Các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu ở người mắc bệnh gan mạn

Tài liệu Các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu ở người mắc bệnh gan mạn: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 152 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TIẾP TỤC UỐNG RƯỢU Ở NGƯỜI MẮC BỆNH GAN MẠN Nguyễn Thị Đào*, Alison Merrill**, Trần Thiện Trung*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Rượu là nguyên nhân được xếp thứ hai (sau virus) gây ra các bệnh lý về gan. Người bệnh gan mạn nếu tiếp tục uống rượu sẽ làm tăng tỉ lệ ung hóa, kéo dài thời gian nằm viện, tăng biến chứng và tỉ lệ tử vong. Tuy nhiên, phần lớn người mắc bệnh gan không cai được rượu. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ mức độ uống rượu của người mắc bệnh gan mạn và các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: 96 người bệnh gan mạn tại khoa Tiêu hóa Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: 100% người bệnh gan mạn tham gia nghiên cứu có uống rượu. Trong số đó, có 26 % người bệnh uống rượu với mức độ gây hại và nghiện, 33% người bệnh vẫn tiếp tục uống r...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 100 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu ở người mắc bệnh gan mạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 152 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TIẾP TỤC UỐNG RƯỢU Ở NGƯỜI MẮC BỆNH GAN MẠN Nguyễn Thị Đào*, Alison Merrill**, Trần Thiện Trung*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Rượu là nguyên nhân được xếp thứ hai (sau virus) gây ra các bệnh lý về gan. Người bệnh gan mạn nếu tiếp tục uống rượu sẽ làm tăng tỉ lệ ung hóa, kéo dài thời gian nằm viện, tăng biến chứng và tỉ lệ tử vong. Tuy nhiên, phần lớn người mắc bệnh gan không cai được rượu. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ mức độ uống rượu của người mắc bệnh gan mạn và các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: 96 người bệnh gan mạn tại khoa Tiêu hóa Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: 100% người bệnh gan mạn tham gia nghiên cứu có uống rượu. Trong số đó, có 26 % người bệnh uống rượu với mức độ gây hại và nghiện, 33% người bệnh vẫn tiếp tục uống rượu. Các yếu tố nhóm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, yếu tố tâm lý, yếu tố xã hội có liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu (p < 0,05). Kết luận: Số người bệnh gan mạn không bỏ được rượu chiếm tỷ lệ cao. Có nhiều yếu tố tác động đến việc cai rượu (cả yếu tố khách quan và chủ quan). Cần có sự hỗ trợ của chính phủ, cộng đồng xã hội, nhân viên y tế, chuyên gia tâm lý để giúp những người mắc bệnh gan ngừng uống rượu. Từ khóa: Rượu, mức độ uống rượu, bệnh gan mạn, yếu tố liên quan đến rượu. ABSTRACT FACTORS RELATED TO CONTINUED ALCOHOL CONSUMPTION AMONG PATIENTS WITH CHRONIC LIVER DISEASE Nguyen Thi Đao, Alison Merrill, Tran Thien Trung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 152 – 157 Background: Alcohol is the second leading cause of liver disease. Persons with chronic liver disease who continue to drink alcohol will increase complications, increase cancer rates, lengthen hospital stay and increase mortality. However, most people do not stop drinking alcohol. Objectives: To determine the rate of chronic liver disease patients continuing to drink alcohol and factors related to continued drinking. Methods: A descriptive study. 96 patients with chronic liver disease in Can Tho Gastroenterology Central General Hospital. Results: 100% of patients with chronic liver disease who participated in the study used alcohol. Among them, 26% of patients drink alcohol with harmful levels and addiction, 33% of patients continuing to drink alcohol. The factors of education, economics, age group, occupation, psychological factors and social factors were related to patients continuing to drink alcohol (p <0.05). Conclusions: The number of chronic liver patients who do not quit alcohol is high. There are many *Trường Đại học Tây Đô Cần Thơ. **PGS. TS. ĐD Trường Đại học Điều dưỡng Bắc Colorado. ***GS.TS. BS. Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả liên lạc: CNĐD Nguyễn Thị Đào, ĐT: 0986482977, Email: daonguyen797979@gmail.com. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 153 subjective and subjective factors affecting alcohol withdrawal. There should be support from the government, the social community, medical staff, relatives to help patients with liver disease stop drinking alcohol. Keywords: Alcohol, alcohol consumption, chronic liver disease, alcohol related factors. ĐẶT VẤN ĐỀ Tổ chức Y tế Thế giới thống kê trong năm 2014, khoảng 3,3 triệu người tử vong trên toàn cầu do uống rượu(15). Nguyên nhân gây bệnh gan hàng đầu là do virus, đứng thứ hai là do rượu(13). Theo Cochrene, rượu gây 5,5% gánh nặng bệnh tật toàn cầu(11). Thống kê của Bộ Y tế 2014, Việt Nam là nước đứng đầu Đông Nam Á về mức tiêu thụ rượu và đứng thứ ba châu Á (sau Trung Quốc và Nhật Bản)(3,4). Rượu không những gây bệnh về gan mà còn thúc đẩy tình trạng bệnh gan nặng thêm, gây ung thư hóa, tăng nguy cơ tử vong, tăng số ngày điều trị, tăng số lần nhập viện, gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống(1,3,8). Trước thực tế này, chính phủ Việt Nam đã và đang có nhiều chiến lược nhằm hạn chế, kiểm soát tình trạng uống rượu của người bệnh nói chung và bệnh gan nói riêng(2,9). Công việc này đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải có chứng cứ về mức độ uống rượu và các yếu tố liên quan đến việc người bệnh không thể ngưng uống rượu để đề ra các chiến lược cai rượu phù hợp. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ, mức độ và các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu là rất cần thiết. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Phương pháp cắt ngang mô tả. Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân có bệnh gan trên 6 tháng nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ có chẩn đoán bệnh gan mạn. Cỡ mẫu: n = 96. Tiêu chuẩn chọn mẫu Tất cả bệnh nhân có bệnh gan mạn 18 tuổi trở lên, nhập viện từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 05 năm 2018 tại Khoa Tiêu hóa Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Người bệnh có chẩn đoán bệnh gan kéo dài ít nhất 6 tháng. Công cụ thu thập dữ kiện Khi người bệnh nhập viện vào khoa, người nghiên cứu sẽ phỏng vấn với bộ bộ câu hỏi gồm có 3 phần: khảo sát về nhân khẩu học, các yếu tố liên quan đến việc tiếp tục uống rượu và xác định mức độ uống rượu của người bệnh gan mạn. Phân tích số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 13.0, nhập số liệu bằng phần mền Epidata. KẾT QUẢ Tổng số người bệnh tham gia nghiên cứu là 96 người (đủ tiêu chuẩn chọn mẫu) được tiến hành lấy mẫu từ tháng 11/2017 đến tháng 05/2018. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Đặc điểm chung Tần suất n=96 Tỷ lệ % hoặc TB± ĐLC Giới tính Nam 60 62,5 Nữ 36 37,5 Tuổi 96 49,8 ± 10,6 Nơi cư trú Thành thị 25 26 Nông thôn 71 74 Nghề nghiệp Nông dân 51 53,1 Công nhân & viên chức 17 17,7 Hưu trí 7 7,3 Nghề khác 21 21,9 Mức uống rượu Mức hơp lý 39 40,6 Mức nguy cơ 32 33,3 Mức có hại 5 5,2 Mức nghiện 20 20,8 Người bệnh tham gia nghiên cứu có độ tuổi lớn hơn 18, tuổi trung bình là 49,8 ± 10,6. Bệnh nhân nam chiếm 62,5%, đa số sống ở nông thôn 74%. Nghề nghiệp, chủ yếu là nông dân 53,1%, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 154 công nhân viên chức 17,7%, hưu trí 7,3%, còn lại các nghề khác như buôn bán, thợ hồ, làm thuê Về mức độ uống rượu, người bệnh uống rượu với mức độ phụ thuộc/nghiện chiếm đến 20,8%, uống mức độ có hại 5,2%, uống với mức nguy cơ 33,3%, còn lại là mức uống hợp lý. Liên quan các đặc điểm chung với việc việc tiếp tục uống rượu Bảng 2. Liên quan các đặc điểm chung với việc việc tiếp tục uống rượu Đặc điểm chung Tiếp tục uống rượu Giá trị p OR (KTC 95%) Có (n=32) Không (n=64) Giới Nam (13) 40,6% (47) 73,4% 0,0017 1 Nữ (19) 59,4% (17) 26,6% 4,04 (1,67-10,15) Tuổi (năm) 51,6 ± 10,3 48,9 ± 10,8 0,0013 1,06 (1,02-1,1) Nghề nghiệp Nông dân (20) 62,5% (31) 48,4% 0,445 1 CBVC (4) 12,5% (13) 20,3% 0,48 (0,12 –1,57) Hưu trí (3) 9,4% (4) 6,2% 1,16 (0,21–5,82) Nghề khác (5) 15,6% (16) 25,0% 0,48 (0,14–1,46) Học vấn Không biết chữ (16) 50,0% (13) 20,3% 0,0455 1 THCS THPT (13) 40,6% 40 (62,5%) 0,26 (0,1–0,68) Caođẳng Trungcấp Đại học SĐH (3)9,4% (11) 17,2% 0,22 (0,04–0,88) Nhận xét: Nhân viên y tế cần lưu ý đến tuổi, trình độ học vấn và bình đẳng giới tính trong khi tuyên truyền giáo dục tác hại của rượu và quá trình cai rượu. Người bệnh là nữ có khả năng tiếp tục uống rượu cao hơn nam, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 4,04; p = 0,0017). Bên cạnh đó, tuổi có liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu. Tuổi người bệnh càng cao thì nguy cơ tiếp tục uống rượu càng tăng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 1,06; p = 0,0013). Trình độ học vấn có liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu. Những người có trình độ THCS/THPT tiếp tục uống rượu chỉ bằng 0,26 lần (KTC 95%: 0,1 – 0,68), người có trình độ cao đẳng, trung cấp, đại học, sau đại học tiếp tục uống rượu chỉ bằng 0,22 lần (KTC 95%: 0,04 – 0,88) so với người không biết chữ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nghề nghiệp không liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu (p > 0,05). Liên quan các yếu tố tâm lý của người bệnh với việc tiếp tục uống rượu Người bệnh uống rượu vì buồn, và uống để ngủ ngon liên quan với việc tiếp tục uống rượu, sự khác biệt lần lượt có ý nghĩa thống kê (OR = 0,12; p = 0,0030 và OR= 0,4; p = 0,0379). Người bệnh uống rượu với mục đích thoát khỏi khó khăn, uống để giảm đau, uống với lý do khác không liên quan với việc tiếp tục uống rượu so với người bệnh uống rượu không có lý do (p > 0,05). Bảng 3. Liên quan các yếu tố tâm lý của người bệnh với tiếp tục uống rượu Yếu tố tâm lý Tiếp tục uống rượu Giá trị p OR (KTC 95%) Có (n=32) Không (n=64) Giảm buồn Không 7 (21,9%) 2 (3,1%) 0,003 1 Có 25 (78,1%) 62 (96,9%) 0,12 (0,02 – 0,51) Thoát khỏi khó khăn Không 17 (53,1%) 24 (37,5%) 0,1446 1 Có 15 (46,9%) 40 (62,5%) 0,53 (0,22 – 1,25) Để ngủ ngon Không 17 (53,1%) 20 (31,2%) 0,0379 1 Có 15 (46,9%) 44 (68,8%) 0,4 (0,17 – 0,95) Nhận xét: Buồn và uống rượu để ngủ ngon là hai yếu tố nguy cơ thúc đẩy người bệnh khó cai rượu. Liên quan các yếu tố xã hội của người bệnh với việc tiếp tục uống rượu Người bệnh uống rượu vì kỷ niệm, lễ, sự kiện có liên quan đến việc tiếp tục uống rượu so với người uống rượu không lý do, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR = 0,33; p = 0,0161). Bên cạnh đó, những người uống vì lý do khác như thấy người khác uống, uống để Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 155 thưởng thức, uống vì lời mời có liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu so với người uống rượu không lý do, sự biệt này có ý nghĩa thống kê (OR = 0,13; p = 0,0245). Bảng4. Liên quan các yếu tố xã hội của người bệnh với việc tiếp tục uống rượu Yếu tố xã hội Tiếp tục uống rượu Giá trị p OR (KTC 95%) Có (n=32) Không (n=64) Quảng cáo Không 23 (71,9%) 45 (70,3%) 0,8738 1 Có 9 (28,1%) 19 (29,7%) 0,93 (0,35 – 2,33) Công việc Không 12 (37,5%) 20 (31,2%) 0,5403 1 Có 20 (62,5%) 44 (68,8%) 0,76 (0,31 – 1,87) Kỷ niệm, lễ, sự kiện Không 14 (43,8%) 13 (20,3%) 0,0161 1 Có 18 (56,2%) 51 (79,7%) 0,33 (0,13 – 0,82) Lý do khác* Không 31 (96,9%) 51 (79,7%) 0,0245 1 Có 1 (3,1%) 13 (20,3%) 0,13 (0,01 – 0,68) * Lý do khác: thấy người khác uống, uống vì thưởng thức, vì thách thức và được mời mọc. Nhận xét: Khi giáo dục tác hại của rượu cho người bệnh cần lưu ý nhóm đối tượng uống rượu vì thưởng thức, uống vì thách thức hay uống vì được mời. BÀN LUẬN Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Có sự chênh lệch tỷ lệ giữa nam và nữ trong mẫu nghiên cứu. Tỷ lệ nam 62,5% cao hơn nhiều so với nữ. Nghiên cứu của Giang(5) có kết quả thấp hơn chỉ có 44,6% nam uống rượu, sự khác biệt do Giang nghiên cứu trên tất cả người bệnh không chọn lọc. Walker(25) nghiên cứu có 67% nam uống rượu, cho kết quả gần giống với nghiên cứu của chúng tôi. Tuổi trung bình của người bệnh 49,8 (SD: 10,6), tuổi trung bình này thấp hơn nghiên cứu ở Hàn Quốc của Yi(26) là 58,8 tuổi nhưng cao hơn kết quả nghiên cứu của Singh là 23 tuổi(19). Người bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi phần lớn là nông dân 53,1% và sống ở nông thôn 74%. Điều này do Cần Thơ thuộc các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long đặc trưng với nghề trồng lúa nước. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy gần 60% người bệnh đã uống rượu ở mức có hại. Việc lạm dụng rượu này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Kết quả của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Tạc Văn Nam(19) 46,1%. Mức độ lạm dụng rượu cao rất nhiều so với nghiên cứu của Mohr(14) 23,9%. Tuy nhiên, Tạc Văn Nam và Mohr nghiên cứu trên người khỏe mạnh, trẻ, khỏe nên có sự khác biệt đáng kể. Liên quan các đặc điểm chung với việc tiếp tục uống rượu Người bệnh nữ có khả năng tiếp tục uống rượu cao hơn nam, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 4,04; p = 0,0017). Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Hsu(7), tác giả tìm ra mối liên quan giữa việc nữ với việc tiếp tục uống rượu (OR = 3,35;p = 0,002). Bên cạnh đó, Lê Kim Ánh(10) nghiên cứu trên đối tượng người cao tuổi cho thấy mối liên quan giữa nữ với việc tiếp tục uống rượu (p < 0,05). Ngược lại, Tran(23) có kết quả khác với chúng tôicho thấy liên quan giữa nam với việc tiếp tục uống rượu (p < 0,05). Từ những kết quả trên, khi giáo dục cai rượu cho người bệnh, nhân viên y tế lưu ý nam và nữ có khả năng uống rượu là như nhau. Tuổi có liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu. Người bệnh càng lớn tuổi thì khả năng uống rượu càng tăng (OR = 1,06; p = 0,0013). Kết quả này cũng được Giant(6) kết luận với kết quả nghiên cứu (OR = 0,94; p = 0,0013). Đây là tâm lý chung của nhiều người, là vấn đề trăn trở của đội ngũ y tế cần lưu ý. Nghiên cứu không tìm thấy nguy cơ giữa tiếp tục uống rượu với nghề nghiệp và với nơi cư trú. Khác với nghiên cứu của Tan(21), tác giả tìm được mối liên quan giữa tiếp tục uống rượu với người dân sống ở nông thôn (p < 0,05). Trình độ học vấn có liên quan đến việc người bệnh tiếp tục uống rượu. Những người có trình độ THCS,THPT tiếp tục uống rượu chỉ bằng 0,26 lần (KTC 95%: 0,1 – 0,68) và người có trình độ (cao đẳng, trung cấp, đại học, sau đại học) tiếp tục uống rượu chỉ bằng 0,22 lần (KTC 95%: 0,04 – 0,88) so với người không biết chữ. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 156 Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Giang(5) trình độ có liên quan đến việc uống rượu (p < 0,05). Liên quan các yếu tố tâm lý của người bệnh với việc tiếp tục uống rượu Tâm trạng buồn là yếu tố làm tăng nguy cơ tiếp uống rượu của người bệnh (OR = 0,12; p = 0,003). Theo Taylor(22) nghiên cứu cho thấy việc uống rượu liên quan đến việcgiảm đi những khó khăn, buồn chán (p < 0,05). Bên cạnh đó, nghiên cứu của chúng tôi cũng tìm thấy mối liên quan giữa người bệnh uống rượu để ngủ ngon với việc tiếp tục uống rượu, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 0,4; p = 0,0379). Người bệnh nghĩ rằng rượu là liều thuốc an thần nhưng thực tế, rượu không phải là thần dược của giấc ngủ. Ngược lại, nó sẽ gây hại khi người bệnh uống trong thời gian dài. Theo nghiên cứu của Orui(16) uống rượu để ngủ ngon có mối liên quan với việc tiếp tục uống rượu (p < 0,05). Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa uống rượu vì thói quen, uống để thoát khỏi vấn đề, uống vì thèm, uống vì nghiện, uống vì ham vuivới việc tiếp tục uống (p > 0,05). Khác với nghiên cứu của Taylor(22), uống rượu làm giảm đi cảm giác khi gặp phải vấn đề khó khăn (p < 0,05). Liên quan các yếu tố xã hội của người bệnh với việc tiếp tục uống rượu Yếu tố xã hội có liên quan đến việc tiếp tục uống rượu của người dân(18). Người bệnh gan mạn uống rượu vào dịp kỷ niệm, lễ, sự kiện có liên quan đến việc tiếp tục uống rượu, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR = 0,33; p = 0,016). Ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và các tỉnh thành Việt Nam nói chung, việc uống rượu được thể hiện rõ ở những ngày lễ, tết nguyên đán, đám tiệc: tân gia, cưới hỏi, giỗ hay các sự kiện ngày càng tăng. Điều này được Lincoln(12) chứng minh với kết quả nghiên cứu: lễ, tết, các sự kiện làm tăng nguy cơ uống rượu của người bệnh (OR = 0,13; p = 0,0161). Việc tiếp tục uống rượu của người bệnh gan mạn không liên quan với thói quen, quảng cáo, gặp bạn bè hay công việc (p > 0,05). Nhưng theo nghiên cứu của Phong(17)có mối liên quan giữa uống rượu với mục đích duy trì và cũng cố mối quan hệ xã hội (p < 0,05). Ở Tây Ban Nha, việc quảng cáo rượu, bia gây khó khăn cho nhà nước, và theo Villalbi(24) với kết quả nghiên cứu: có mối liên quan giữa sự hiện diện của cơ sở cung cấp rượu, quảng cáo với việc uống rượu, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). KẾT LUẬN Tất cả người bệnh gan mạn đều uống rượu, uống nhiều với mức độ có hại, nghiện, phụ thuộc rượu chiếm 26%, uống với mức độ nguy cơ có hại 33%. Người bệnh chủ yếu là nam, có trình độ học vấn thấp. Số người bệnh không bỏ được rượu chiếm tỷ lệ cao. Nhiều tác động xã hội, trong đó cả yếu tố khách quan và chủ quan liên quan đến việc cai rượu. Bên cạnh việc chăm sóc của nhân viên y tế, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng xã hội, và người thân, gia đình để giúp những bệnh nhân mắc bệnh gan giảm hoặc ngừng uống rượu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Astagneau D, Campese C et al (2005). Hepatitis C Surveillance System Steering Committee, (2005), "Past excessive alcohol consumption: a major determinant of severe liver disease among newly referred hepatitis C virus infected patients in hepatology reference centers, France", Ann Epidemiol; 15: 551–7. 2. Bộ Y Tế (2016), "Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự luật phòng, chống tác hại của rượu, bia.", Hà Nội, pp. 9-36. 3. Bộ Y Tế (2016), "Báo cáo tình hình sử dụng rượu bia của Việt Nam", Cục Y Tế Dự Phòng, Hà Nội, tr. 102-119. 4. Fonseca F, Kulkarni B, Hastak M et al (2018), "An Overview of Liver Transplant Pathology: Data from a Tertiary Referral Centre in Western India", Ann Hepatol, 17 (3), pp. 426-436. 5. Giang BK, Minh VH, Peter AT et al (2013), "Alcohol consumption and household expenditure on alcohol in a rural district in Vietnam", Global Health Action, 6 (1), pp. 18937. 6. Grant BF, Chou SP, Saha TD et al (2017), "Prevalence of 12- Month Alcohol Use, High-Risk Drinking, and DSM-IV Alcohol Use Disorder in the United States, 2001-2002 to 2012 -2013: Results From the National Epidemiologic Survey on Alcohol and Related Conditions", JAMA Psychiatry, 74 (9), pp. 911-923. 7. Hsu C, Kowdley KV. (2016), "The Effects of Alcohol on Other Chronic Liver Diseases", Clin Liver Dis, 20 (3), pp. 581-94. 8. Jones L, Bates G, McCoy E et al (2015), "Relationship between alcohol-attributable disease and socioeconomic status, and the Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 157 role of alcohol consumption in this relationship: a systematic review and meta-analysis", BMC Public Health, 15 (1), pp. 400. 9. Kikuchi M, Horie Y, Ebinuma H et al (2015), "Alcoholic Liver Cirrhosis and Significant Risk Factors for the Development of Alcohol-related Hepatocellular Carcinoma--Japan, 2012", Nihon Arukoru Yakubutsu Igakkai Zasshi, 50 (5), pp. 222-34. 10. Lê Thị Kim Ánh, Lê Vũ Anh, Đặng Huy Hoàng, Trần Vũ, Nguyễn Tiến Thắng (2014), "Nguyên cứu đánh giá kết quả chương trình can thiệp giảm mức độ sử dụng rượu bia thông qua việc tham gia của hội viên y tế công cộng người cao tuổi", Tạp chí y Tế Công Cộng, trang 8-15. 11. Lim S, Vos T, Flaxman AD et al (2012), "A comparative risk assessment of burden of disease and injury attributable to 67 risk factors and risk factor clusters in 21 regions, 1990 - 2010: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010", Lancet, pp 380. 12. Lincoln M (2016), "Alcohol and Drinking Cultures in Vietnam: A Review", Drug and alcohol dependence, 159, pp. 1-8. 13. Mann K, Aubin HJ, Witkiewitz K (2017), "Reduced Drinking in Alcohol Dependence Treatment, What Is the Evidence?", Eur Addict Res, 23 (5), pp. 219-230. 14. Mohr CD, McCabe CT, Haverly SN, Hammer LB, Carlson KF (2018), "Drinking Motives and Alcohol Use: The SERVe Study of US Current and Former Service Members.", Journal of Studies on Alcohol and Drugs, pp. 79(1), 79-87. 15. Organization WH (2014), "Global status report on alcohol and health 2014", World Health Organization. 16. Orui M, Ueda Y, Suzuki Y et al (2017), "The Relationship between Starting to Drink and Psychological Distress, Sleep Disturbance after the Great East Japan Earthquake and Nuclear Disaster: The Fukushima Health Management Survey", International Journal of Environmental Research and Public Health, 14 (10), pp. 1281. 17. Phong VH. (2013), "A Mixed Methods Analysis of Drinking Cultures in Northern Vietnam.", PhD dissertation. Department of Sociology UOE, pp 18-26. 18. Robinson CSH, Fokas K, Witkiewitz K (2018), "Relationship between empathic processing and drinking behavior in project MATCH", Addict Behav, 77, pp. 180-186. 19. Singh SP, Padhi PK, Narayan J et al (2016), "Socioeconomic impact of alcohol in patients with alcoholic liver disease in eastern India", Indian Journal of Gastroenterology, 35 (6), pp. 419- 424. 20. Tạc Văn Nam (2014), "Thực trạng sử dụng và kiến thức, thái độ cuả người uống rượu, bia ở thị trấn chợ Rã, huyện Ba Bể, Tỉnh Bắc Kạn năm 2014.", Trung tâm Truyền thông GDSK Bắc Kạn, tr. 14-24. 21. Tan VB, Khue NL, Ngoc LVT, Petr Otahal, Velandai S, Mark R, Nelson TBA, Son TH, Hai NP et al (2016), "Alcohol Consumption in Vietnam, and the Useof ‘Standard Drinks’ to Measure Alcohol Intake", Medical Council on Alcohol 22. Taylor P (2001), "Fragments of the Present: Searching for Modernity in Vietnam’s South. Honolulu:" University of Hawai’i Press. 23. Tran TDT, Wynter K, Fisher J (2012), "Interactions among alcohol dependence, perinatal common mental disorders and violence in couples in rural Vietnam: a cross-sectional study using structural equation modeling", BMC Psychiatry, pp. 12:148. 24. Villalbi JR, Espelt A, Sureda X et al (2018), "The urban environment of alcohol: a study on the availability, promotion and visibility of its use in the neighborhoods of Barcelona", Adicciones, pp. 950. 25. Walker M, Presky J, Webzell I et al (2016), "Patients with alcohol-related liver disease--beliefs about their illness and factors that influence their self-management", J Adv Nurs, 72 (1), pp. 173-85. 26. Yi SW, Hong JS, Yi J et al (2016), "Impact of alcohol consumption and body mass index on mortality from nonneoplastic liver diseases, upper aerodigestive tract cancers, and alcohol use disorders in Korean older middle-aged men: Prospective cohort study", Medicine (Baltimore), 95 (39), pp. e4876. Ngày nhận bài báo: 31/07/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/10/2018.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_den_viec_tiep_tuc_uong_ruou_o_nguoi_mac.pdf
Tài liệu liên quan