Các yếu tố liên quan đến ý nghĩ tự tử ở học sinh Trung học Phổ thông tại Tây Ninh

Tài liệu Các yếu tố liên quan đến ý nghĩ tự tử ở học sinh Trung học Phổ thông tại Tây Ninh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 163 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN Ý NGHĨ TỰ TỬ Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TÂY NINH Thái Thanh Trúc*, Trần Phước Đoàn** TÓM TẮT Mở đầu và mục tiêu: Tự tử thường bắt đầu bằng ý nghĩ tự tử và là nguyên nhân quan trọng gây ra các cái chết được báo cáo ở học sinh. Tuy nhiên, tự tử hoặc ý nghĩ tự tử lại khó dự đoán.Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố liên quan đến ý nghĩ tự tử ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại Tây Ninh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 54 lớp tại tất cả 9 huyện, thành phố tại Tây Ninh với sự tham gia của 1882 học sinh. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền bao gồm đặc điểm dân số xã hội, các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu, các mối quan hệ với thầy cô, bạn bè và áp lực học tập. Rối loạn tâm thần được đánh giá qua thang đo đã được chuẩn hóa. Có 1844 bộ câu hỏi phù hợp được đưa vào phân tích. Kết quả: Tỉ lệ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 641 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố liên quan đến ý nghĩ tự tử ở học sinh Trung học Phổ thông tại Tây Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 163 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN Ý NGHĨ TỰ TỬ Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TÂY NINH Thái Thanh Trúc*, Trần Phước Đoàn** TÓM TẮT Mở đầu và mục tiêu: Tự tử thường bắt đầu bằng ý nghĩ tự tử và là nguyên nhân quan trọng gây ra các cái chết được báo cáo ở học sinh. Tuy nhiên, tự tử hoặc ý nghĩ tự tử lại khó dự đoán.Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố liên quan đến ý nghĩ tự tử ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại Tây Ninh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 54 lớp tại tất cả 9 huyện, thành phố tại Tây Ninh với sự tham gia của 1882 học sinh. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền bao gồm đặc điểm dân số xã hội, các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu, các mối quan hệ với thầy cô, bạn bè và áp lực học tập. Rối loạn tâm thần được đánh giá qua thang đo đã được chuẩn hóa. Có 1844 bộ câu hỏi phù hợp được đưa vào phân tích. Kết quả: Tỉ lệ học sinh có ý nghĩ tự tử là 13% (KTC 95% 11,5% - 14,6%) và cao hơn ở nữ, nhóm có cha mẹ ly dị, ly thân hay đã qua đời, nhóm không sống chung với cha mẹ hoặc người thân. Học sinh có các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu có tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn nhóm không có trải nghiệm bất lợi từ 1,38 đến 3,34 lần. Tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn ở học sinh bị bạn bè bắt nạt về thể chất hoặc tinh thần, có tranh cãi gay gắt với thầy cô, bị thầy cô phạt về thể chất hoặc ít gắn kết với nhà trường. Học sinh có mức độ stress do học tập càng cao thì tỉ lệ ý nghĩ tự tử càng cao. Tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn từ 3,48 đến 4,91 lần ở học sinh có rối loạn tâm thần. Kết luận: Tỉ lệ học sinh THPT tại Tây Ninh có ý nghĩ tự tử ở mức cao và có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với một số đặc điểm dân số xã hội, các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu, mối quan hệ với bạn bè và thấy cô, sự gắn kết với nhà trường và các rối loạn tâm thần. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu về một chiến lược can thiệp dành cho học sinh THPT tại Tây Ninh trong đó tập trung vào nhóm có các đặc điểm liên quan đến ý nghĩ tự tử. Từ khóa: ý nghĩ tự tử, sức khỏe tâm thần, trải nghiệm bất lợi, học sinh. ABSTRACT ASSOCIATED FACTORS OF SUICIDAL IDEATION AMONG HIGH SCHOOL STUDENS IN TAY NINH Thai Thanh Truc, Tran Phuoc Doan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 163 - 168 Background and objectives: Suicide is often initiated by suicidal ideation and is an important cause for death reported among students. However, suicide and suicidal ideation are difficult to predict. This study was to identify the associated factors of suicidal ideation among high school students in Tay Ninh province. Methods: A cross-sectional study was conducted at 54 classes in 9 districts and cities within Tay Ninh province with the participation of 1882 students. Students answered a self-reported questionnaire including information about demographic characteristics, adverse childhood experiences, the relationship with their peers and teachers and educational pressure. Mental disorders were measured by standardized scales. There were 1844 eligible questionnaires in the analysis. Results: Prevalence of suicidal ideation was 13%, 95% CI 11.5% - 14.6% and was higher in females, those * ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh ** Trung tâm Kiểm dịch Y tế Quốc tế tại Tây Ninh Địa chỉ liên hệ : BS. Thái Thanh Trúc ĐT: 0908381266 Email: thaithanhtruc@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 164 whose parents were divorced, separated or widowed and those who did not live with parents or relatives. Students with adverse childhood experiences had 1.38 to 3.34 times higher in prevalence of suicidal ideation. Prevalence of suicidal ideation was also higher among students who were physically and mentally bullied, among those who had serious quarrel with teachers, were physically punished or did not have school connectedness. Students with higher level of educational stress were more likely to have suicidal ideation. Prevalence of suicidal ideation was 3.48 to 4.91 times higher among students with mental disorders. Conclusion: Prevalence of suicidal ideation among high school students in Tay Ninh was high and was associated with some demographic characteristics, adverse childhood experiences, the relationship with peers and teachers, school connectedness and mental disorders. The findings revealed the need for an intervention strategy for high school students in Tay Ninh, focusing on those who had associated factors with suicidal ideation. Keyword: suicidal ideation, mental health, adverse experience, student ĐẶT VẤN ĐỀ Tự tử là nguyên nhân quan trọng gây ra các cái chết được báo cáo ở học sinh nhưng việc tự tử lại khó dự đoán. Nếu không thực hiện thành công thì việc tự tử ở người vị thành niên cũng để lại các hậu quả có thể hết sức nặng nề về sức khỏe trong thời gian lâu dài sau đó. Việc tự tử thường bắt đầu bằng một ý nghĩ muốn tự tử của đối tượng và sau đó là lên kế hoạch cho tự tử và kết thúc ở việc tiến hành tự tử. Nếu biết được ý nghĩ tự tử thì việc tự tử có thể được can thiệp để không xảy ra kế hoạch và hành vi tự tử. Vì khó khăn trong việc biết đối tượng có ý nghĩ tự tử hay không nên có thể dựa vào các yếu tố nguy cơ để phần nào dự đoán được khả năng có ý nghĩ tự tử ở người vị thành niên. Tỉ lệ có ý nghĩ tự tử ở người trẻ tuổi chiếm tỉ lệ đáng kể nhưng cũng khác nhau tại các quốc gia, ví dụ 7,9% tại Malaysia(1), 10,7% tại Trung Quốc(7), 12% tại Hoa Kỳ và Thái Lan(11,13), hoặc 19,1% tại Hàn Quốc(4). Tại Việt Nam, một nghiên cứu tại Cần Thơ trên 1161 học sinh trung học cơ sở cho thấy tỉ lệ có ý nghĩ tự tử là 26,3%(9). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy ý nghĩ tự tử ở vị thành niên có liên quan đến một số đặc điểm dịch tễ học, các biến cố bất lợi thời thơ ấu, các rối loạn tâm thần, môi trường học tập và áp lực học tập cũng như mối quan hệ thầy cô và bạn bè đồng trang lứa(1-3,6,11). Tại Tây Ninh, một số trường hợp cố gắng tự tử hoặc tự tử thành công ở học sinh đã xảy ra trong năm 2014 nhưng thực tế thông tin về tự tử mà cụ thể là ý nghĩ tự tử trong học sinh trung học phổ thông tại Tây Ninh vẫn còn hạn chế. Chính sự thiếu hụt kiến thức về chủ đề này có thể là nguyên nhân làm hạn chế đáng kể khả năng can thiệp và phòng ngừa tự tử ở vị thành niên. Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ có ý nghĩ tự tử ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại Tây Ninh đồng thời xác định các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu góp phần vào việc xác định mức độ phổ biến của ý nghĩ tự tử trong học sinh THPT đồng thời gợi ý các yếu tố liên quan để từ đó có những định hướng can thiệp trên nhóm đối tượng đích một cách cụ thể nhằm phòng ngừa các trường hợp tự tử có thể xảy ra trong thời gian tới. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Năm 2013, tại Tây Ninh có 32 trường THPT (638 lớp) với tổng số học sinh vào khoảng 24.825 học sinh. Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào tháng 1/2014 tại tất cả 9 huyện/thành phố thuộc Tây Ninh với sự tham gia của hai trường PTTH được chọn ngẫu nhiên tại mỗi huyện/thành phố. Tại mỗi trường, chọn ngẫu nhiên một lớp mỗi khối (khối 10, 11, 12) trong danh sách lớp của từng khối.Trong 54 lớp được chọn vào nghiên cứu, có 1882 học sinh trả lời và gửi lại bộ câu hỏi. Sau khi kiểm tra, làm sạch số liệu có tổng cộng 38 bộ câu hỏi thiếu nhiều hơn 80% số lượng thông tin quan trọng cần thiết nên bị loại ra khỏi quá trình phân tích. Như vậy, tổng cộng có 1844 bộ câu hỏi hợp lệ trong kết quả phân tích. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 165 Nghiên cứu viên đến lớp và cung cấp thông tin chi tiết về nghiên cứu. Học sinh tham gia bằng cách ký tên vào bảng đồng ý tham gia trước khi trả lời bộ câu hỏi tự điền trong một tiết học (30 – 45 phút). Bộ câu hỏi bao gồm thông tin về đặc điểm dân số xã hội, những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu, các vấn đề liên quan học tập, các vấn đề sức khỏe tâm thần và ý nghĩ tự tử. Hầu hết các thang đo dùng trong nghiên cứu đã được dùng và/hoặc đánh giá thuộc tính, chuẩn hóa tại Việt Nam trong các nghiên cứu trước đây: thang đo trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu của Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC), thang đo rối loạn trầm cảm CES-D với ngưỡng ≥ 16(12), thang đo rối loạn lo âu với ngưỡng ≥ 26(10), thang đo suy nhược tâm thần K10 với ngưỡng ≥ 25(5), thang đo sự khỏe mạnh tinh thần WHO-5 với ngưỡng ≥13(8), thang đo stress do học tập ESSA với ngưỡng ≥ 51 (vừa) và ≥ 59 (nặng)(14). Dữ liệu được tổng hợp và phân tích bằng phần mềm Stata 13.Kiểm định Chi bình phương hoặc Fisher được dùng khi thích hợp nhằm xét mối liên quan của các yếu tố đến ý nghĩ tự tử.Tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR # Prevalence Ratio) và khoảng tin cậy 95% cũng được tính và báo cáo. KẾT QUẢ Trong 1844 học sinh THPT tuổi từ 15 đến 19 tại 9 huyện/thành phố của tỉnh Tây Ninh, nữ sinh chiếm nhiều hơn nam sinh (54% so với 46%). Tỉ lệ học sinh có ý nghĩ tự tử là 13% (KTC 95% 11,5% - 14,6%). Ý nghĩ tự tử có liên quan đến giới tính (nữ cao hơn nam 1,62 lần, KTC 95% 1,22 – 2,15), tình trạng hôn nhân của cha mẹ (nhóm có cha mẹ ly dị, ly thân hay đã qua đời cao hơn nhóm có cha mẹ sống chung 1,56 lần, KTC 95% 1,18 – 2,06), người sống chung (nhóm không sống chung với cha mẹ hoặc người thân cao hơn nhóm sống chung với cha mẹ 2,16 lần, KTC 95% 1,50 – 3,10) (Bảng 1). Bảng 1: Mối liên quan giữa ý nghĩ tự tử và đặc điểm dân số xã hội (N=1844) Đặc điểm Ý nghĩ tự tử p PR (KTC 95%) Có (N=240) n (%) Không (N=1604) n (%) Khối lớp 10 74(13,2) 486 (86,8) 0,096 1 11 74(11,0) 599 (89,0) 0,83 (0,62 - 1,13) 12 92(15,1) 519 (84,9) 1,14 (0,86 - 1,51) Giới tính Nữ 154(15,5) 842 (84,5) 0,001 1,62 (1,22 - 2,15) Nam 86 (10,1) 762 (89,9) 1 Tình trạng hôn nhân của cha mẹ (n = 1835) Ly dị/Ly thân/Đã qua đời 52 (18,6) 227 (81,4) 0,002 1,56 (1,18 - 2,06) Sống chung 186(12,0) 1370 (88,0) 1 Sống chung với Cha mẹ 167(11,7) 1262 (88,3) <0,001 1 Cha hoặc mẹ 27 (13,6) 171 (86,4) 1,17 (0,80 - 1,70) Người thân 20 (17,5) 94 (82,5) 1,50 (0,98 - 2,29) Khác 26 (25,2) 77 (74,8) 2,16 (1,50 - 3,10) Số anh chị em Không có 21 (13,5) 134 (86,5) 0,977 1 1 anh chị em 91 (13,2) 598 (86,8) 0,97 (0,63 - 1,52) 2 anh chị em 81 (13,1) 539 (86,9) 0,96 (0,62 - 1,51) ≥3 anh chị em 47 (12,4) 333 (87,6) 0,91 (0,57 - 1,47) Hầu hết các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu đều có liên quan đến ý nghĩ tự tử ngoại trừ việc bị sao lãng về tinh thần khi bé. Học sinh có trải nghiệm bất lợi thì tỉ lệ có ý nghĩ tự tử cao hơn nhóm không có trải nghiệm bất lợi từ 1,38 đến 3,34 lần (Bảng 2). Học sinh có càng nhiều số trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu thì tỉ lệ có ý nghĩ tự tử càng cao. Bảng 2: Mối liên quan giữa ý nghĩ tự tử và trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu (N=1844) Đặc điểm Ý nghĩ tự tử p PR (KTC 95%) Có (N=240) n (%) Không (N=1604) n (%) Sao lãng về tinh thần khi bé Có 178 (13,9) 1098 (86,1) 0,074 1,28 (0,97-1,68) Không 62 (10,9) 506 (89,1) 1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 166 Đặc điểm Ý nghĩ tự tử p PR (KTC 95%) Có (N=240) n (%) Không (N=1604) n (%) Sao lãng về thể chất khi bé Có 70 (16,5) 354 (83,5) 0,015 1,38 (1,07-1,78) Không 170 (12,0) 1250 (88,0) 1 Gia đình có nghiện chất kích thích Có 44 (23,5) 143 (76,5) <0,001 1,99 (1,49-2,66) Không 196 (11,8) 1461 (88,2) 1 Gia đình có người bệnh tâm thần Có 15 (27,8) 39 (72,2) 0,001 2,21 (1,41-3,46) Không 225 (12,6) 1565 (87,4) 1 Thành viên trong gia đình cư xử bạo lực Có 99 (25,5) 289 (74,5) <0,001 2,63 (2,09-3,32) Không 141 (9,7) 1315 (90,3) 1 Thành viên gia đình bị bỏ tù Có 18 (31,0) 40 (69,0) <0,001 2,50 (1,67-3,74) Không 222 (12,4) 1564(87,6) 1 Cha mẹ ly thân hoặc ly dị Có 47 (18,1) 212 (81,9) 0,008 1,49 (1,11-1,99) Không 193 (12,2) 1392 (87,8) 1 Lạm dụng tinh thần khi bé Có 43 (28,7) 107 (71,3) <0,001 2,47 (1,85-3,28) Không 197 (11,6) 1497 (88,4) 1 Lạm dụng thể chất khi bé Có 25 (40,3) 37 (59,7) <0,001 3,34 (2,41-4,64) Không 215 (12,1) 1567 (87,9) 1 Lạm dụng tình dục khi bé Có 54 (33,3) 108 (66,7) <0,001 3,01 (2,33-3,90) Không 186 (11,1) 1496 (88,9) 1 Tiếp xúc với bạo lực trong cộng đồng Có 76 (21,6) 276 (78,4) <0,001 1,96 (1,54-2,51) Không 164 (11,0) 1328(89,0) 1 Đa trải nghiệm bất lợi 0 10 (4,2) 227 (95,8) <0,001 1 1 60 (8,8) 621 (91,2) 2,09 (1,09-4,01) 2 52 (11,1) 415 (88,9) 2,64 (1,37-5,10) 3 46 (18,3) 205 (81,7) 4,34 (2,24-8,41) ≥4 72 (34,6) 136 (65,4) 8,20(4,35-15,48) Tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn 2,10 lần trong nhóm học sinh bị bạn bè bắt nạt về tinh thần, 1,59 lần trong nhóm bị bắt nạt về thể chất, 1,79 lần trong nhóm có tranh cãi gay gắt với thầy cô, 1,67 lần trong nhóm bị thầy cô la mắng, 1,60 lần trong nhóm bị thầy cô phạt về thể chất. Học sinh có học lực khá, trung bình hoặc học thêm trên 1 giờ mỗi ngày có tỉ lệ ý nghĩ tự tử thấp hơn học sinh có học lực dưới trung bình hoặc học thêm dưới 1 giờ mỗi ngày. Nhóm học sinh học thêm cuối tuần hoặc trong kỳ nghỉ và học sinh có ít sự gắn kết với nhà trường cũng có tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn. Học sinh có mức độ stress do học tập càng cao thì tỉ lệ ý nghĩ tự tử càng cao (Bảng 3). Bảng 3: Mối liên quan giữa ý nghĩ tự tử và trải nghiệm học tập bạn bè cùng trang lứa thầy cô (N=1844) Đặc điểm Ý nghĩ tự tử p PR (KTC 95%) Có (N=240) n (%) Không (N=1604) n (%) Bị bạn bè bắt nạt về tinh thần Có 120(20,2) 474 (79,8) <0,001 2,10 (1,67 2,66) Không 120 (9,6) 1130(90,4) 1 Bị bạn bè bắt nạt về thể chất Có 37 (19,5) 153 (80,5) 0,005 1,59 (1,16-2,18) Không 203 (12,3) 1451 (87,7) 1 Tranh cãi gay gắt với thầy cô hoặc nhân viên nhà trường Có 48 (21,2) 178 (78,8) <0,001 1,79 (1,35-2,38) Không 192 (11,9) 1426 (88,1) 1 Bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường la mắng, hăm dọa hay sỉ nhục Có 77 (18,9) 330 (81,1) <0,001 1,67 (1,30 2,14) Không 163 (11,3) 1274 (88,7) 1 Bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường phạt về thể chất Có 88 (18,0) 401 (82,0) <0,001 1,60 (1,26-2,04) Không 152 (11,2) 1203 (88,8) 1 Kết quả học tập <Trung bình 79 (15,9) 417 (84,1) 0,029 1 Trung bình 111 (12,0) 813 (88,0) 0,75 (0,58 - 0,99) Khá 40 (10,6) 336 (89,4) 0,67 (0,47 - 0,95) Giỏi/Xuất sắc 10 (20,8) 38 (79,2) 1,31 (0,73 - 2,35) Thời gian học thêm sau giờ ở trường <1 giờ 54 (18,3) 241 (81,7) 0,031 1 1-2 giờ 77 (11,6) 585 (88,4) 0,64 (0,46-0,87) 2-3 giờ 61 (12,1) 445 (87,9) 0,66 (0,47-0,92) >3 giờ 48 (12,6) 333 (87,4) 0,69 (0,48-0,98) Học thêm với gia sư tại nhà Có 95 (14,1) 578 (85,9) 0,287 1,14 (0,90-1,45) Không 145 (12,4) 1026 (87,6) 1 Học thêm cuối tuần và trong các kỳ nghỉ Có 177 (14,3) 1061 (85,7) 0,019 1,38 (1,05-1,80) Không 63 (10,4) 543 (89,6) 1 Điểm số gắn kết với trường học* [TB (ĐLC)] 16,3 (3,8) 18,7 (3,6) <0,001 0,88 (0,86-0,90) Stress do học tập Nhẹ 37 (5,9) 595 (94,1) <0,001 1 Vừa 76 (12,5) 531 (87,5) 2,14 (1,47-3,12) Nặng 127 (21,0) 478 (79,0) 3,59 (2,53-5,08) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 167 * Điểm càng cao càng thể hiện cảm nhận có sự gắn kết tốt với nhà trường Tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn 4,89 lần ở học sinh có rối loạn trầm cảm, 3,48 lần ở học sinh có rối loạn lo âu, 4,91 ở học sinh suy nhược tâm thần. Ngược lại, học sinh có cảm nhận về sự khỏe mạnh tinh thần có tỉ lệ ý nghĩ tự tử thấp hơn và chỉ bằng 0,27 lần so với học sinh không có cảm nhận về sự khỏe mạnh tinh thần. Bảng 4: Mối liên quan giữa ý nghĩ tự tử và các vấn đề sức khỏe tâm thần (N=1844) Đặc điểm Ý nghĩ tự tử p PR (KTC 95%) Có (N=240) n (%) Không (N=1604) n (%) Rối loạn trầm cảm Có 133 (35,6) 241 (64,4) <0,001 4,89 (3,89-6,14) Không 107 (7,3) 1363 (92,7) 1 Rối loạn lo âu (n = 1827) Có 79 (34,1) 153 (65,9) <0,001 3,48 (2,76-4,40) Không 156 (9,8) 1439 (90,2) 1 Suy nhược tâm thần Có 153 (31,5) 333 (68,5) <0,001 4,91 (3,86-6,26) Không 87 (6,4) 1271 (93,6) 1 Khỏe mạnh về tinh thần Có 59 (5,8) 952 (94,2) <0,001 0,27 (0,20-0,36) Không 181 (21,7) 652 (78,3) 1 BÀN LUẬN Tự tử là chủ đề nghiên cứu được quan tâm đặc biệt trong thời gian gần đây trên thế giới bởi những hệ lụy về sức khỏe trong giai đoạn vị thành niên và trưởng thành. Nghiên cứu này là một trong số ít nghiên cứu được thực hiện tại Việt Nam và là nghiên cứu đầu tiên tại Tây Ninh. Tỉ lệ học sinh PTTH có ý nghĩ tự tử trong nghiên cứu này (13%) thấp hơn con số 26,3% đã được báo cáo trong nghiên cứu tại Cần Thơ(9). Tuy nhiên, tỉ lệ trong nghiên cứu này cũng rất cao so với các báo cáo trên thế giới(1,11) từ đó cho thấy nhu cầu cấp thiết trong việc xây dựng chiến lược can thiệp trên vị thành niên trong đó có thể chú trọng các nhóm với nhiều nguy cơ có ý nghĩ tự tử hơn. Về các yếu tố liên quan, kết quả nghiên cứu này khẳng định lại các phát hiện đã có trước đây trong những nghiên cứu trên thế giới trong đó ý nghĩ tự tử ở vị thành niên có liên quan mật thiết đến giới, tình trạng các mối quan hệ trong gia đình và những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu(1- 3,6,11). Trong các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu thì việc bị lạm dụng thể chất và lạm dụng tình dục có ảnh hưởng lớn nhất đến ý nghĩ tự tử trong đó học sinh có những trải nghiệm này có tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn lần lượt là 3,34 và 3,01 lần so với học sinh không có trải nghiệm tương ứng. Ngược lại, sao lãng về thể chất và tinh thần mặc dù cũng có tác động đến ý nghĩ tự tử nhưng với mức độ nhẹ hơn. Tuy nhiên, càng có nhiều những trải nghiệm bất lợi thì tỉ lệ ý nghĩ tự tử càng gia tăng rất cao, đáng kể và có thể gấp 8 lần ở học sinh có ≥ 4 trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu trở lên. Điều này gợi ý rằng, khi can thiệp giải quyết các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu thì dù can thiệp một trải nghiệm bất lợi ít có tác động cũng góp phần cải thiện đáng kể các hậu quả xấu có thể xảy ra với sức khỏe của vị thành niên. Học sinh đôi khi có ý nghĩ tự tử nhưng ý nghĩ đó chỉ biến thành kế hoạch và thực hiện tự tử khi những vấn đề không giải quyết được hoặc những biến cố bất lợi lại xảy ra quá nhiều và/hoặc trong thời gian dài. Bởi vì hầu hết thời gian của học sinh là gắn kết với trường lớp, bạn bè cùng trang lứa, học thêm nên các biến cố bất lợi nếu có sẽ nhiều khả năng xảy ra trong môi trường này. Kết quả nghiên cứu này cho thấy khi có mối quan hệ không tốt, căng thẳng với thầy cô và bạn bè, bị áp lực học tập và điểm số thấp cũng như ít có sự gắn kết với nhà trường thì học sinh có ý nghĩ tự tử cao hơn. Ví dụ, học sinh có stress do học tập ở mức độ vừa và cao thì có tỉ lệ ý nghĩ tự tử cao hơn 2,14 và 3,59 lần so với học sinh ít hoặc không có stress do học tập. Những nghiên cứu trước đây thể hiện rõ ảnh hưởng của các rối loạn tâm thần đến ý nghĩ tự tử trong đó vị thành niên có rối loạn tâm thần thì có nhiều nguy cơ ý nghĩ tự tử hơn học sinh không có rối loạn tâm thần(2,9,11). Kết quả nghiên cứu này cũng thể hiện điều tương tự và các chỉ số đều cho thấy rối loạn tâm thần có tác động lớn hơn so với các yếu tố liên quan đã đề cập bên trên. Ví Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 168 dụ, học sinh có rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu và suy nhược tâm thần thì có tỉ lệ ý nghĩ tự tử lần lượt cao gấp 4,89 và 3,48 và 4,91 lần so với học sinh không có các rối loạn này. Như vậy, ngoài các đặc điểm dịch tễ học cần khu trú khi can thiệp, các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu hay những yếu tố liên quan đến học tập thì các dấu hiệu rối loạn tâm thần ở học sinh cũng cần được đặc biệt quan tâm bởi ảnh hưởng to lớn của nó. Có một số điểm mạnh và hạn chế cần cân nhắc khi ứng dụng kết quả trong nghiên cứu này. Cỡ mẫu lớn, tỉ lệ tham gia nghiên cứu cao, chọn mẫu trên tất cả huyện, thành phố tại Tây Ninh là điểm mạnh. Nghiên cứu cũng cho kết quả chính xác cao nhờ sử dụng các thang đo đã chuẩn hóa. Tuy nhiên, điểm hạn chế trong nghiên cứu là ý nghĩ tự tử mặc dù được đo lường như những nghiên cứu trước đây thông qua một câu hỏi, kết quả có thể không chính xác so với việc sử dụng thang đo đánh giá. Các nghiên cứu trong tương lai cần cân nhắc sử dụng thang đo để đánh giá kết cuộc này. KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ Tỉ lệ học sinh THPT tại Tây Ninh có ý nghĩ tự tử ở mức cao, chiếm 13% (KTC 95% 11,5% - 14,6%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa ý nghĩ tự tử và đặc điểm dân số xã hội, các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu, mối quan hệ với bạn bè và thầy cô cũng như sự gắn kết với nhà trường, các rối loạn tâm thần. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu về một chiến lược can thiệp dành cho học sinh PTTH tại Tây Ninh trong đó tập trung vào nhóm có các đặc điểm liên quan đến ý nghĩ tự tử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ahmad N, et al (2014). Suicidal ideation among Malaysian adolescents. Asia Pac J Public Health, 26(5 Suppl): p. 63s-9s. 2. Cash Scottye J and Bridge Jeffrey A (2009). Epidemiology of Youth Suicide and Suicidal Behavior. Current opinion in pediatrics, 21(5): p.613-619. 3. Hallfors DD, et al (2004). Adolescent depression and suicide risk: association with sex and drug behavior. Am J Prev Med, 27(3): p. 224-31. 4. Kang EH, et al (2015). Twelve-month prevalence and predictors of self-reported suicidal ideation and suicide attempt among Korean adolescents in a web-based nationwide survey. Aust N Z J Psychiatry, 49(1): p. 47-53. 5. Kessler RC, et al (2003). Screening for serious mental illness in the general population. Arch Gen Psychiatry, 60(2): p. 184-9. 6. Kwok SY, Chai W, and He X (2013). Child abuse and suicidal ideation among adolescents in China. Child Abuse Negl, 37(11): p. 986-96. 7. Li ZZ, et al (2014). Prevalence of Suicidal Ideation in Chinese College Students: A Meta-Analysis. PLoS ONE, 9(10): p. e104368. 8. Mental Health Centre North Zealand – Denmark (2010). WHO-Five Well-being Index (WHO-5). Accessed on 22 June 2010. Available from: 9. Nguyen Dat, et al (2013). Depression, anxiety, and suicidal ideation among Vietnamese secondary school students and proposed solutions: a cross-sectional study. BMC Public Health, 13(1): p. 1195. 10. Nguyen Thanh Huong (2006). Child maltreatment in Vietnam: prevalence and associated mental and physical health problems. PhD Thesis, Queensland University of Technology 11. Nock MK, et al (2013). Prevalence, correlates, and treatment of lifetime suicidal behavior among adolescents: results from the National Comorbidity Survey Replication Adolescent Supplement. JAMA Psychiatry, 70(3): p. 300-10. 12. Radloff LS (1977). The CES-D Scale: A Self-Report Depression Scale for Research in the General Population. Applied Psychological Measurement, 1(3): p. 385-401. 13. Ruangkanchanasetr S, et al (2005). Youth risk behavior survey: Bangkok, Thailand. J Adolesc Health, 36(3): p. 227-35. 14. Thai Thanh Truc, et al (2015). Validation of the Educational Stress Scale for Adolescents (ESSA) in Vietnam. Asia Pac J Public Health, 27(2): p. NP2112-21. Ngày nhận bài báo: 20/11/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2015 Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf163_4214_2175479.pdf
Tài liệu liên quan