ đó phát triển vấn đề lên tầm cao
và hình thành nên khái niệm hoàn cảnh lời nói, quy
luật ngữ cảnh. Ông cho rằng, ngữ cảnh là do các nhân
tố chủ quan và khách quan của quá trình giao tiếp
ngôn ngữ tạo nên. Tiếp đó, Trương Chí Công (1982)
trong cuốn “Hán ngữ hiện đại” của mình cũng đề cập
đến vấn đề ngữ cảnh. Ông tách ngữ cảnh thành ngữ
cảnh hiện thực, ngữ cảnh xã hội, thời đại và ngữ cảnh
cá nhân. Riêng năm 1992, “Tập luận văn nghiên cứu
ngữ cảnh” (语境研究论文集), Nhà xuất bản Học viện
Ngôn ngữ Bắc Kinh và “Tập luận văn về tu từ học” (修
辞学论文集) của Hiệp hội Tu từ học Trung Quốc, Nhà
xuất bản Đại học Hà Nam lần lượt ra đời, đều là những
công trình nghiên cứu khá chuyên sâu về ngữ cảnh.
Năm 1999, tác giả Phùng Quảng Nghệ cho ra đời
cuốn “Bàn về tính thích ứng của ngữ cảnh” (语境适
应论 ngữ cảnh thích ứng luận). Cuốn sách gồm năm
chương, tập trung nghiên cứu chuyên sâu về tính
thích ứng của ngữ cảnh từ những góc nhìn vĩ mô và
vi mô. Trong đó, tác giả đã phân tích sâu các khía cạnh
5KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
như chế độ chính trị xã hội, phương thức sống, hoàn
cảnh kinh tế, bối cảnh thời đại, khu vực, môi trường
văn hóa địa lý, tâm lý dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng
là những vấn đề thuộc tầm vĩ mô cần phải thích
ứng. Các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa và
ngữ pháp thuộc tầm vi mô cũng cần phải thích ứng.
Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến cả các yếu tố như
tư thế, khoảng cách giao tiếp đều cần phải đảm bảo
tính thích ứng, đồng thời chỉ ra các quy tắc thích ứng
trong quá trình hợp tác giao tiếp giữa người nói và
người nghe (冯广艺, 1999).
Ngoài ra, còn phải kể đến “Luận ngữ cảnh” (论语境)
của Thạch Vân Tôn, “Ngữ cảnh và ngữ nghĩa” (语境
与语义) của Thường Kính Vũ, “Ý nghĩa ngữ dụng và
ngữ cảnh” (语用意义和语境) của Hà Triệu Hùng, “Tu
từ và hoàn cảnh ngôn ngữ” (修辞与语言环境) do
Diêu Điện Phương và Phan Triệu Minh đồng chủ biên,
“Giao tiếp lời nói và ngữ cảnh” (言语交际和语境) của
Triệu Đức Chu.
Như vậy, vấn đề ngữ cảnh là một trong những tâm
điểm của ngôn ngữ học và ngôn ngữ học giao tiếp, từ
lâu đã được các học giả trên thế giới quan tâm nghiên
cứu. Trải qua lịch sử hơn 90 năm, nghiên cứu về ngữ
cảnh đã đạt được những thành quả to lớn. Các công
trình nghiên cứu mang tính kế thừa và phát triển. Từ
trạng thái tĩnh, nghiên cứu về ngữ cảnh đã phát triển
sang trạng thái động. Phần lớn các học giả tuy có
những hướng phát triển khác nhau nhưng đều cho
rằng, nhân tố cấu thành ngữ cảnh bao gồm hai phương
diện: khách quan và chủ quan. Ngữ cảnh học tri nhận
nhìn nhận ngữ cảnh từ góc nhìn mới, có vai trò quan
trọng trong ngôn ngữ học giao tiếp. Nghiên cứu về
ngữ cảnh trong giao tiếp ngôn ngữ trên thế giới và ở
Trung Quốc đã đạt được những thành quả to lớn. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, nghiên cứu về ngữ cảnh cho đến
nay vẫn còn là một khoảng trống cần được lấp đầy.
2.2. Đặc trưng và vai trò của ngữ cảnh
2.2.1. Đặc trưng của ngữ cảnh
Ngữ cảnh (context) là cách nói tắt của hoàn cảnh
ngôn ngữ. Ngữ cảnh liên quan đến các lĩnh vực như
ngôn ngữ học xã hội, ngữ nghĩa học, ngữ dụng học và
tu từ học của ngôn ngữ học hiện đại.
Về khái niệm ngữ cảnh, các học giả tuy có những
quan điểm và cách biểu đạt khác nhau, nhưng cũng
có nhiều điểm nhất trí với nhau. Tác giả Trần Cung
trong cuốn “Tu từ học tiếng Hán hiện đại”(现代汉语
修辞学)cho rằng: “Ngữ cảnh bao gồm môi trường
xã hội, môi trường tự nhiên và đoạn hoặc câu văn
trên dưới. Phân tích ra thì ngữ cảnh có các nhân tố
như: (1) môi trường có liên quan khi phát ngôn; (2)
tận dụng những điều kiện thời gian, địa điểm; (3) tận
dụng đặc điểm cảnh vật tự nhiên; (4) phù hợp với
quan hệ giữa người nói và người nghe/người đọc; (5)
phù hợp với tình hình của người nghe và người đọc;
(6) chú ý đến quan hệ giữa đoạn/câu văn trên dưới”
“Từ điển tu từ ngữ pháp tiếng Hán”(汉语语法修辞
学)của Trương Địch Hoa và một số tác giả khác lại
giải thích rằng: “Ngữ cảnh chỉ đoạn văn trên và dưới.
Từ, đoản ngữ, câu đều có thể có ngữ cảnh Ngoài
đoạn văn trên dưới ra, còn có ngữ cảnh nói, thậm chí
bao gồm các bối cảnh có liên quan đến lời nói, như
phong tục tập quán, tu dưỡng cá nhân, mục đích giao
tiếp v.v”
Vương Đức Xuân trong cuốn “Từ điển tu từ học”(修
辞学词典)cho rằng: “ Hoàn cảnh sử dụng ngôn
ngữ gọi tắt là “ngữ cảnh”. Nhân tố khách quan của
ngữ cảnh bao gồm thời gian, địa điểm, trường hợp,
đối tượng v.v; nhân tố chủ quan gồm: vị thế, nghề
nghiệp, tư tưởng, tu dưỡng, cảnh ngộ, tâm trạng v.v
Những nhân tố này có ảnh hưởng và ràng buộc việc
sử dụng ngôn ngữ.”
Thịnh Hiểu Minh trong cuốn “Quy tắc lời nói và nền
tảng tri thức” (话语规则与知识基础) cho rằng, yêu
cầu mang tính hữu hiệu của hành vi giao tiếp gồm
bốn loại hình “loại hình giao tiếp, loại hình xác nhận
sự thực, loại hình biểu lộ và loại hình quy chế.” Vì vậy,
cũng có bốn yêu cầu hữu hiệu tương ứng với bốn loại
hình trên, gồm “tính chân thực của việc lĩnh hội, tính
chân lý trong trần thuật, tính thành thật trong lời nói
và tính hợp quy trong hành vi.”
Lưu Hoán Huy trong cuốn “Giao tiếp học lời nói” (言语
交际学) dành một chương bàn về ngữ cảnh. Tác giả
không coi chủ thể sử dụng ngôn ngữ là một trong
những nhân tố cấu thành ngữ cảnh, với lý do “ảnh
hưởng của nhân tố chủ thể và nhân tố ngữ cảnh đối
với hoạt động lời nói và thành phẩm của nó, tức lời
nói có sự khác biệt về chất”. Tuy nhiên, tác giả vẫn
khẳng định, hoàn cảnh tạo nên lời nói không tách rời
người tham gia giao tiếp.
6 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Chúng tôi không nhất trí quan điểm của Lưu Hoán
Huy ở điểm loại bỏ nhân tố chủ thể sử dụng ngôn ngữ
ra khỏi ngữ cảnh. Bởi vì, những người có bối cảnh văn
hóa khác nhau, năng lực tu dưỡng khác nhau, thuộc
những nghề nghiệp khác nhau, và mục đích giao tiếp
khác nhau thì hiệu quả sử dụng ngôn ngữ cũng khác
nhau. Trong sáng tác văn học, chủ thể sử dụng ngôn
ngữ chính là nhà văn, nhà thơ. Mỗi tác giả đều có
những phong cách khác nhau. Người đọc tác phẩm
cũng cần căn cứ vào nhân tố chủ thể sử dụng ngôn
ngữ để lí giải và hiểu tư tưởng, nội dung của tác phẩm.
Như trên đã tổng kết, thành quả nghiên cứu về ngữ
cảnh không chỉ có những chuyên luận, mà còn thể
hiện ở công tác biên soạn từ điển. Theo kết quả khảo
sát của chúng tôi, ở Trung Quốc, ngoài phần lớn các
loại từ điển về tu từ học ra, còn có một số từ điển khác
như “Từ điển ngôn ngữ học giản minh” (简明语言学
词典) của Vương Kim Tranh, “Từ điển ngữ pháp học”
(语法学词典) của Vương Duy Hiền, cũng có đề cập
và đưa ra cách giải thích về ngữ cảnh.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ngữ cảnh có liên quan
nhiều đến tu từ học. Bởi lẽ, khi một phát ngôn được
truyền đến người nghe hoặc người đọc, chủ thể phát
ngôn phải căn cứ vào rất nhiều nhân tố chủ quan và
khách quan. Thứ nhất, nó phải phù hợp với quan hệ
logic giữa câu hoặc đoạn văn trên và dưới của phát
ngôn. Thứ hai, nó phải phù hợp với đối tượng tiếp
nhận phát ngôn cũng như trường hợp, mục đích, thời
gian, không gian phát ngôn. Thứ ba, nó thể hiện năng
lực tu dưỡng, trau dồi ngôn ngữ, văn hóa cũng như vị
thế, nghề nghiệp, thái độ, cảnh ngộ, trạng thái tâm
lý của người phát ngôn. Do đó, để đạt được hiệu quả
giao tiếp, người nói hoặc viết trước khi đưa ra phát
ngôn đều không thể tùy tiện, mà phải cân nhắc, lựa
chọn ngôn từ, tổ hợp kiểu câu, thậm chí trong ngôn
ngữ nói còn phải quan tâm đến cả ngữ điệu, ngữ
khí, đúng như sách “Luận ngữ” có câu “tam tư nhi
hậu ngôn chi” (suy nghĩ kỹ rồi mới nói). Mặt khác,
người nhận ngôn để có thể lí giải đúng thông tin mà
người nói hoặc viết truyền đạt cũng phải căn cứ vào
các nhân tố chủ quan và khách quan. Từ đó đưa ra
phương án phản hồi phù hợp, tạo ra mối tương tác
giữa hai bên tham gia giao tiếp. Như vậy, giao tiếp
ngôn ngữ không tách rời ngữ cảnh, điều này hoàn
toàn phù hợp với tính chất của “hoạt động ngôn ngữ
có một mặt cá nhân và một mặt xã hội” (Ferdinand de
Saussure, 1973).
Trong bối cảnh hiện nay, ngôn ngữ học tri nhận ngày
càng được giới nghiên cứu quan tâm, ngữ cảnh tri
nhận (cognitive context) cũng được đặt ra như một
hướng mới trong nghiên cứu ngữ cảnh. Hứa Quỳ Hoa
trong cuốn “Nghiên cứu thực tiễn về chức năng giải
thích ngữ nghĩa ngữ cảnh tri nhận” (认知语境语义阐
释功能的实证研究), Nhà xuất bản Đại học Nhân dân
Trung Hoa cho rằng, ngữ cảnh tri nhận là chỉ mạng
lưới cấu trúc tri nhận đã được người ta mô hình hóa
đối với một khái niệm nào đó dựa trên cơ sở kinh
nghiệm. Đó là kết quả của quá trình tri nhận hóa hoàn
cảnh ngôn ngữ, tri nhận hóa cảnh huống, tri nhận
hóa ngữ cảnh văn hóa. Ngữ cảnh tri nhận hội tụ đầy
đủ các đặc điểm như tính văn hóa, tính khu vực, tính
mơ hồ, trạng thái động (许葵花, 2007). Ngữ cảnh
tri nhận có khả năng giải thích ngữ nghĩa rất cao. Nói
cách khác, ngữ cảnh tri nhận là một quan điểm mới
về ngữ cảnh, có những điểm khác biệt với quan điểm
truyền thống về ngữ cảnh. Vì vậy, ngữ cảnh tri nhận
được xem xét trên góc độ cấu trúc tâm lý. Trong quan
hệ tương tác giữa đôi bên tham gia giao tiếp, để có
thể hiểu đúng ý nghĩa của lời nói, người nhận ngôn
phải hiểu được ngữ cảnh của mỗi một lời thoại. Ngữ
cảnh tri nhận nhấn mạnh vai trò hoạt động tâm lý của
con người khi lý giải thông tin mà người phát ngôn
truyền đạt tới từ góc độ trạng thái động. Như vậy, trải
qua quá trình tiến triển của ngôn ngữ học hiện đại,
nghiên cứu ngữ cảnh được chuyển mình từ trạng thái
tĩnh sang trạng thái động, nghĩa là ngữ cảnh được
nhìn nhận trong mối quan hệ tương tác giữa người
phát ngôn và người nhận ngôn.
Trên cơ sở tiếp thu có phê phán ý kiến của các học
giả đi trước, chúng tôi cho rằng, ngữ cảnh có thể chia
làm hai loại. Thứ nhất, ngữ cảnh là đoạn hoặc câu văn
trên dưới, thậm chí là vế trước và vế sau của một câu
hoặc sự kết hợp các từ với nhau trong một đoản ngữ
(đối với ngôn bản viết) và là chuỗi lời nói trước sau
của của người phát ngôn trong trường hợp độc thoại
và chuỗi lời nói trước sau trong tương quan giữa các
bên tham gia giao tiếp khi hội thoại (đối với ngôn bản
nói). Điều này càng phù hợp với ngôn ngữ Hán, một
ngôn ngữ âm tiết tính mà chữ Hán là loại văn tự biểu
ý có rất nhiều từ đồng âm, chữ đồng âm. Người ta
phải căn cứ vào sự kết hợp đó để phân biệt chính xác
các trường hợp đồng âm và lí giải đúng nghĩa của từ,
câu và cả văn bản. Đó là cách hiểu theo nghĩa hẹp.
Với nghĩa rộng, ngữ cảnh thể hiện ở: (1) các nhân tố
chủ quan thuộc về người phát ngôn và các nhân tố
7KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
khách quan thuộc về người nhận ngôn, bao gồm
tuổi tác, giới tính, vị thế, nghề nghiệp, trạng thái
tinh thần, năng lực trau dồi ngôn ngữ, bối cảnh văn
hóa. Trong thời đại quốc tế hóa hiện nay, giao tiếp
giao văn hóa ngày càng mở rộng, ngữ cảnh còn bao
gồm cả tâm lý, văn hóa dân tộc của người tham gia
giao tiếp; (2) các nhân tố thuộc môi trường xã hội như
không gian xã hội trong giao tiếp và trường hợp giao
tiếp; (3) địa điểm và thời gian xảy ra hoạt động giao
tiếp (với cái gọi là môi trường trong ngữ cảnh, chúng
tôi chỉ đề cập đến môi trường xã hội mà không coi
môi trường tự nhiên là nhân tố hợp thành ngữ cảnh);
(4) mục đích giao tiếp và quan hệ giữa các bên tham
gia giao tiếp; (5) hành vi không lời của người tham gia
giao tiếp, như cử chỉ, tư thế, dung mạo, khoảng cách
giao tiếp. Với mỗi cuộc hội thoại, các bên tham gia
giao tiếp cần phải căn cứ vào ngữ cảnh để lựa chọn
hình thức ngôn ngữ cho phù hợp, nhằm giúp cho
cuộc thoại được duy trì và diễn ra thuận lợi. Điều đó
có nghĩa là, người tham gia giao tiếp cần phải “hòa
nhập” vào cuộc thoại để đạt được sự hô ứng và tuân
thủ nguyên tắc hợp tác trong giao tiếp.
Trong thực tế giao tiếp, có khi một ngữ cảnh được cố
định, xuyên suốt trong cả quá trình cuộc thoại diễn
ra, song cũng có khi cùng một cuộc thoại, ngữ cảnh
được thay đổi, chuyển hóa tùy thuộc vào việc thay đổi
vai giao tiếp và sự thay đổi trạng thái tâm lý của người
tham gia giao tiếp. Thí dụ, cuộc thoại của hai người
mới tiếp xúc với nhau lần đầu, trải qua quá trình trao
đổi, giao lưu tư tưởng, họ từ chỗ xa lạ mau chóng trở
nên thân thiết, có tiếng nói chung, tâm lý thoải mái
hơn, ngôn từ cũng từ chỗ trang trọng, dè dặt chuyển
sang suồng sã hơn, tự nhiên hơn. Cách xưng hô cũng
có thể thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của quan
hệ giao tiếp.
Căn cứ kết quả phân tích trên đây, chúng tôi đưa ra sơ
đồ về ngữ cảnh như hình 1.
2.2.2. Vai trò của ngữ cảnh trong giao tiếp ngôn ngữ
Trước hết, phải khẳng định rằng, ngữ cảnh có vai trò
vô cùng quan trọng đối với việc phát ngôn và nhận
ngôn. Ngữ cảnh tạo điều kiện cho ngôn ngữ thực
hiện chức năng quy chiếu. Về phía người phát ngôn,
trong quá trình giao tiếp, trước hết phải căn cứ vào
các nhân tố cấu thành ngữ cảnh để lựa chọn ngôn từ,
kiểu câu, sử dụng ngữ khí phù hợp để có thể truyền
đạt thông tin đến người nhận ngôn một cách hiệu
quả nhất. Ca dao Việt Nam có câu: “Lời nói chẳng mất
tiền mua, lựa/ liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau”, đã
thể hiện rõ nét vai trò của ngữ cảnh trong giao tiếp
ngôn ngữ mà trước hết là hành vi phát ngôn. Trong
trường hợp đôi bên tham gia giao tiếp có sự khác biệt
về năng lực ngôn ngữ, vị thế xã hội, trạng thái tâm
lý, bối cảnh văn hóa, thì người phát ngôn cần có
những điều chỉnh ngôn từ cho phù hợp, nhằm đạt
được sự thống nhất về quan hệ giao tiếp, tuân thủ
nguyên tắc hợp tác trong giao tiếp. Đồng thời, người
nhận ngôn cũng phải căn cứ vào các nhân tố ngữ
cảnh để lý giải đúng thông tin mà người phát ngôn
truyền đạt để đưa ra phương án đối đáp hợp lý, giúp
cho cuộc thoại diễn ra một cách thuận lợi.
Trong một ngữ cảnh nhất định, các đơn vị ngôn ngữ
tham gia vào quá trình tổ hợp lời nói, thực hiện chức
năng giao tiếp dù là từ, từ tổ, câu hay đơn vị cao hơn
câu như đoạn văn cũng đều có quan hệ logic, ràng
buộc lẫn nhau mà không thể tồn tại một cách độc
lập được. Bởi vì, khi tách rời các đơn vị đó ra cũng có
nghĩa là chúng đã không còn ngữ cảnh để tồn tại,
điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc lý giải thông tin, nhất
là đối với những đơn vị nhỏ như từ hoặc từ tổ. Một nhà
ngôn ngữ học đã nói, cho tôi một ngữ cảnh, tôi sẽ xác
định được nghĩa của từ. Ngữ cảnh đã trở thành điều
Hình 1. Sơ đồ về ngữ cảnh
8 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
kiện cần và đủ để lý giải thông tin mà người nói hoặc
viết truyền đạt tới người nghe hoặc đọc. Để đảm bảo
cho văn bản nói hoặc viết có tính logic, giữa các câu,
các đoạn cần chú ý đến các thành phần chuyển tiếp.
Thành phần chuyển tiếp có thể là từ, câu, thậm chí là
một đoạn nhỏ, đóng vai trò nối kết các đoạn văn trên
và dưới cũng như nối kết lời thoại của người nói và
người nghe, nhất là dẫn ra đoạn văn sau, gợi mở cho
đối tượng giao tiếp tích cực tham gia vào cuộc thoại.
Trong quan hệ xã hội, mỗi người đều có thể sắm
nhiều vai giao tiếp khác nhau. Mặt khác, đôi bên
tham gia giao tiếp có khi thuộc nhiều quan hệ khác
nhau. Chẳng hạn, một sinh viên ưu tú sau khi tốt
nghiệp được nhận công tác giảng dạy tại trường cũ
của mình, quan hệ của cựu sinh viên đó với thầy cô
đã từng dạy mình ở ngôi trường đó vừa là quan hệ
đồng nghiệp, vừa là quan hệ thầy trò. Mặt khác, đôi
bên giao tiếp có khi là quan hệ quyền thế, có khi là
quan hệ liên nhân. Mục đích giao tiếp, trường hợp
giao tiếp cũng khác nhau, có khi là giao tiếp chính
thức, có khi là giao tiếp không chính thức. Vì vậy,
khi bước vào cuộc thoại, người ta thường chọn cho
mình một quan hệ giao tiếp có lợi nhất cho việc thực
hiện mục đích giao tiếp. Chẳng hạn, giữa A và B vừa
là quan hệ thân tộc, vừa là quan hệ giữa thủ trưởng
với nhân viên, tùy vào từng tính chất và mục đích của
cuộc thoại, họ có thể lựa chọn một trong hai quan
hệ đó sao cho vai giao tiếp được chọn thuận lợi nhất
đối với việc thực hiện mục đích giao tiếp. Quan hệ vai
giao tiếp trong tiếng Hán và tiếng Việt thường được
xác định bởi cách lựa chọn từ ngữ xưng hô, bao gồm
tự xưng và đối xưng. Để đạt được hiệu quả cao trong
giao tiếp, người ta phải áp dụng các chiến lược giao
tiếp. Trong đó, việc tận dụng các yếu tố cấu thành ngữ
cảnh là vô cùng quan trọng, giúp người tham gia giao
tiếp phát huy được mặt mạnh trên các phương diện
như vai trò, địa vị của người phát ngôn và người nhận
ngôn, thời gian, không gian diễn ra hoạt động ngôn
ngữ, mức độ chính thức hay không chính thức của
cuộc thoại. Từ đó có được phương án làm cho lời
nói của mình phù hợp với chủ đề của cuộc thoại cũng
như phù hợp với ngữ vực trong môi trường giao tiếp.
Người nhận ngôn cũng phải căn cứ vào ngữ cảnh để
xác định đúng và lý giải chính xác ý nghĩa của thông
tin mà người phát ngôn truyền đạt.
Việc chuyển dịch thông tin từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ kia cũng cần phải gắn với ngữ cảnh. Trong
những trường hợp việc biểu đạt giữa hai ngôn ngữ
không có mối tương ứng hoàn toàn 1:1, càng cần
phải căn cứ vào ngữ cảnh để tìm ra cách biểu đạt
tương đương giữa ngôn ngữ đích với ngôn ngữ
nguồn. Một ví dụ điển hình về sự chênh lệch trong
cách sử dụng ngôn từ của tiếng Hán và tiếng Việt
là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.
Nếu như trong tiếng Hán, ngôi thứ nhất 我ngã/我
们ngã môn và ngôi thứ hai 你nhĩ/你们nhĩ môn cùng
với biến thể 您 biểu thị tôn xưng là rất phổ biến thì
trong tiếng Việt, xưng hô bằng từ xưng hô thân tộc
lại chiếm ưu thế vượt trội. Chính vì vậy, một khi tách
rời ngữ cảnh, người dịch sẽ không thể chuyển dịch
chính xác đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi
thứ hai từ tiếng Hán sang tiếng Việt một cách chính
xác. Điển hình nhất là dịch kịch bản phim truyền
hình Trung Quốc, dịch giả nhất thiết phải kết hợp
nghe và nhìn mới có thể xác định đúng vai giao tiếp
của từng nhân vật trong từng cuộc thoại để chuyển
dịch chính xác đại từ nhân xưng.
3. NGỮ CẢNH TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, công tác dạy
học ngoại ngữ ngày càng được coi trọng. Để có thể
rút ngắn thời gian, đồng thời nâng cao hiệu quả dạy
học ngoại ngữ, vấn đề đổi mới phương pháp giảng
dạy được đặt lên hàng đầu. Dạy học ngoại ngữ theo
đường hướng giao tiếp đã thể hiện được ưu thế của
nó. Để có được môi trường giao tiếp, nhất là giao
tiếp ngôn ngữ trong giờ học trên lớp, người dạy phải
đóng vai trò là người tổ chức và người học là nhân
vật trung tâm. Thông qua quá trình nghiên cứu bài
giảng, người dạy phải thực sự chủ động, sáng tạo và
linh hoạt trong việc thiết kế các tình huống giao tiếp
khác nhau xoay quanh nội dung chủ đề của mỗi bài
học. Hình thức thể hiện gồm độc thoại, đối thoại, hội
thoại. Để có được những “màn kịch” tự nhiên, sát thực
cho người học vận dụng các kiến thức ngôn ngữ vừa
được tích lũy, thực hành giao tiếp một cách có hiệu
quả, người dạy hơn ai hết phải nắm được đặc điểm,
vai trò, nhất là các yếu tố cấu thành ngữ cảnh và căn
cứ vào đó, vận dụng một cách sáng tạo, đưa ra các
tình huống giao tiếp khác nhau, giúp người học có
thể sắm nhiều vai giao tiếp xoay quanh một chủ đề.
Tình huống giao tiếp chính là sự thể hiện sinh động
của ngữ cảnh giao tiếp, giúp người học đặt mình
vào những vai giao tiếp khác nhau, với những mục
đích giao tiếp khác nhau, vận dụng ngôn từ vào từng
9KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
ngôn cảnh để truyền đạt và lý giải thông tin, thông
qua các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Giai đoạn đầu, với người mới tiếp xúc với ngoại ngữ,
trong giáo trình ngoại ngữ sơ cấp nói chung và giáo
trình tiếng Trung Quốc nói riêng, các bài hội thoại
thường có chú thích đôi điều về quan hệ giữa người
nói và người nghe, không gian diễn ra hoạt động
ngôn ngữ, mục đích của hành động. Những thông
tin này chính là sự giới thiệu ngắn gọn nhất về ngữ
cảnh của cuộc thoại diễn ra ở phía sau. Ví dụ, bài khóa
bài 47 giáo trình Hán ngữ Tập II quyển hạ, nguyên
bản của Dương Ký Châu, Nhà xuất bản Đại học Ngôn
ngữ Văn hóa Bắc Kinh, trước đoạn hội thoại thứ nhất
có chú thích Mary và Mike đến trung tâm hội nghị tìm
một người bạn(玛丽和麦克到会议中心去找一个朋
友)hay đoạn thoại thứ hai bài khóa bài 50 có mấy
chữ trên máy bay(在飞机上). Những nội dung chú
thích ấy tuy đơn giản, nhưng nó có tác dụng rất lớn
đối với việc dẫn dắt triển khai nội dung cuộc thoại ở
phía sau. Đồng thời giúp người học từng bước nhận
thức được vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến việc
sử dụng ngôn từ trong cuộc thoại. Người dạy cần
hướng đạo cho người học từ chỗ nắm được mối liên
hệ giữa lời chú thích hay đúng hơn là lời dẫn thoại
trong bài khóa đến chỗ mô phỏng để chuyển sang
các cảnh huống giao tiếp khác.
Trong phần lớn giáo trình, các bài học đều thiết kế
tranh minh họa và một hệ thống bài tập đa dạng, nhất
là bài tập về diễn đạt nói và viết, yếu tố ngữ cảnh được
các tác giả biên soạn giáo trình hết sức quan tâm. Các
bài luyện tập đó đều gắn với cảnh huống giao tiếp,
đoạn/câu văn trên dưới. Đặc biệt là trong mỗi bức
tranh đều là một không gian không lời, tạo điều kiện
cho người dạy tận dụng nó để đưa ra các yêu cầu cho
người học thực hành miêu tả tranh dưới những góc
nhìn khác nhau, vai giao tiếp khác nhau. Người học
thông qua quan sát, trừu tượng hóa bức tranh và biến
nội dung của nó từ không lời thành có lời. Điều đó
vừa có tác dụng vận dụng các yếu tố ngữ cảnh vào
thực tiễn thực hành giao tiếp ngôn ngữ, vừa có tác
dụng trau dồi năng lực quan sát, phát hiện vấn đề,
năng lực thẩm mỹ và tư duy liên tưởng cho người học.
Bên cạnh việc khai thác nội dung và hình thức của
mỗi bài học trong giáo trình, người dạy còn có một
không gian sáng tạo rất lớn, đó là tổ chức trò chơi,
tạo ra không gian giao tiếp với sự tham gia của các
nhân tố chủ quan và khách quan để người học có thể
luân phiên sắm các vai giao tiếp khác nhau, thực hiện
các hành vi trao lời, đáp lời và tương tác, có tác dụng
thúc đẩy ba vận động đặc trưng của hội thoại. Trong
đó, hai vận động đầu do từng bên tham gia giao tiếp
thực hiện, nhằm phối hợp với nhau tạo thành vận
động thứ ba.
Trong điều kiện thiết bị dạy học ở các trường ngày
càng hiện đại, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào quá trình dạy học ngày càng phổ biến. Nhờ đó,
các thiết bị nghe nhìn được phát huy tác dụng. Trong
quá trình soạn giáo án điện tử, người dạy thông qua
thiết kế tranh ảnh, hình họa tạo cảnh huống giao tiếp
cho người học. Bên cạnh đó, hoạt động ngoại khóa,
đi thực tế xã hội,đều có tác dụng tạo cho người học
hoàn cảnh giao tiếp ngôn ngữ. Ngay cả khâu thuật
lại bài khóa cũng cần được thực hiện một cách linh
hoạt qua các vai trần thuật khác nhau, như dùng lời
của bản thân người trần thuật, hoặc dùng lời của một
trong các thành viên tham gia hội thoại đã xuất hiện
trong bài khóa. Tất cả những thao tác đó trong tổ
chức dạy học cần được vận dụng một cách linh hoạt,
mềm dẻo, tạo ra cảnh huống giao tiếp càng đa dạng,
phong phú, giúp cho người học luôn có cảm giác mới
mẻ. Hứng thú cũng được liên tục hình thành và đi từ
cao trào này đến cao trào khác, khiến cho giờ học có
sức cuốn hút, đạt được hiệu quả cao. Ngoài ra, trong
quá trình thiết kế đề thi, nhất là hình thức tự luận,
người thực hiện cũng cần dày công cho đề thi nói và
viết có được một cảnh huống rõ ràng, tạo điều kiện
cho người học có thể đặt mình vào cảnh huống giao
tiếp đó để triển khai nội dung đúng hướng, nâng cao
chất lượng bài thi.
4. KẾT LUẬN
Ngữ cảnh là vấn đề hạt nhân trong giao tiếp ngôn
ngữ. Ngữ cảnh cũng có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Vấn
đề ngữ cảnh từ lâu đã nhận được sự quan tâm của
giới nghiên cứu ngôn ngữ. Hướng nghiên cứu ngữ
cảnh đã tiến triển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái
động. Ngữ cảnh tri nhận là một thuật ngữ mới trong
nghiên cứu ngôn ngữ học giao tiếp hiện nay. Các
nhân tố hợp thành ngữ cảnh bao gồm đoạn văn trên
dưới, lời thoại trước sau, kết hợp với các nhân tố chủ
quan và khách quan tham gia và tác động đến quá
trình truyền đạt thông tin, lý giải thông tin. Nghiên
cứu ngữ cảnh có giá trị ứng dụng thiết thực trong việc
10 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
nâng cao hiệu quả giao tiếp, gắn kết con người với
con người trong quan hệ xã hội và ứng dụng vào dạy
học ngoại ngữ cũng như dịch thuật. Để cải thiện chất
lượng dạy học ngoại ngữ theo đường hướng giao
tiếp, việc vận dụng kiến thức ngữ cảnh và ngữ cảnh
học vào quá trình thiết kế cảnh huống giao tiếp, đưa
người học vào môi trường thực hành giao tiếp ngôn
ngữ là vô cùng quan trọng, khiến cho hoạt động dạy
học ngoại ngữ trở nên sinh động, thiết thực, gắn lý
luận ngôn ngữ với thực tiễn sử dụng ngôn ngữ./.
Tài liệu tham khảo:
1. Ferdinand de Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ
học đại cương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. 陈弓(1993), 现代汉语修辞学,河北教育出版
社。
3. 陈望道(1976), 修辞学发凡,上海人民出版
社。
4. 冯广艺(1999), 语境适应论,湖北教育出版
社。
5. 刘焕辉(2001), 言语交际学,江西教育出版
社。
6. 盛晓明(2000), 话语规则与知识基础,学林出
版社。
7. 王德春(1987), 修辞学词典,浙江教育出版
社。
8. 许葵花(2007), 认知语境语义阐释功能的实证
研究,人民大学出版社。
9. 张涤华等人(1988), 汉语语法修辞词典,安徽
教育出版社。
CONTEXT AND ITS ROLE IN TEACHING FOREIGN LANGUAGES
PHAM NGOC HAM
Abtract: Context is one of the components that have an enormous influence over the process of
communicating, and is used to discover the meaning of a word and information that the speaker
conveys to the receipient, and this issue has received numerous attention from researchers ever
since. These days, context is researched in terms of recognition and being put in active status.
Studying context has considerable application especially in teaching foreign language. In this
article, we would like to summarize the history of studying context. Then we display the elements
forming context and roles in communicating and teaching foreign language.
Key words: teaching foreign langugae , context, role.
11KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
TS. ĐOÀN THỤC ANH1; ThS. NGUYỄN TUẤN ANH2
1, 2 Học viện Khoa học Quân sự ✉ doanthucanhk12@gmail.com
Ngày nhận: 28/12/2016; Ngày hoàn thiện: 10 /01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017
Phản biện khoa học: PGS.TS. DƯƠNG QUỐC CƯỜNG
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước Nga là đất nước trải dài trên cả khu vực châu Âu
và châu Á. Dân tộc Nga mang đậm bản sắc của nền
văn hóa Đông-Tây. Nhắc tới nước Nga là nhắc tới sự bí
ẩn và không giải thích được của tâm hồn Nga. “Nước
Nga - đó là câu hỏi hóc búa vẫn còn là bí mật bên
trong điều bí ẩn” (Скальковский К.,1993). Vậy nước
Nga là phương Đông hay phương Tây? Câu hỏi này
hàm ý không chỉ về vị trí địa lý của Nga mà còn về
tâm tính dân tộc Nga. Cái gì nổi trội hơn ở trong con
người họ: phong cách Tây Âu hay Đông Âu? Nói đến
tính cách Nga là nói tới những phẩm chất tốt đẹp, tuy
nhiên trong đó nổi bật lên tính chất mâu thuẫn lên tới
cực điểm. Có thể tìm thấy minh chứng cho nhận định
trên trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, cũng
như các công trình nghiên cứu về địa lý, tâm lý. Đặc
biệt, dưới góc nhìn của ngôn ngữ, mà cụ thể là qua
hệ thống từ vựng, thành ngữ, tục ngữ Nga, sự mâu
thuẫn trong tính cách được khắc họa một cách sinh
động và rõ nét.
CÁC YẾU TỐ NGÔN NGỮ
THỂ HIỆN TÍNH CHẤT MÂU THUẪN
TRONG TÍNH CÁCH NGA
TÓM TẮT
Nói đến tính cách Nga là nói tới những phẩm chất rất tốt đẹp, nhưng cũng chứa đựng thái cực
ngược lại và điều đó tạo nên tính chất mâu thuẫn lên tới cực điểm trong tính cách Nga. Có thể tìm
thấy minh chứng cho nhận định trên trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, cũng như các công
trình nghiên cứu về địa lý, tâm lý. Đặc biệt, dưới góc nhìn của ngôn ngữ, mà cụ thể là qua hệ thống
từ vựng, thành ngữ, tục ngữ Nga, tính chất mâu thuẫn trong tính cách được khắc họa một cách sinh
động và rõ nét. Bài báo này đề cập đến các yếu tố ngôn ngữ thể hiện tính chất mâu thuẫn trong
tính cách Nga.
Từ khóa: bản sắc riêng biệt, mâu thuẫn, văn hóa, tính cách Nga, thành ngữ, tục ngữ.
2. NỘI DUNG
2.1. Các yếu tố hình thành nên sự mâu thuẫn trong
tính cách Nga
2.1.1. Yếu tố không gian
Khi nghiên cứu nét độc đáo của hiện tượng tự nhiên
nước Nga, cụ thể là yếu tố không gian, có thể nhận
thấy rõ nét nếp nghĩ, cách tư duy của người Nga. Nhà
văn N.V.Gogol trong tác phẩm “Отрывок из Истории
Малороссии” (Đoạn trích từ lịch sử của Tiểu Nga) (Tập
1, quyển 1, chương 1, năm 1834) đã viết rằng, tính cách
dân tộc phụ thuộc trực tiếp vào dáng đất. Nước Nga
trải dài trên khoảng không bao la, bất tận với những
cánh rừng, đầm lầy.... “Đất” trong kho tàng thành ngữ
Nga khắc hoạ không gian bao la, rộng lớn, cũng như
diễn tả khoảng cách xa vời vợi giữa “trời” và “đất” (bên
cạnh yếu tố “đất” thường có “trời” đi kèm): как небо и
земля (như trời và đất), как небо от земли (như đất với
trời), различаться как небо и земля (nghĩa đen: khác
nhau như trời và đất) – nghĩa thành ngữ: “khác nhau
12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
một trời một vực”, далёк как небо и земля (cách xa
như trời và đất). Chính sự rộng lớn, sự mênh mông,
sự bất tận của không gian Nga đã đặt dấu ấn lên
tính cách của người Nga. Không phải ngẫu nhiên mà
trong tiếng Nga có nhiều từ có nguồn gốc cấu tạo từ
các từ chỉ địa lý. Chúng thuộc nhóm từ vựng không có
tương đương, có nghĩa là sẽ không có ở những ngôn
ngữ khác và bởi vậy không thể dịch được mà chỉ hiểu
được nhờ bình luận hoặc tường giải nghĩa. Trong
nhóm từ này có từ “тоска” (nỗi buồn) và “подвиг”
(chiến công). Từ “nỗi buồn” – ban đầu là từ chỉ sự chật
chội, thiếu không gian, cũng như không có khả năng
đi lại và di chuyển. Người Nga khao khát được thay
đổi vị trí và chiếm lĩnh những cảm xúc mới. Nếu thiếu
điều này người Nga sẽ cảm thấy buồn chán và bị dằn
vặt. Còn từ gốc của từ “chiến công” là từ “chuyển động”.
Trong các từ điển và sách chỉ dẫn thì từ “chiến công”
được hiểu là hành động anh hùng, hành động cao
cả, tuy nhiên nghĩa khởi nguyên của từ này là hành
động trong khi chuyển động vượt qua khoảng không
gian, cũng như những nỗ lực được thực hiện nhờ có
sự chuyển động hoặc nhằm mục đích dịch chuyển,
chuyển động một cái gì đó cố định. Người Nga khao
khát ôm trọn khung cảnh rộng lớn của các hiện tượng
và cả quá trình chuyển biến của nó. Bởi vậy, trong các
thành ngữ Nga động từ biểu thị hành động và sự tích
cực hoá của cá nhân trong những tình huống phức
tạp của đời sống sinh hoạt thường ngày đóng một vai
trò quan trọng. Có một số lượng lớn các thành ngữ
chứa động từ biểu thị chuyển động trong hệ thống
thành ngữ tiếng Nga: облететь как молния (bay
như chớp), разлететься как сон (bay tứ tung như giấc
ngủ).... Ngôn từ hoa mĩ của N.V.Gogol trong tác phẩm
“Отрывок из Истории Малороссии” (Đoạn trích từ
lịch sử của Tiểu Nga): “Có người Nga nào lại không thích
những chuyến đi tốc hành nhỉ?!” cũng khắc họa tình
yêu đối với tốc độ chuyển động của người Nga gắn
với sự khát khao vượt qua khoảng không gian và cảm
nhận được không gian vô tận. Sự rộng lớn của không
gian bình nguyên đã tác động một cách đặc biệt lên
tính cách dân tộc Nga. Theo N.A. Bergiaev thì “sự vô
tận của khoảng không nơi cư trú có tác động mang
tính chất đầy mâu thuẫn lên người Nga” (Бердяев Н.А.
1990, tr. 61).Trong đặc điểm tư duy của người Nga
luôn có thiên hướng của người Châu Âu, nhưng song
song với nó là sự cạnh tranh mạnh mẽ của phần Châu
Á còn lại. Điều đó cũng có nghĩa là vai trò của tư duy Á
đông đã tạo nên nét văn hoá đặc biệt của người Nga
– người dân sống ở đất nước nằm giữa hai châu lục
Á-Âu.Tính cách Nga có “cấu trúc” khác với người Tây
Âu. Chịu ảnh hưởng của yếu tố không gian nên người
Nga không tính toán chi ly, không tiết kiệm thời gian
và không gian, không mạnh mẽ, quyết liệt và thực
dụng như người Tây Âu. Quen với việc phải trải qua
khoảng không rộng lớn, người Nga có một thái độ
rất đặc biệt với thời gian: Không quý trọng, không
tiết kiệm, không tuân thủ quy tắc là thuộc tính của
người dân châu Âu “chính xác – là lịch sự của các bậc
đế vương”. Khi khởi hành lên đường, người Nga luôn
hình dung một cách tường tận xem khi nào mình sẽ
trở về đến nơi và thậm chí còn thái quá tới mức không
tin tưởng rằng mình sẽ làm được điều này. Và bài hát
dân ca Nga nổi tiếng “Степь да степь кругом” (Bốn
bề là thảo nguyên và thảo nguyên) (nói về cái chết của
người đánh xe ngựa – người bị chết cóng trên thảo
nguyên rậm rạp) là câu chuyện hoàn toàn có thật. Có
thể viện dẫn ra đây lời của X.P. Sevưriev (1806-1864) –
nhà thơ, nhà phê bình, nhà sử học và lý luận văn học:
“Nói chung người Nga không phải là các nhà toán học.
Lúc thì chúng ta vội vã, lúc thì chậm chạp, mà không
thấy bước đều bao giờ cả” (Скальковский К., 1993,
tr.18). Khi nói về vẻ đẹp và khoảng không rộng lớn
của nước Nga, nhà sử học I.A. Ilin trong cuốn sách:
“Историческая судьба и будущее России” (Số phận
lịch sử và tương lai của nước Nga) chia sẻ: “Người Nga
rất tài năng, họ có thể tạo nên điều kỳ diệu từ đôi bàn
tay trắng. Nhưng tất cả diễn ra như tự phát, bất ngờ và
dễ dàng, chính vì vậy mà cũng dễ vứt bỏ và dễ đi vào
quên lãng. Người Nga không đánh giá được tài năng
của mình, phung phí tài sản của mình, không thích
căng thẳng: say mê và quên lãng, cày ruộng và bỏ bễ,
để chặt một cây thì làm chết năm cây. Và đất của anh ta
là đất của Chúa, và rừng cũng là của Chúa, mà Chúa thì
có nghĩa là chẳng là cái gì cả. Vẻ đẹp và không gian
rộng lớn của nước Nga đã dạy cho chúng ta cách ngắm
nhìn thế giới và cảm thụ vẻ đẹp của thế giới. Cũng chính
nhờ điều này mà tâm hồn chúng ta trở nên mềm mại
hơn, dịu dàng hơn, sâu sắc và bay bổng hơn; cũng chính
nhờ vậy tâm hồn dạy cho chúng ta tự thấy mình, thấy
thế giới nội tâm bên trong và tất cả những điều được ẩn
chứa trong nó. Nhưng ở đây cũng ẩn chứa điều rất nguy
hiểm đó là chính vì suy tưởng thái quá thì tâm hồn sẽ
trở nên mơ mộng, lười nhác, thiếu ý chí, lười lao động”
(Ильин И.А., 1992, tr. 9).
2.1.2. Yếu tố khí hậu
Nghiên cứu chi tiết quy luật thiên nhiên, đặc biệt là
hiện tượng khí hậu, có thể hiểu được cả tính quy luật
trong thái độ ứng xử và tính cách con người. Nước
Nga nằm ở trung tâm lục địa Á-Âu, ở đồng bằng,
13KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
không được biển cũng như núi che chở cả ở phía tây
và phía đông để chống lại sự xâm nhập quân sự từ
Bắc Á và Tây Âu. Diện tích rộng lớn của đất nước và sự
xa tách khỏi biển của nhiều vùng tạo nên kiểu khí hậu
đặc biệt ở Nga - khí hậu lục địa ẩm và cận Bắc Cực.
Điều kiện khí hậu khắc nghiệt khiến hiện tượng băng
giá và tuyết thường xuyên xuất hiện trong các thành
ngữ so sánh Nga: белый как снег (trắng như tuyết);
растаять как снег (tan như tuyết); свалиться как снег
на голову (nghĩa đen: đổ xuống như tuyết trút xuống
đầu; nghĩa thành ngữ: bất thình lình, đánh đùn một
cái); холодный как лёд (lạnh như băng). Cũng chính
vì điều kiện tự nhiên khắc nghiệt mà người Nga hình
thành nên tâm lý chống chọi với khó khăn, quyết tâm
vượt qua mọi trở ngại và bằng lao động, bằng trí tuệ,
người Nga đã xây dựng nhà nước hùng cường với nền
công nghiệp vững mạnh. Dân tộc Nga có khả năng
chịu đựng ở mức độ cao những khó khăn, mất mát
và đau khổ. Theo K.G. Iund, người Nga thuộc tuýp
người có giác quan nhạy cảm và có tâm lý hướng
nội. Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm mang tính
chất nền tảng của người Nga là “душа” (tâm hồn). Từ
này xuất hiện nhiều trong các thành ngữ, tục ngữ và
ngạn ngữ Nga. Ngoài ra, khác với từ “истина” (chân
lý) mang tính khách quan và lý tính, người Nga dùng
từ “правда” (sự thật) (Юнг К.Г. , 1992, tr. 123). Người
Nga có tâm lý đánh giá theo cảm tính. Nói đơn giản
hơn thì người Nga có khả năng dự báo đặc biệt và
tri giác cuộc sống bằng tình cảm. Người Nga thường
có những đợt cao trào và thoái trào về cảm xúc tâm
hồn - điều này có nguyên nhân do sự thay đổi của
các mùa trong năm. Cảm xúc của họ thường chế
ngự lý trí và niềm đam mê, sự ngẫu hứng được đặt
cao hơn lợi ích vật chất. Người Nga thường đa sầu,
chậm chạp hơn người Tây Âu, do người Nga phải bảo
tồn và tích lũy năng lượng của mình - nguồn năng
lượng cần thiết cho cuộc đấu tranh chống cái lạnh.
Điều này được giải thích bởi số lượng lớn các động từ
biểu thị trạng thái thể chất và tinh thần của con người
trong hệ thống thành ngữ Nga như: влюбляться как
кошка (yêu thương như con mèo); рыдать как над
покойником (khóc nức nở như khóc người quá cố).
Một trong những nét quan trọng nhất của tính cách
Nga được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
nhận định là cảm xúc cao trào cách mạng, đỉnh cao
anh hùng, sự sẵn sàng lập chiến công, khả năng huy
động sức mạnh vào giây phút xác định. Đặc điểm này
được quy định bởi tính chu kỳ trong nếp sống của
người Nga, được hình thành dưới sự ảnh hưởng của
mùa đông kéo dài và sự cần thiết thu hoạch nhanh
chóng mùa màng. Trong một khoảng thời gian khá
dài người Nga tích lũy hoặc tiết kiệm năng lượng,
cố gắng không gắng sức một cách lãng phí, ít quan
tâm tới những việc đang diễn ra và vào khoảng thời
gian đó như một chú gấu ngủ đông: nhu cầu đối với
chất lượng cuộc sống xuống thấp đến mức tối thiểu,
người Nga hài lòng với những điều nhỏ nhặt và tránh
thất thoát. Người nước ngoài nếu nhìn thấy người
Nga trong giai đoạn này sẽ kết luận ngay rằng họ
lười biếng, thờ ơ, lơ là, biết chịu đựng và có bản chất
nô lệ. Nhưng sự thụ động, ít tích cực chỉ diễn ra theo
giai đoạn với thời gian kéo dài khác nhau: ở phạm vi
đất nước - được tính hàng năm, hàng thiên niên kỷ,
trong khuôn khổ gia đình - hàng tuần, hàng tháng.
Tuy nhiên, sau thời điểm này sẽ là giai đoạn người
Nga chuyển sang “chế độ lập chiến công”. Cái cớ cho
những hành động tích cực có thể là chiến tranh, cách
mạng, công nghiệp hóa, xây dựng chủ nghĩa cộng
sản, chinh phục lãnh thổ mới. Trong những giai
đoạn này người Nga thể hiện những nét tính cách
tốt đẹp nhất: chủ nghĩa anh hùng mang tính chất đại
chúng, sự hy sinh, tình đồng chí, đồng đội, tình yêu
lao động, sự cần mẫn, tố chất lãnh đạo.... Người Nga
cũng được coi là những nhà lãnh đạo điển hình trong
những tình huống khẩn cấp. Chính người Nga tự tạo
ra cho mình những khó khăn để rồi sau đó vượt qua
tất cả một cách anh hùng ví như có thể thực hiện kế
hoạch của một tháng ở tuần cuối cùng. Có thể dẫn ra
thành ngữ để minh họa cho nhận định này: «Русские
долго запрягают, но быстро ездят» (Người Nga lên
dây cương lâu nhưng đi rất nhanh).
Tính chất khắc nghiệt của khí hậu Nga đã ảnh hưởng
mạnh đến tư duy dân tộc Nga. Sinh sống trên lãnh
thổ nơi mùa đông kéo dài đến gần nửa năm, người
Nga đã tạo cho mình nhiều nét tính cách đặc trưng.
Sự độc đáo của thiên nhiên - từ khoảng không, từ
việc cách xa biển, xa sông, khí hậu, thổ nhưỡng và
thực vật đã hình thành ở người Nga cả niềm say mê,
cả tính trực quan, cả sự mất cân bằng, cả khát vọng
tự do, cả thói quen lười biếng, cả tình đoàn kết anh
em.... Các nét tính cách được coi là mặt trái phải kể
tới như sự vô tư thái quá, sự lười biếng và tính mơ
mộng cũng như thói say xỉn ở một mức độ nào đó có
nguyên nhân từ khí hậu. Khi thời tiết nửa năm không
có mặt trời, thì người Nga chỉ muốn được sưởi ấm và
không muốn làm việc. Trong những điều kiện nhất
định người Nga biết tập trung vào ý tưởng của mình
và phớt lờ khí hậu. Rất nhiều chiến công vĩ đại là lời
khẳng định cho nhận định trên. Tính vô tư của người
Nga gắn liền với chế độ nông nô, người Nga dựa vào
14 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
yếu tố “họa may” căn cứ vào hai nguyên nhân: sự hi
vọng vào địa chủ, vào Sa hoàng và “vùng canh tác
đầy mạo hiểm”, có nghĩa là trông mong vào sự đỏng
đảnh và sự bất thường của điều kiện khí hậu. Sự mâu
thuẫn trong tính cách Nga “có nguyên nhân là do
khoảng không trải dài của bình nguyên và khí hậu khắc
nghiệt vì chính điều kiện tự nhiên này đã hình thành nên
sự rộng rãi, hào hiệp và cởi mở của tâm hồn Nga, cũng
như hình thành nên tâm lý chống chọi để vượt qua khó
khăn. Tuy nhiên, những khoảng không bao la, rộng lớn
(gồm những cánh đồng, đống tuyết, những cánh rừng
rậm rạp) cũng là tác nhân đè nén tâm hồn con người”
(Вьюнов Ю.А. ,1998. tr. 153).
2.1.3. Yếu tố lịch sử
Tính cách dân tộc và số phận của đất nước gắn bó
chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng tới nhau trên suốt
con đường lịch sử. Tục ngữ Nga có câu: “Посеешь
характер, пожнешь судьбу” (Gieo tính cách, gặt số
phận). Tính cách dân tộc không phải là cái bất biến.
Tính cách có thể thay đổi mặc dù diễn ra chậm chạp.
Chúng xuất phát từ lịch sử, từ các điều kiện chính trị-
xã hội và thay đổi cùng năm tháng. Các nhà tâm lý
học, nhân chủng học, dân tộc học dựa trên những dữ
liệu cụ thể đã chứng minh rằng nhận thức con người
thay đổi theo lịch sử. Từ những năm 30 của thế kỷ XX
luận điểm về tính chất lịch sử của tâm lý con người
đã được các nhà tâm lý học chứng minh. Những nét
đặc trưng của tâm lý dân tộc là sản phẩm của các
điều kiện lịch sử và chịu sự ảnh hưởng của văn hóa.
Sự độc đáo trong tính cách được hình thành bởi lịch
sử đất nước: từ việc phân bố dân cư trên bình nguyên
rộng lớn, cuộc đấu tranh với dân du mục; cuộc đấu
tranh với Hy lạp, với người Tácta, đấu tranh với giặc
ngoại xâm, cuộc đấu tranh với Ba Lan và Litva, cuộc
xâm lược của Napoleon. Cuộc đấu tranh giành sự
sống trong các điều kiện khó khăn đã hình thành ở
người Nga nhiều phẩm chất tốt đẹp như sự tháo vát,
mưu trí, sự phát triển toàn diện năng lực, trí tuệ, sự
năng động, kiên định, khả năng chịu đựng, sự mạnh
mẽ, cứng rắn. G.G.Spet đã nhấn mạnh: “Chính lịch
sử tạo ra định hướng vật chất của xúc cảm tâm hồn loài
người, lịch sử thiết lập các mốc biểu thị con đường của
tâm hồn” (Cадохин А.П. , 2007, tr. 67). N.A. Berdiaev –
nhà triết học Nga thế kỷ 20 cho rằng, điều cốt lõi nhất
trong tính cách của người Nga là sự mâu thuẫn: Sự
mâu thuẫn trong tâm hồn Nga xuất phát từ lịch sử và
địa lý của đất nước, từ sự đấu tranh thường trực trong
hiện tại giữa quá khứ và tương lai, có nguồn gốc từ vị
trí địa lý của lãnh thổ là nằm ở điểm trung gian giữa
phương Đông và phương Tây (Бердяев Н.А. ,1990,
tr.51). Trong công trình lịch sử-văn hóa ”Русская
идея” (Tư tưởng Nga) N.A.Berdiaev, khi diễn giải các
hiện tượng khác nhau của văn hóa Nga, cũng như giải
thích sự mâu thuẫn và phức tạp của tâm hồn Nga, đã
khẳng định rằng: “Ở Nga diễn ra sự tác động lẫn nhau
của hai dòng lịch sử thế giới là Phương Đông và Phương
Tây. Dân tộc Nga không hoàn toàn là dân tộc mang đặc
trưng của châu Âu và cũng không hoàn toàn là người
châu Á. Nước Nga là một phần trọn vẹn của cả thế giới
là khu vực Đông-Tây khổng lồ, là nơi liên kết hai thế giới.
Và trong tâm hồn Nga luôn luôn có sự đấu tranh của hai
nguồn cội là Đông và Tây”.
Nhà tư tưởng Nga kiệt xuất khác sống ở ranh giới
giữa thế kỷ 19 và 20, người đặt nền móng cho chủ
nghĩa Mác ở Nga - G.V. Plexanov đã diễn tả sự xung
đột giữa phương Đông và phương Tây trong nền văn
hóa Nga. Theo quan điểm của ông thì ở Nga diễn
ra hai quá trình song song nhau nhưng theo hướng
ngược chiều: một mặt là Âu hóa tầng lớp xã hội chiếm
số lượng nhỏ có trình độ văn hóa cao, mặt khác làm
sâu thêm “phương thức sản xuất theo kiểu châu Á” và
“tăng cường chế độ chuyên chế phương Đông” của
đại bộ phận người dân Nga có vị thế và trình độ văn
hóa thấp hơn và bộ phận dân cư này tiếp tục thay
đổi “theo hướng đối lập – tức là theo hướng phương
Đông” (Cадохин А.П., 2007, tr. 49). Như vậy theo G.V.
Plexanov, đặc điểm về vị trí địa lý phía Đông và Tây
của người Nga không chỉ liên kết hai thế giới như
quan điểm của N. Bergiaev, mà còn phân chia hai thế
giới ra, làm tách biệt và mâu thuẫn. Ông nhấn mạnh:
“Văn hóa Nga được hình thành theo quy luật lịch sử như
sự cân bằng phức hợpcủa sức mạnh tích hợp cũng
như khu biệt những xu hướng đối lập trong sự tồn tại
về mặt lịch sử-dân tộc Nga” (Cадохин А.П.,2007, tr. 97).
2.1.4. Yếu tố tôn giáo
Rất nhiều các nét đặc trưng trong tính cách Nga gắn
liền với tôn giáo. Đức tin và đặc điểm của chính thống
giáo tác động lớn tới nếp sống của người Nga, đến
thế giới quan của người Nga và thái độ của họ đối với
thế giới và những người xung quanh. Tính cách dân
tộc được hình thành từ niềm tin tôn giáo. Niềm tin
đem lại cho con người mong ước hoàn thiện mình.
Niềm tin luôn hướng tới những điều cao cả và đầy
lạc quan: niềm tin vào sự bất tử của tâm hồn, niềm
tin mãnh liệt vào khả năng và sự cần thiết gắn kết
con người với Chúa. Niềm tin củng cố những phẩm
chất tốt đẹp và hạn chế những dục vọng tầm thường
15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
của con người. Gắn liền với đạo chính thống giáo là
khái niệm nhẫn nhịn của người Nga. Dân gian Nga
có câu: “Sự nhẫn nhịn – sự hài lòng cho Chúa, sự khai
sáng cho trí tuệ, sự cứu rỗi cho tâm hồn, sự cầu phúc
cho ngôi nhà và sự an ủi cho con người”. Sự nhẫn nhịn
– được hiểu theo nghĩa tích cực. Sự nhẫn nhịn – đó
là sự trái ngược với lòng tự hào và nổi loạn, đó là sự
cứu vớt tâm hồn con người. Gắn với tư tưởng nhẫn
nhịn là truyền thống tha thứ tuyệt vời của người Nga.
Vào ngày chủ nhật cuối cùng trước tuần đại trai mang
tên là “Прощенное воскресенье” (Ngày chủ nhật tha
thứ), khi chuẩn bị cho sự thử thách về tâm hồn và thể
chất bằng tuần chay, người Nga hoàn toàn rửa sạch
tâm hồn mình, trút bỏ khỏi lương tâm những dằn
vặt và suy nghĩ khổ sở, nặng nề. Để làm được điều
này thì người Nga một mặt phải tha thứ cho người
và mặt khác phải tha thứ cho chính mình. Có lẽ gắn
liền với tư tưởng nhẫn nhịn như phẩm hạnh tự nhiên
quan trọng nhất là sự tương phản rõ nét trong tính
cách của dân tộc Nga. Các nét tính cách trái ngược
nhau tạo nên sự tương phản này. Sự mâu thuẫn trong
tính cách thì dân tộc nào cũng có, tuy nhiên ở người
Nga thì đôi khi lại lên tới đỉnh điểm. Niềm say mê, sự
mãnh liệt, sự hoang dã, sự rộng rãi và quy mô, “cái
đầu dữ dội” khi gắn kết với chính thống giáo, cùng
với sự cần thiết thường xuyên kìm nén bản tính của
mình, đã dẫn đến sự xuất hiện trong tính cách dân
tộc những nét tính cách mâu thuẫn lên tới đỉnh cao
và loại trừ nhau: sự nghi ngờ và ngây thơ, niềm say
mê và sự thụ động.Người Nga có phẩm chất kỳ lạ
là tự hạ mình và phủ nhận chính mình, hạ thấp giá trị
riêng của họ. Người nước ngoài không thể hiểu vì sao
dân tộc có nền văn hóa và văn học phong phú đến
vậy, sinh sống trên lãnh thổ rộng lớn đầy tài nguyên,
của cải, lại tìm cách từ chối mình. Nhưng điều này
là do các quy tắc của đạo chính thống: “Sự hạ thấp
còn hơn niềm tự hào”. Theo như đức tin của tín đồ
chính thống giáo thì niềm tự hào thái quá được coi
là tội lỗi chết người giết chết linh hồn bất tử (<http://
www.marketologi.ru/publikatsii/stati/zagadochnaja-
russkaja-dusha-natsionalnyjj-kharakter-russkikh-i-
osobennosti-obshhenija/>).
2.2. Các yếu tố ngôn ngữ thể hiện sự mâu thuẫn và
thái quá trong tính cách
Người Nga thường dao động giữa cái thiện và cái ác,
thường nhanh chóng và bất ngờ đi từ thái cực này
sang thái cực khác. Tính cách mâu thuẫn của dân
tộc Nga được thể hiện ở chỗ người Nga vừa nhân
hậu, vừa độc ác; vừa lịch sự vừa quỷ quyệt; họ yêu
tự do nhưng thích sự chuyên chế; thể hiện không
chỉ sự sùng mộ đối với tôn giáo mà cả sự không
sùng kính chúa; họ không chỉ công bằng mà còn là
những kẻ tham lam. Nhà triết học, nhà xã luận Nga
N.A.Bergiaev đã nói: “ tính cách của dân tộc Nga rất
thái quá” (Бердяев Н.А., 1990, tr.65). Như nhà văn
Ph.M. Doxtoevxki trong tác phẩm “Преступление и
наказание” (Tội ác và sự trừng phạt) (phần 6, chương
4, năm 1866) đã nói: “Người Nga nói chung là những
người rộng rãi, rộng rãi như vùng đất họ sinh sống và
quá thiên về hoang tưởng”.
Người Nga có khả năng quan sát, óc lý luận và thực
tế, mưu trí thiên bẩm, khả năng phát minh và tính
sáng tạo. Người Nga làm giàu cho thế giới bởi những
thành tựu văn hóa vĩ đại. Dân tộc Nga đánh giá cao
lao động: “Счастье и труд рядом живут” (Hạnh
phúc và lao động song hành cùng nhau), “Без труда
не вытащишь и рыбку из пруда”(Có công mài sắt có
ngày nên kim), “Золото познается в огне, а человек
в труде” (Lửa thử vàng, gian nan thử sức), “Талант
без труда не стоит и гроша” (Tài năng không có lao
động không đáng giá một xu). Trong kho tàng tục ngữ
Nga có nhiều đơn vị phê phán những kẻ lười biếng,
đồng thời ngợi ca tình yêu lao động: “Долго спать, с
долгом встать” (Ngủ nhiều, dậy muộn), “Кто поздно
встаёт, у того хлеба недостаёт” (Ai dậy muộn, người
ấy không có bánh mì); “Кто рано встаёт, тому бог
даёт” (Ai dậy sớm, người ấy sẽ được chúa ban tặng).
Tuy vậy, bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp của
người Nga là những nét tính cách tiêu cực, mà trước
tiên phải nói tới là sự lười biếng. Đó dường như là mặt
trái của tình yêu lao động, mặt trái của sức mạnh của
ý chí, trí tuệ, mơ ước đạt tới sự hoàn thiện, nhạy cảm
với những khiếm khuyết của mình và của người khác.
Trong những điều kiện nhất định người Nga có thể
thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào một cách tự nguyện
và chính xác. Tuy nhiên, sức ỳ trong con người vẫn
hiện hữu: инертный как тюлень (ỳ như con hải cẩu)....
Sự chăm chỉ, tình yêu lao động của người Nga luôn
song hành cùng sự lười biếng: ленивый как тюлень
(lười như con hải cẩu), “Сидеть на печке, плевать
в потолок” (Ngồi trên lò sưởi, khạc nhổ lên trần)
“Летний день за зимнюю неделю” (Một ngày mùa hè
cho cả tuần mùa đông), “Летом день год кормит”
(Một ngày hè nuôi sống cả năm). Trong tâm hồn Nga
ngự trị rất nhiều những giá trị tốt đẹp đặc trưng cũng
như những thiếu sót, nhược điểm, trong đó có “cả sự
lười nhác, sự vô tư quá mức, thiếu sáng kiến và thiếu
tinh thần trách nhiệm” (Бердяев Н.А.,1990, tr.61). Sự
vô tư thái quá và sự nông nổi, nhẹ dạ được thể hiện
16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
qua sự xuất hiện của các từ trong hệ thống từ vựng:
“авось” (may ra/họa may/có thể), “небось” (chắc là/có
lẽ là/có thể là), “ничего” (không hề gì/không sao cả),
“да ладно” (được rồi/thôi được), “чёрт с ним!” (mặc kệ
nó/mặc xác nó). Sự đánh giá theo cảm tính của người
Nga được thể hiện qua nhận định sau: “Chúng ta
yêu hay thù ghét việc không phải căn cứ vào công việc
mà vào người làm việc đó” (Вьюнов Ю.А., 1998, tr.8).
Người Nga thường hành động theo nguyên tắc: “Или
всё, или ничего” (Hoặc là tất cả hoặc không là gì cả)
(Скальковский К.,1993, tr. 53). Sự lười biếng còn đi
kèm với thói quen uống rượu và say xỉn: “Не пить,
так на свете не жить” (Không uống rượu – có nghĩa
là không sống ở trên đời); “Без вина и развлечений
жизнь глупа - в том нет сомнений” (Thiếu rượu và
giải trí thì cuộc sống trở nên ngu ngốc - điều này không
chút nghi ngờ); Пить зимой от холода, летом - от
жары (Mùa đông uống vì cái lạnh, mùa hè - vì cái nóng).
Tình yêu tự do là thuộc tính cơ bản của dân tộc Nga.
Lịch sử nước Nga - là câu chuyện dài về cuộc đấu
tranh của nhân dân Nga giành tự do và độc lập. Đối
với dân tộc Nga sự tự do cao quý hơn tất cả. Từ “воля”
(ý chí/ý nguyện/tự do) được hiểu như sự độc lập, tự
do trong việc thể hiện tình cảm và trong việc thực
hiện hành động. Có thể kể ra đây các tục ngữ khắc
họa khát vọng tự do của người Nga: “Хоть тяжёлая
доля, да всё своя воля” (Mặc dù vận mệnh nặng nề,
nhưng tất cả là ý chí của mình), “Своя воля дороже
всего” (Ý chí của mình quý giá hơn tất cả), “Вольность
всего дороже” (Sự tự do quý hơn tất cả), “Своя рука
владыка” (Bàn tay mình là chúa tể). Với bản tính yêu
chuộng tự do, dân tộc Nga nhiều lần chiến thắng
quân xâm lược và đạt được thành công lớn trong việc
xây dựng hòa bình. Có một số lượng lớn tục ngữ diễn
tả các phẩm chất của chiến binh Nga: “Лучше смерть
в бою, чем позор в строю” (Thà chết trong trận chiến
hơn là ô nhục trong hàng ngũ), “Либо полковник,
либо покойник» (Hoặc là đại tá, hoặc là người đã
chết). Các tính nét tính cách đặc trưng của dân tộc
Nga - đó là lòng tốt, sự nhân văn, thiên hướng sám
hối, sự chân thành và mềm mại của tâm hồn. Nhiều
thành ngữ, tục ngữ minh họa cho phẩm chất trên:
“Доброму бог помогает” (Chúa giúp người tốt bụng)
“Делать добро спеши” (Hãy vội vã làm điều thiện),
“Доброе дело и в воде не тает” (Việc tốt không tan
trong nước). Bên cạnh những nét tính cách tích cực
được dùng để mô tả con người, còn có những từ chỉ
mặt trái của tính cách Nga. Thường thì nhược điểm là
sự tiếp nối của ưu điểm. Chính điều này đã tạo nên
sự mâu thuẫn trong tính cách người Nga. Trong cùng
một con người “trái tính trái nết” luôn tồn tại những
nét tính cách đối lập nhau, cùng tồn tại cả cái thiện
lẫn cái ác. Nghiên cứu lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước của người Nga, có thể nhận thấy: bên
cạnh bản năng hướng thiện của người Nga, trong
con người còn tồn tại cả cái ác: “Trong quá khứ xa xôi
của nước Nga, sự độc ác được thể hiện qua những hiện
tượng như bạo loạn, nội chiến. Sự độc ác hiện diện
trong đời sống thường ngày qua hành động đánh đập
vợ con của người chủ gia đình. Ở nước Nga cuối thế
kỷ 19 các gia đình nông dân, tiểu thị dân và nhà buôn
chịu sự áp đặt gia trưởng, chuyên quyền của các ông
chồng. Vị trí của người vợ: Chồng nói gì thì chăm
chú tiếp thu, sợ hãi lắng nghe và thực hiện theo lời chỉ
bảo” (Скальковский К.,1993, tr. 55). Lòng tốt như một
thuộc tính cơ bản của người Nga cũng có mặt trái
của nó: Lòng tốt xui khiến con người lừa dối để giữ
gìn hòa hiếu – điều này được thể hiện qua cách nói:
“Ложь во спасение” (Nói dối có lợi cho người bị lừa
dối); “Người Matxcơva gieo hạt lúa mạch đen, nhưng
sống bằng lừa dối” (Скальковский К.,1993, tr.8). Nhà
thơ, nhà phê bình văn học Nga M. Dmitriev cho rằng:
“Người Nga mặc dù quỷ quyệt nhưng lại thích người ta
đối xử công bằng với mình. Trong con người có sự mâu
thuẫn kỳ lạ: sẵn sàng lừa dối nhưng lại đòi hỏi sự công
bằng cho mình” (Вьюнов Ю.А.,1998, tr.12). Trong số
những nhược điểm của người Nga phải kể tới tính “vô
tổ chức”, “vô kỷ luật”, “thiếu chính xác” và “thiếu yếu tố
duy lý”. “Người Nga thay đổi tình cảm và sở thích rất đột
ngột, không giải quyết công việc một cách triệt để, khả
năng kinh doanh và quản lý kém” (Вьюнов Ю.А.,1998,
tr.17). Sự mâu thuẫn, thất thường của người Nga được
ví như thời tiết: переменчивый как погода - thay đổi
như thời tiết, непостоянныйкакпогода - thất thường
như thời tiết.
Sự kiên nhẫn, ý chí kiên định, lòng dũng cảm cũng
là một trong những nét tiêu biểu nhất đã trở thành
huyền thoại của dân tộc Nga. Người Nga có sự kiện
nhẫn vô hạn, khả năng chịu đựng gian khổ và mất
mát một cách kỳ lạ. Trong nền văn hóa Nga, sự kiên
nhẫn và khả năng chịu đựng đau khổ - là khả năng
tồn tại, khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh, là cơ
sở của nhân cách: “Терпение – лучше спасенья” (Sự
kiên nhẫn – tốt hơn sự cứu rỗi); “Век живи, век надейся”
(Sống một thế kỷ, hy vọng một thế kỷ); “Час терпеть,
а век жить” (Chịu đựng một giờ - sống một thế kỷ). Dân
tộc Nga kiên cường, dũng cảm: “Удача – спутник
смелого” (May mắn – là người bạn đường của sự dũng
cảm); “Волков бояться – в лес не ходить” (Sợ con
sói - không vào rừng)... Những tục ngữ trên cho thấy
17KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
dân tộc Nga đánh giá cao sự kiên nhẫn. Tuy nhiên,
xét theo khía cạnh ngược lại, người Nga thường thụ
động chờ đợi sự thay đổi và hy vọng vào số phận mà
không tìm ra các biện pháp giải quyết tháo gỡ: Бог
даст день, Бог даст и пищу (Chúa cho ngày mới,
Chúa sẽ cho cả thức ăn). Sau đây là những dòng suy
nghĩ của người Nga đánh giá về chính dân tộc mình:
“ dân tộc Nga rất kiên trì và có khả năng chịu đựng
đến cực điểm; nhưng sau đó có thể mất tự chủ. Điều này
làm chúng ta nhớ đến lời của Puskin: “Xin đừng để chúa
trông thấy cuộc nổi loạn của người Nga – sự nổi loạn
thật vô nghĩa và nhẫn tâm!” (Скальковский К.,1993,
tr. 55). Nhà thơ N.Ph. Serbina cũng nhận định: “Chúng
ta nói theo kiểu châu Âu và hành động thì theo kiểu
châu Á” (Вьюнов Ю.А.,1998, tr.14).
Người Nga được biết đến vì lòng hiếu khách, sự hào
phóng và cởi mở của tâm hồn: “Хоть не богат, а
гостям рад” (Mặc dù không giàu có, nhưng mừng vui
đón khách); “Гость на порог – счастье в дом” (Khách
tới ngưỡng cửa - hạnh phúc vào nhà). Người Nga đón
khách ở ngưỡng cửa nhà mình. Tục mời khách bánh
mì và muối có từ lâu đời và vẫn được gìn giữ tới ngày
nay. Bánh mì và muối – vừa là lời chào, vừa là sự thể
hiện thái độ thân mật, vừa là lời chúc những điều
tốt đẹp, vừa là sự thịnh vượng: “Хлеб-соль кушай,
а добрых людей слушай” (Hãy ăn bánh mì-muối, và
hãy nghe người tốt). Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong
tính cách được thể hiện ở chỗ người Nga không thích
những vị khách không mời mà tới, trong mắt họ:
“Незваный гость хуже татарина” (Khách không mời
tồi tệ hơn cả giặc Tác ta); “Званый - гость , а незваный
- пёс” (Người được mời là khách, còn không được mời
mà đến là con chó).
Nét tính cách nổi bật của người Nga là lòng khoan
dung, sự độ lượng, biết hiểu người khác, nhạy cảm
với trạng thái tinh thần của người khác, coi trọng tình
đoàn kết và tinh thần tập thể. Khả năng hiểu và tiếp
nhận, hòa nhập với các dân tộc khác cho phép người
Nga tạo dựng đế chế lớn mạnh lạ thường trong lịch
sử. Người Nga quan niệm: “За добро добром платят”
(Lòng tốt được trả bởi lòng tốt). Theo V.M. Soloviev “Sự
thống nhất các dân tộclà tính toàn dân, có nghĩa là
sự tác động lẫn nhau và sự đoàn kết của từng mảnh
đời tự lập và trọn vẹn của mỗi người. Những thuộc tính
của người Nga như sự nhân văn, lòng tốt, sự quảng đại
với các dân tộc khác, sự hy sinh, lòng vị tha được bắt
nguồn từ những thuộc tính xã hội mang tính chất sâu
sa hơn như chủ nghĩa quốc tế, sự tôn trọng con người,
tôn trọng các phong tục và nền văn hóa của các dân tộc
khác: “Близкий сосед лучше дальней родни” (Bán
anh em xa mua láng giềng gần) (Соловьев В.М., 2001,
tr.120). Có thể kể ra đây rất nhiều các thành ngữ, tục
ngữ chứa các phẩm chất trên: “Один за всех, все за
одного” (Một người vì mọi người, mọi người vì một
người); “Чем больше хвороста, тем выше пламя”
(Cành cây khô càng nhiều thì ngọn lửa càng cao). Mặc
dù vậy, tinh thần quốc tế cộng sản, tinh thần đoàn
kết cao cả cũng có mặt trái của nó, đó là tư tưởng cào
bằng, ỷ lại: “быть как все” (Giống như tất cả mọi người).
Tính cách của người Nga có sự mâu thuẫn và thái quá
khi chuyển từ thái cực này sang thái cực khác: từ sự
phục tùng tới sự bạo loạn, từ sự thụ động tới sự quá
ráng sức, từ sự thường lệ tới chủ nghĩa anh hùng,
từ sự xây dựng tới sự phá hủy, từ sự tằn tiện tới sự
hoang phí. Một khoảng trống rộng giữa các cực tạo
ra phổ rộng của các nét đặc trưng tính cách và khả
năng sáng tạo, như Viện sỹ Đ.X. Likhachep đã nhận
định: “Sự rộng rãi và sự phân cực trong tính cách của
người Nga chứng tỏ điều gì? Trước tiên – điều đó chứng
tỏ cho khả năng phong phú ẩn chứa trong tính cách
Nga,, về khả năng bạo loạn chống lại bạo loạn, về
tính tổ chức chống lại tính vô tổ chức, về việc bất ngờ thể
hiện điều tốt chống lại cái xấu” (<
ru/51_5.htm>, tr. 6). Bài thơ của nhà thơ A.K.Tonxtoi
là lời minh chứng sống động cho sự thái quá trong
tính cách Nga:
Коль любить, так без рассудку,
Коль грозить, так не на шутку,
Коль ругнуть, так сгоряча,
Коль рубнуть, так уж сплеча!
Коли спорить, так уж смело,
Коль карать, так уж за дело,
Коль простить, так всей душой,
Коли пир, так пир горой!
(Nếu yêu, thì yêu đến mất lý trí,
Nếu đe dọa, thì không phải trò đùa,
Nếu thề, thì xốc nổi,
Nếu nói thẳng, thì nói toạc móng heo!
Nếu tranh luận, thì rất mạnh dạn,
Nếu trừng trị, thì trừng trị một cách đích đáng,
Nếu tha thứ, thì bằng tất cả tấm lòng.
Nếu có tiệc, thì yến tiệc linh đình)
(Dịch nghĩa: Tác giả)
18 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Như vậy, qua thơ ca, qua âm nhạc, qua ngôn từ, qua
thành ngữ, tục ngữ, nét đặc trưng trong tính cách
Nga được lột tả một cách chân thực và rõ nét.
3. KẾT LUẬN
Qua nhận định của các học giả, chính khách, nhà văn,
nhà thơ đương đại và đặc biệt là qua kho tàng văn
học dân gian, hình ảnh người Nga được khắc họa như
sự kết hợp đan xen giữa các nét tính cách đối lập,
tương phản. Trong con người luôn tồn tại sự phóng
khoáng, sự dũng mãnh, hào hiệp, hiếu khách, yêu tự
do đi liền với thói lãng phí, phóng đãng, vô tâm, thiếu
kỷ luật, mơ mộng, lười nhác, thiếu ý chí, lười lao động.
Sự mâu thuẫn, sự thái quá trong tính cách Nga dưới
góc nhìn của hệ thống ngôn ngữ được đánh giá là
sản phẩm tổng hợp của bốn nhân tố chính - không
gian, khí hậu, lịch sử và tôn giáo. Trong cùng một con
người “trái tính trái nết” luôn tồn tại những nét tính
cách đối lập nhau, cùng tồn tại cả cái thiện lẫn cái ác,
tuy nhiên vượt lên trên tất cả vẫn là những phẩm chất
tuyệt vời: người Nga say mê và tuyệt vọng, có thể làm
những điều bất ngờ nhất, biết yêu mạnh mẽ và đồng
thời cũng biết căm thù tột độ, cảm xúc cao trào cách
mạng, sẵn sàng lập chiến công, khả năng huy động
sức mạnh vào giây phút xác định./.
Tài liệu tham khảo:
1. Аксючиц В.В. О русском характере: Русский
антиномизм - .
2. Бердяев Н.А. (1990), Судьба России. - М.
3. Вьюнов Ю.А. (1998), Русские штрихи к портрету.
Учебное пособие, изд-во ИКАР, М.
4. Загадочная русская душа (национальный
характер русских и особенности общения) - <http://
www.marketologi.ru/publikatsii/stati/zagadochnaja-
russkaja-dusha-natsionalnyjj-kharakter-russkikh-i-
osobennosti-obshhenija/>.
5. Ильин И.А. (1992), Историческая судьба и будущее
России. Статьи 1948-1954 годов; В 2 томах. ; Изд-во:
М.: Рарог.
6. Cадохин А.П. (2007), Культурология. Теория и
история культуры. Учебное пособие. Москва,
Эксмо.
7. Соловьев В.М. (2001), “Тайны русской души”. М.
8. Сергеева А.В. (2005), Русские: стереотипы
поведения, традиции, ментальность. Изд. 3-е, изд-
во Флинта и Наука, М.
9. Скальковский К. (1993), Русские о русских.
Мнения русских о самих себе, изд-во Петро-Риф,
Санкт-Петербург.
10. Юнг К.Г. (1992), Об отношении аналитической
психологии к поэтикохудожественному
творчеству // Феномен духа в исскустве и науке, М.
LINGUISTIC ELEMENTS REPRESENTING
THE CONTRADICTION IN THE RUSSIAN
CHARACTERISTICS
DOAN THUC ANH
NGUYEN TUAN ANH
Abstract: The Russian identity is well-known
for various good characteristics, but it is also
featured by extremely bad evils, which has
created the profound contradiction in the
Russian identity. The profound contradiction
in the character of the Russian people
is found in literature and art as well as is
mentioned by pundits in their geographical
and psychological studies. From a linguistic
perspective, the multi-nuance character of the
Russian people is depicted clearly in Russian
vocabulary, idioms and proverbs. The article
aims to analyze linguistic factors that deeply
reflect the profound contradiction in the
Russian identity or more concretely the multi-
nuance character of the Russian people.
Keywords: multi-nuance character,
contradiction, culture, Russian identity, idioms,
proverbs.
19KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
PROBLÉMATIQUE
Le FOS - “Français sur Objectifs Spécifiques” - est une
branche de la didactique du FLE (Français Langue
Etrangère) qui vise un public spécifique constitué de
professionnels ou d’universitaires qui apprennent le
français pour le pratiquer dans leur propre domaine.
Ce public doit acquérir un capital culturel et langagier
qui est des savoirs, savoir-faire et savoir-être pour faire
face aux situations auxquelles ils seront confrontés
dans leur vie universitaire ou professionnelle.
En général, l’enseignement du FOS se développe
rapidement et est de plus en plus important, varié
à l’époque de la mobilité des universitaires et des
professionnels. Dans les établissements au Vietnam,
l’enseignement du FOS se limite à certains publics
TS. ĐỖ THỊ THU GIANG1
1 Đại học Ngoại thương ✉ thugiang.fr@ftu.edu.vn
Ngày nhận: 05/01/2016; Ngày hoàn thiện: 20/01/2017; Ngày duyệt đăng: 26/01/2017
Phản biện khoa học: TS. HOÀNG VĂN TIẾN
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TIẾNG PHÁP
THEO MỤC TIÊU CHUYÊN BIỆT
TÓM TẮT
Giảng dạy tiếng Pháp theo mục tiêu chuyên biệt (viết tắt là FOS trong tiếng Pháp) - một bộ phận
của Lý luận giảng dạy tiếng Pháp nói chung, nhằm vào đối tượng là nguời học hoặc nguời đi làm
cần học tiếng Pháp để giao tiếp trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Việc giảng dạy phân môn này
ngày càng có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự di chuyển về không gian để du
học và làm việc. Để đáp ứng tốt nhu cầu người học, việc giảng dạy cần tuân theo những nguyên tắc
nhất định. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề phương pháp luận, chúng tôi xin trình bày những
nguyên tắc cơ bản của phương pháp giảng dạy tiếng Pháp theo mục tiêu chuyên biệt với mong
muốn sẽ dựa vào lý luận để tổ chức hiệu quả hoạt động dạy và học phân môn này – một hoạt động
trên thực tế vẫn còn những hạn chế trong các cơ sở đạo tạo đại học ở Việt Nam.
Từ khoá: giảng dạy, phương pháp luận, tiếng Pháp theo mục tiêu chuyên biệt, FOS.
spécifiques tels que des médecins dans les hôpitaux
qui devront travailler avec des spécialistes venant
de France, des professeurs de spécialité souhaitant
poursuivre des études ou travailler dans un pays
francophone, des étudiants se préparant à étudier en
France ou notamment des étudiants francophones de
différentes filières universitaires. Dans les universités
vietnamiennes où le français est enseigné, le FOS
est bien intégré dans les programmes de formation.
Dans notre établissement – Ecole supérieure de
Commerce extérieur (ESCE), le français commercial
est enseigné aux étudiants francophones en
économie et il joue un rôle très important car il
prépare nos étudiants à leur insertion professionnelle
plus tard. Or, cet enseignement à visée spécifique,
selon notre observation, connaît encore des lacunes.
Il convient donc de faire le point sur la méthodologie
20 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
du FOS avec ses propres règles et principes à tenir
en compte. Ce rappel serait nécessaire pour bien
organiser l’enseignement du FOS au Vietnam en
général et dans notre filière de commerce extérieur
en particulier à la lueur de la méthodologie du FOS.
1. Historique
Le FOS a connu de différentes étapes de
développement dans son évolution. Il commence
son histoire dans les années vingt du XXe siècle
où est né le Français militaire avec un manuel du
français militaire (en 1927) destiné aux soldats non-
francophones combattant dans l’armée française.
Dans les annies soixante et soixante-dix, la nouvelle
politique linguistique du gouvernement français a
fait naître le Français scientifique et technique en
France, le Français instrumental en Amérique latine,
ou le français fonctionnel qui est, “un français qui sert
à quelque chose par rapport à l’élève” (Porcher, 1976).
Le Français sur Objectifs Spécifiques (FOS), adopté
à la fin des années 80, est calqué sur l’expression
anglaise “English for Special Purposes” (ESP), lancée
par Hutchinson T. et Waters A.. Le FOS est marqué
par sa centration sur l’apprenant qui est avant tout le
point de départ de toutes ses activités pédagogiques.
La méthodologie principale du FOS est basée sur
certains aspects: des publics, spécialistes non en
français mais en leur domaine professionnel ou
universitaire, veulent apprendre du français dans
un temps limité pour réaliser un objectif précis, d’où
l’expression “objectifs spécifiques”. Le FOS couvre tous
les domaines comme: le français militaire, le français
des affaires, le français juridique, le français médical, le
français scientifique
Dans les pratiques de l’enseignement, on entend
parler aussi du Français de Spécialité qui mettait
l’accent sur une spécialité ou sur une branche d’activité
professionnelle. En revanche, le terme FOS peut couvrir
toutes les situations, que celles-ci soient ancrées ou
non dans une spécialité (Mangiante, Parpette, 2004).
Depuis 2006, en raison de l’émergence de demandes
d’amélioration des compétences en français des
professionnels, des institutions de formation
de langue proposent des diplômes en Français
Langue Professionnelle (FLP), vêtu d’une double
exigence en formation : formation en français
et formation professionnelle (Mourlhon-Dallies,
2008). Parallèlement avec le FLP, le Français à
visée professionnelle est également une nouvelle
appellation du module de français inscrit dans
la logique de FOS consistant à faire acquérir des
compétences communes à différents secteurs
d’activités et relatives à la communication dans le
monde professionnel. Enfin, un autre concept a vu le
jour dans le monde des didacticiens : Le Français sur
Objectifs Universitaires (FOU). Il s’agit d’une variation
du FOS qui sert à préparer des étudiants étrangers à
suivre des études dans des pays francophones.
En somme, le FOS a connu une évolution de ses
fonctions et ses approches méthodologiques mais il est
toujours lié à une spécialisation dans l’enseignement
du français, basée essentiellement sur les besoins
spécifiques en communication.
2. Différentes approches du FOS
L’enseignement du FOS, faisant partie du FLE, a
connu, le long des années, presque la même histoire
que les approches des langues étrangères. En effet,
l’évolution dans les méthodes d’enseignement des
langues exerce des implications importantes sur les
façons d’aborder le FOS. F. Thyrion et J. Binon (2007)
distinguent ses différentes approches:
La première approche est le découpage domanial.
Cette organisation s’impose tout naturellement dans
l’enseignement du FOS. Ainsi, le champ de l’économie
est découpé par exemple en 3 sous-domaines qui
pourraient inspirer la conception d’un manuel
d’économie composé de 3 chapitres ou d’activités
correspondants: L’entreprise, Le commerce et Les
finances. Cette approche thématique permet de faire
bénéficier l’apprenant de la redondance qu’offre
l’intertextualité, tout en réactivant le vocabulaire.
Maîtriser un domaine, d’après G. Kahn et Eurin,
cités par F. Thyrion et J. Binon (2007), c’est maîtriser
les mots qui y circulent. Et l’enseignement du FOS
s’avère difficile si l’enseignant n’est pas un spécialiste
du domaine concerné ou si on maîtrise mal les
concepts de spécialité. Donc, le lexique spécialisé est
fondamental dans le FOS.
L’approche notionnelle-fonctionnelle, inaugurée par
un niveau-seuil “renvoie à un principe d’organisation
des programmes d’apprentissage des langues
21KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
vivantes pour des adultes, où la priorité est donnée
à la valeur communicative des éléments du langage
plutôt qu’à leur valeur grammaticale et formelle.
L’analyse des besoins permet de déterminer ce qui est
nécessaire aux apprenants en termes de fonctions du
langage et d’actes de parole, et les notions générales
et spécifiques que l’apprenant devrait maîtriser” (Cuq
et al., 2003), cités par F. Thyrion et J. Binon (2007).
L’approche discursive, de sa part, représente un grand
intérêt pour l’enseignement du FOS. En effet, celui-ci s’est
aussi centré sur la phrase et le lexique (selon la méthode
traditionnelle du FLE) jusqu’au milieu des années 70.
Mais on a constaté qu’un dictionnaire bilingue spécialisé
ne suffisait pas. Les difficultés dans l’enseignement du
FOS n’avaient pas été seulement lexicales. Ces obstacles
étaient donc d’un autre ordre, celui du discours, détecté
par certains spécialistes. Ceux-ci, confrontés aux publics
du FOS, ont trouvé dans la description des discours
le moyen de faire repérer les éléments linguistiques
privilégiés par un domaine particulier. Cela permet de
déterminer des genres et types de textes pour mieux les
introduire dans un cours, et de mieux appréhender le
fonctionnement d’un domaine de spécialité au travers
des discours qui y sont produits.
L’approche interculturelle qui est intervenue dans
les années 70 a modifié en profondeur la manière
d’enseigner des langues étrangères et a exercé aussi
des implications non négligeables sur le FOS. Son
principe de base, c’est que tous les comportements
et les façons de parler sont imprégnés de “culture”,
et qu’apprendre une langue étrangère, c’est
apprendre à s’approprier une culture, apprendre
à vivre, à “fonctionner” dans la culture étrangère. Il
importe donc dans l’enseignement du FOS qu’on
repère la dimension culturelle dans les situations de
communication spécialisée.
L’approche actionnelle, qui n’est pas particulière au
FOS, prend tout son sens avec un public professionnel.
Cette approche veut que l’enseignement-
apprentissage pour les publics à objectifs spécifiques
ne soit plus tourné vers la langue mais vers la
réalisation d’actes de paroles, vers l’accomplissement
de tâches ou de projets. Selon le CECR, Cadre Européen
Commun de Référence pour les langues (2001), une
tâche est définie comme « toute visée actionnelle que
l’acteur se représente comme devant parvenir à un
résultat donné en fonction d’un problème à résoudre,
d’une obligation à remplir, d’un but qu’on s’est fixé ».
Dans ce contexte, la maîtrise et le respect des codes
propres à un milieu professionnel sont fondamentaux
et déterminent l’efficacité des tâches réalisées.
En conclusion, chaque approche du FOS met l’accent
sur un aspect précis de l’enseignement: lexical,
discursif, interculturel ou actionnel. Une combinaison
à bon dosage de toutes ces approches en fonction
des situations pédagogiques s’avère pertinente pour
enseigner efficacement le FOS.
3. Elaboration des programmes FOS
La méthodologie de l’enseignement du FOS réside
essentiellement dans les principes à tenir en compte
dans l’élaboration des programmes spécifiques.
Celle-ci est une opération importante parce qu’elle
matérialise et concrétise l’objectif et les tâches à
remplir dans l’enseignement.
La conception des programmes FOS comprend
des étapes et principes méthodologiques connus
comme classiques: identification de la demande de
formation, analyse du public, analyse des besoins,
recueil de données authentiques sur le terrain,
analyse des données en collaboration avec les acteurs
du terrain ou les enseignants de la spécialité, mise
en place d’une méthodologie, autonomisation des
apprenants, évaluation. Nous allons faire le point sur
les grands principes ou étapes de l’élaboration des
programmes FOS.
3.1. Identification de la demande de formation et
analyse du public
Il arrive souvent qu’un organisme, une entreprise ou
une institution « commande » à un établissement
d’enseignement une formation ou un stage précis,
avec un objectif préfixé à atteindre. Il reste donc à
l’établissement d’enseignement d’identifier cette
demande de formation pour prévoir un programme
approprié aux besoins du public. Les principes
généraux devront être pris en compte face à une
demande de formation. Selon Carras (2007), les
premières questions à se poser dans cette première
étape sont du type : La demande est-elle précise ?
Le public est-il clairement identifié ? Le public est-il
homogène ? Ses objectifs correspondent-ils à ceux
de l’employeur/demandeur? L’objectif fixé par le
demandeur paraît-il réalisable compte tenu du temps
accordé à la formation ?
22 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
On ne pourra répondre de façon pertinente à ces
questions que quand on procède à l’analyse précise
du public et de ses besoins.
Suite à l’identification de la demande de formation,
l’analyse du public consiste à s’informer sur la
formation des apprenants, leurs acquis, leurs besoins,
leurs attentes, leurs priorités, leur manière d’apprendre
le français, leur culture, leur environnement dans
une approche interculturelle.
En bref, l’identification de la demande de formation
et l’analyse du public doivent être menées en premier
temps lors de l’élaboration d’un programme FOS et
la mise en place de ce programme nécessite l’étude
sérieuse des conditions dans lesquelles il s’effectue.
3.2. Analyse des besoins
L’analyse des besoins consiste à collecter les
informations concernant les situations cibles où les
apprenants seront invités à communiquer en langue-
cible. Dans un premier temps, le concepteur des cours
de FOS peut analyser des besoins grâce à sa réflexion
personnelle, appuyée sur ses expériences antérieures
ou ses connaissances sur le domaine concerné. Cette
approche peut être appliquée pour les situations de
communication assez courantes que l’enseignant a
vécues. Pourtant, face à une demande particulière
qui touche un domaine peu famillier, voire inconnu
pour lui, l’enseignant peut avoir un contact avec le
milieu où se déroule l’activité ou avec l’organisme
demandeur pour se renseigner sur les besoins
langagiers des apprenants. De façon concrète, le
formateur aura à répondre aux questions suivantes
lors de l’analyse des besoins : Avec qui l’apprenant
parlera-il le français ? dans quel contexte ? ; Qu’aura-t-il à
dire ? à écouter ? à comprendre ? à lire ? à écrire ? Quelles
tâches devra-t-il accomplir qui impliquent l’utilisation de la
langue française ?
Ainsi, le formateur devra acquérir des connaissances
multiples à savoir :
- le contexte général de la communication : De quel
milieu s’agit-il ? De quel secteur d’activité ? A quelle
catégorie d’activité a-t-on affaire (achat et vente,
comptabilité) ?
- le rôle et le statut de la communication : S’agit-il d’une
communication d’égal à égal ? de supérieur à inférieur ?
- les modalités des contacts : communiquer en face
à face ? en groupes ? s’exprimer seul face à un public ?
animer/participer à une réunion, une conférence ?
écouter des cours ?
- les réseaux de communication utilisés : face à face,
téléphone, courrier, etc.
- les registres de langue en priorité: familier, soutenu,
académique
- le code en priorité : écrit ou oral ?
Pour recenser les situations de communication
professionnelle, Carras (2007) propose d’établir un
questionnaire d’analyse des besoins. Les référentiels
de compétence d’un domaine professionnel peuvent
servir d’outils pour l’élaboration du questionnaire.
Nous prenons l’exemple d’un commercial d’une
entreprise vietnamienne qui est muté dans sa filiale
française comme directeur des achats de la filiale. Ce
que nous savons de ses activités et de ses besoins
peut nous suggérer un questionnaire composé de
questions sur les contacts qu’il a avec les fournisseurs
francophones, les contrats commerciaux à négocier
avec ses partenaires, les documents à lire et à écrire
au travail, les réunions auxquelles il doit participer et
les interventions à y produire
Ce questionnaire a pour but d’aider le formateur
à cibler des situations de communication où le
directeur des achats doit parler et écrire en français.
Lors de l’analyse des besoins, il est nécessaire
également de recenser les composantes
linguistiques et extralinguistiques des discours
professionnels du domaine spécialisé.
Le recensement des caractéristiques linguistiques
de ces discours suppose une analyse discursive qui
permet de cibler certains contenus linguistiques :
- La composante lexicale doit être recensée mais il
faut veiller à ne pas mettre trop d’accent sur cette
composante. La fréquence des termes spécialisés
dans un discours permet de l’attribuer à un certain
domaine. A part le lexique spécialisé, le lexique courant
est aussi présent, même majoritaire quel que soit le
degré de spécialité des discours. Et c’est ce lexique
courant qui pose dans les pratiques plus de difficultés
23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
aux apprenants du niveau débutant que les termes
techniques qui peuvent parfois être transparents
en leur langue maternelle (carbonne, hydraulique)
ou se rapprocher de leur équivalent en anglais.
- Les structures morphosyntaxiques récurrentes sont
repérées dans certains discours spécialisés (ex :
constructions passives, pronoms relatifs dans le
discours juridique).
- La composante phonologique : prononciation
correcte et sans hésitation de données chiffrées,
intonation correcte, utilisation des pauses
- La composante paralinguisque doit être également
prise en compte : intonation, langage du corps,
postures, gestes, mimiques.
- Les différents registres de discours dans le milieu
professionnel où les apprenants vont communiquer
en français doivent être recensés. Cela peut être
discours familier, discours de vulgarisation, discours
académique, discours d’un niveau de spécilité
élevé dont la maîtrise facilitera la communication
des apprenants sur le terrain professionnel.
Concernant les composantes extralinguistiques, on
s’intéresse à :
- La composante sociolinguistique qui permet de savoir
comment s’adresser à un supérieur hiérarchique dans
l’entreprise, comment utiliser les termes d’adresse en
français
- La composante stratégique qui permet de bien
maîtriser les situations de communication : refuser
une commande sans vexer son client, demander
de faire quelque chose en questionnant poliment,
rappeler une facture impayée de manière polie mais
ferme
- La composante socioculturelle et interculturelle qui
permet de mieux se comporter dans de différentes
situations de communication professionnelle : ne
jamais être en retard à un rendez-vous d’affaires avec
un Français, remercier un client fidèle par courrier
En bref, l’analyse des besoins consiste à recenser
les situations de communication professionnelle
et les besoins langagiers des apprenants pour
communiquer en langue cible dans ces situations.
C’est une étape noyau dans l’élaboration d’un
programme FOS.
3.3. Supports de cours et analyse de discours
professionnels
Supports de cours
Les didacticiens du FOS, dans leurs pratiques, ont
constaté que le formateur FOS dervrait être confronté
aux discours, écrits et oraux, actualisés dans les
situations cibles pour concrétiser les besoins du
public en activités concrètes en classe. Mais comment
l’enseignant a-t-il accès à ces discours si utiles ? Il en
existe plusieurs comme possibilités.
Tout d’abord, ce sont les discours professionnels
authentiques qui ne peuvent être recueillis qu’en
prenant contact directement avec le milieu concerné.
Alors, l’enseignant est invité à aller sur le terrain pour
collecter les discours professionnels qui s’y produisent.
Au cas où ces documents sont trop techniques
pour l’enseignant, il lui faudra se renseigner auprès
des spécialistes, des acteurs du terrain, collaborer
avec eux pendant un certain temps pour éclairer
des concepts et des pratiques professionnelles. De
nombreuses difficultés pourraient surgir à ce stade:
éloignement géographique entre l’enseignant et le
milieu professionnel, capacités financières limitées
de l’enseignant, confidentialité des documents
et échanges professionnels Dans ce contexte,
l’enseignant pourra avoir recours aux alternatives :
collaboration avec les acteurs du terrain par courrier,
email, téléphone ; contact sur son lieu d’exercice avec
une autre institution du même domaine ou de la même
activité professionnelle que l’organisme demandeur.
Ensuite, en l’absence de véritables discours
professionnels, on pourra envisager le recueil des
données quasi-authentiques qui se rapprochent le
plus possible des données réelles : documentaires,
reportages, émissions qui présentent le domaine
concerné, qui reproduisent parfois des échanges
professionnels et des pratiques du métier étudié
Les œuvres de fiction comme film, roman, nouvelle,
théâtre ou leurs extraits pourraient servir de sources
diverses de discours professionnels. Pourtant, il faudra
traiter avec précaution ce genre de document qui
sont des productions audio-visuelles pour le grand
public mais non pas tellement techniques comme ce
qui se passe vraiment sur le terrain.
24 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Enfin, nous ne pouvons pas négliger les ressources
multimédia en ligne et hors ligne disponibles sur
le marché. En premier, le multimédia hors ligne
met à notre disposition des CD-rom, logiciels, livres
électroniques proposant des séquences vidéo qui
représentent des situations de communication
cible dans les domaines professionnels
différents (Comment vont les affaires avec CD, livre
en ligne, CD-rom juridiques, ). Et puis, il s’agit du
multimédia en ligne avec des sites didactiques du
FLE proposant des modules FOS comme Français des
affaires, Français médical, Français juridique (http://
www.tv5.org,
org), des pages web proposant des visites virtuelles
d’un site (pour la filière tourisme), des vidéos de
consultations médicales (
fr,
medical.com).
A part des discours professionnels obtenus sur
le terrain ou par les médias, l’enseignant peut
également s’équiper des documents, des propositions
pédagogiques, des activités didactiques grâce à une
mine d’informations qu’est l’internet. Les documents
relèvent aussi bien de la compréhension orale
qu’écrite, les genres de textes sont très variés.
Analyse des discours
Les discours professionnels constituent le support
essentiel d’un programme FOS parce que toutes les
activités en classe tourneront autour de ces discours
pour familiariser les apprenants aux échanges
professionnels. L’analyse discursive est recommandée
par les didacticiens du FOS car elle permettra de
repérer les particularités de ces discours.
Cette analyse ne se limite pas à identifier les
caractéristiques linguistiques des discours mais
elle doit également les situer dans une p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_5_01_2017_38_2171739.pdf