Các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) hướng đến hợp tác phát triển bền vững - Nguyễn Tú Trinh

Tài liệu Các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) hướng đến hợp tác phát triển bền vững - Nguyễn Tú Trinh: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015 65 Các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) hướng đến hợp tác phát triển bền vững The MeKong subregion countries of expansion (GMS) towards sustainable development cooperation ThS. Nguyễn Thị Tú Trinh Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM M.A. Nguyen Thi Tu Trinh University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City Tóm Tắt Phát triển bền vững là một trong những mục tiêu thiên niên kỷ của thế giới và là mục tiêu quan trọng ở các quốc gia, khu vực. Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng thư ký Liên hợp quốc “Biến chiến lược phát triển bền vững thành hiện thực trên trên phạm vi toàn cầu”, hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ đã đưa ra những chiến lược, những hành động cụ thể về phát triển bền vững. Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) cũng nằm trong xu thế này. Đặc biệt, các nước trong Tiểu vùng có chung dòng sông Mê Kông sẽ mang lại nhi...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 636 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) hướng đến hợp tác phát triển bền vững - Nguyễn Tú Trinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015 65 Các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) hướng đến hợp tác phát triển bền vững The MeKong subregion countries of expansion (GMS) towards sustainable development cooperation ThS. Nguyễn Thị Tú Trinh Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM M.A. Nguyen Thi Tu Trinh University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City Tóm Tắt Phát triển bền vững là một trong những mục tiêu thiên niên kỷ của thế giới và là mục tiêu quan trọng ở các quốc gia, khu vực. Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng thư ký Liên hợp quốc “Biến chiến lược phát triển bền vững thành hiện thực trên trên phạm vi toàn cầu”, hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ đã đưa ra những chiến lược, những hành động cụ thể về phát triển bền vững. Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) cũng nằm trong xu thế này. Đặc biệt, các nước trong Tiểu vùng có chung dòng sông Mê Kông sẽ mang lại nhiều lợi ích về phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch, thương mại, giao thông vận tải Do đó, việc hợp tác khai thác dòng sông một cách hợp lý, lâu dài, hướng đến phát triển bền vững là vấn đề quan trọng của các quốc gia. Từ khóa: phát triển bền vững, Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, hợp tác, môi trường Abstract Sustainable development is one of the millennium goals of the world and is an important target in the country and region. Responding to the call of the UN Secretary General “Turn sustainability strategy into reality on on a global scale”, hundreds of countries and regions have launched the strategy, specific actions about sustainable development. Mekong Sub-region (GMS) is also located in this trend. In particular, countries in the sub-region that share the Mekong River will bring many benefits for economic development, culture, tourism, trade, transport... So, the cooperative exploitation of river in long-tern and in a reasonable manner, long-term, towards sustainable development is a matter of national importance. Keywords: sustainable development, Mekong Sub-region expansion, cooperation, environment Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (Greater Mekong Subregion - GMS) được thành lập vào năm 1992 theo đề xuất sáng kiến của Ngân hàng phát triển Châu Á (Asian Development Bank - ADB). Tiểu vùng bao gồm các nước và vùng lãnh thổ: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và tỉnh Vân Nam Trung Quốc (Trung Quốc tuy có một tỉnh thuộc không gian của Tiểu vùng nhưng Trung Quốc tham gia Tiểu vùng với tư cách một quốc gia). Năm 2002, theo đề nghị của Trung Quốc, tỉnh Quảng Tây được tham gia vào các hoạt động của GMS. Mục đích hợp tác 66 phát triển của GMS nhằm chia sẻ hài hòa lợi ích của mỗi nước mà không gây tổn hại lẫn nhau, hướng đến một khu vực phát triển bền vững. Hoạt động hợp tác của GMS chủ yếu diễn ra trên các lĩnh vực: Giao thông vận tải; Năng lượng; Thương mại, đầu tư; Du lịch; Phát triển nguồn nhân lực; Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Quản lý nguồn nước; Môi trường. Hiện nay các nước trong GMS đang thay đổi chiến lược hợp tác để khẳng định vai trò, vị trí của mình và tăng cường hơn nữa các hoạt động hợp tác tiểu vùng. 1. Khái niệm phát triển bền vững và những hành động của thế giới về phát triển bền vững Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN (International Union for Conservation of Nature and Natural Resources)) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Sau đó đến năm 1987 khái niệm này được sử dụng phổ biến rộng rãi trong Báo cáo Brundtland khi cho rằng: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai”. Đây là “khái niệm khá linh hoạt, không bị gò bó, không có tính cụ thể rõ rệt nhưng có thể diễn giải, vận dụng theo nhiều cách khác nhau trong những lĩnh vực và điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Đây cũng là một định nghĩa được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay” 2,57. Như vậy, báo cáo Brundtland đã cảnh báo về mối hiểm họa của môi trường trên thế giới và kêu gọi toàn thế giới hãy hành động để bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững cho các thế hệ tương lai. Xuất phát từ lời cảnh báo, năm 1992 Hội nghị thượng đỉnh về trái đất của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra một Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, được gọi là Chương trình nghị sự 21 với nội dung bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. Hội nghị đề ra 27 nguyên tắc về phát triển bền vững của Thế giới, nhấn mạnh quyền lợi và trách nhiệm của các quốc gia đối với vấn đề môi trường, khẳng định quan điểm phát triển theo phương thức đảm bảo kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bền vững về môi trường, coi con người là trung tâm của những mối quan hệ về sự phát triển lâu dài. Mặc dù sự cố gắng của Liên hợp quốc và hàng loạt các công ước quốc tế đã thông qua nhưng dường như việc bảo vệ môi trường để phát triển bền vững trên phạm vi toàn cầu là hết sức khó khăn. Trong Hội nghị toàn cầu cấp Bộ trưởng Môi trường được triệu tập tại Malmo (Thụy Điển) vào tháng 5 năm 2000, các đại biểu đã thẳng thắn nêu ra những thách thức môi trường mà thế giới đang phải đối mặt. Đó là thách thức trong việc thực thi các cam kết và hành động khi thực hiện phát triển bền vững, là việc môi trường và tài nguyên trên trái đất đang tiếp tục xấu đi đến mức báo động. Do vậy, đến năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững được tổ chức tại Johannesburg, tư tưởng phát triển bền vững được nhận thức sâu hơn và nâng lên thành nhiều chủ rương, biện pháp mới. Hội nghị này nhận định rằng các vấn đề môi trường trên thế 67 giới là hậu quả của việc bùng nổ dân số toàn cầu, của việc tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên, của các mục tiêu kinh tế ngắn hạn, quá chú trọng lợi nhuận dẫn đến lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực thiên nhiên. Đây là Hội nghị lần đầu tiên có sự tham gia đông đảo của các quốc gia, các nguyên thủ trên thế giới. Đặc biệt tại Hội nghị đã thông qua hai văn kiện quan trọng là “Tuyên bố chính trị” và “Kế hoạch thực hiện” nhằm khẳng định lại những nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững tại Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro (1992) và sự cam kết của các nước đối với việc xây dựng ba trụ cột của phát triển bền vững là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Theo nội dung của hai văn kiện cho rằng: - Phát triển bền vững về kinh tế là lấy các chỉ số phát triển kinh tế làm thước đo: bảo đảm tốc độ tăng trưởng ổn định trong thời gian tương đối dài và không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng. - Phát triển bền vững về xã hội là hướng tới các các tiêu chí về mặt xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. - Phát triển bền vững về môi trường là sự phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với việc bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên. “Trong quá trình phát triển, con người phải biết khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ, chăm sóc, tái tạo tài nguyên thiên nhiên, môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học, hạn chế tối đa tình trạng tàn phá tự nhiên, gây ô nhiễm môi trường”. 2,59 Trên đây là ba trụ cột cơ bản của vấn đề phát triển bền vững. Giữa các bộ phận này không tách rời, biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng, tác động, ràng buộc lẫn nhau trong một thể thống nhất hữu cơ. Bất cứ quan điểm phiến diện, cực đoan nào quá đề cao, tuyệt đối hóa mặt này mà xem nhẹ mặt khác sẽ dẫn tới sai lầm trong nhận thức cũng như trong hành động về phát triển bền vững. Tóm lại, từ mục tiêu của việc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu thiên niên kỷ của toàn cầu và đang dần trở thành xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình thực hiện phát triển bền vững có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa tất cả các mặt của sự phát triển: kinh tế, xã hội, môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. 2. Các nước Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng hướng đến hợp tác phát triển bền vững 2.1 Khái quát Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (Greater Mekong Subregion – GMS) được hình thành vào năm 1992 theo sáng kiến của Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank - ADB). Nơi đây có diện tích 2,6 triệu km2 và dân số khoảng trên 325 triệu người, đa sắc tộc và có các nền văn hóa rất phong phú. Ban đầu, GMS bao gồm các nước nằm trong lưu vực sông Mê Kông: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), năm 2004 có thêm tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) tham gia vào. Sở dĩ GMS được thành lập vì giữa các nước có chung dòng sông Mê Kông giàu tài nguyên thiên nhiên, có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Mục tiêu hoạt động của GMS là mong 68 muốn các nước trong GMS hợp tác trên tinh thần xây dựng và cùng có lợi để phát triển bền vững, sử dụng, bảo vệ và quản lý tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của Lưu vực sông Mê Kông. Từ mục tiêu đó, các nước GMS đã thông qua những nguyên tắc chung trong quan hệ hợp tác . Đó là: hợp tác phải tạo điều kiện duy trì tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của nhân dân trong Tiểu vùng; Các dự án có thể thu hút một số quốc gia trong Tiểu vùng và không nhất thiết phải bao gồm cả 6 nước; Khuyến khích tài trợ cho các dự án Tiểu vùng từ nguồn vốn Chính phủ và Tư nhân; Các dự án hợp tác sẽ không làm tổn hại lợi ích của bất kỳ quốc gia nào, bất kể lợi ích hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. Với những mục tiêu và nguyên tắc đặt ra, có thể thấy các nước trong GMS đã không ngừng nỗ lực trong việc hướng tới xây dựng một khu vực GMS ngày càng phát triển bền vững. 2.2 Các nước GMS tăng cường hợp tác phát triển bền vững Bước sang đầu thế kỷ XXI, hợp tác phát triển bền vững trong GMS ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực và đi vào chiều sâu thực chất, hiệu quả hơn. Để đẩy mạnh hợp tác phát triển bền vững, các nước GMS đã tiến hành tổ chức nhiều Hội nghị cấp cao. Hội nghị cấp cao lần thứ nhất Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS – 1) tổ chức tại Phnôm Pênh năm 2002 và GMS – 2 tổ chức tại Côn Minh (Trung Quốc) năm 2005 đã “nêu ra những nguyên tắc hợp tác, đặt nền móng cho tầm nhìn về một tiểu vùng hội nhập, hòa hợp và thịnh vượng chung” 1,107. Hội nghị cấp cao GMS – 3 tổ chức tại Viên Chăn năm 2008 với chủ đề “Tăng cường cạnh tranh thông qua kết nối sâu rộng hơn”, trên cơ sở đánh giá những tiến triển trong hợp tác đã vạch ra kế hoạch hành động phát triển bền vững GMS giai đoạn 2008 – 2012”. Hội nghị tập trung thảo luận 6 nội dung chính: Tăng cường kết nối giao thông; Thuận lợi hóa thương mại và giao thông; Hợp tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân để tăng cường thương mại và đầu tư GMS; Đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao khả năng cạnh tranh; Hợp tác, phát triển GMS. Gần đây nhất là Hội nghị Thượng đỉnh các nước tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS – 4) tổ chức tại thủ đô Nay Pyi Taw, Cộng hòa Liên bang Myanmar vào ngày 20/12/2011. Với chủ đề “Hướng tới một thập kỷ mới về quan hệ đối tác GMS”, Hội nghị đã kiểm điểm lại kết quả đạt được trong hợp tác GMS thời gian qua và đề ra định hướng cho hợp tác trong 10 năm tới. Các nhà Lãnh đạo GMS đã bày tỏ hài lòng về những kết quả đạt được trong việc triển khai các hoạt động và chương trình hợp tác của Khung Chiến lược hợp tác Tiểu vùng GMS giai đoạn 2002 – 2012, nhất là trong các lĩnh vực hợp tác về: Giao thông, năng lượng, thông tin, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, nông nghiệp, du lịch, môi trường Đặc biệt, để quản lý nguồn nước sông Mê Kông không bị ảnh hưởng từ những tác động bên ngoài, các nước GMS đã thống nhất đưa ra tuyên bố chung về các mục tiêu, nguyên tắc sao cho phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Cụ thể: Về lĩnh vực hợp tác phát triển bền vững: Các nước thống nhất hợp tác trong tất cả các lĩnh vực phát triển bền vững, sử dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của lưu vực sông Mê Kông, bao gồm các lĩnh vực chính như: thuỷ điện, giao thông thuỷ, kiểm soát lũ, thuỷ sản và du lịch, giảm tới mức thấp nhất các ảnh 69 hưởng có hại gây ra bởi các hiện tượng tự nhiên và các hoạt động của con người. Về vấn đề bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái: Các nước GMS cam kết bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện và đời sống thuỷ sinh, cân bằng sinh thái của lưu vực sông Mê Công khỏi bị ô nhiễm hoặc bị ảnh hưởng có hại khác do các kế hoạch phát triển và việc sử dụng nước, tài nguyên liên quan trong lưu vực gây ra. Về sử dụng công bằng và hợp lý: Các nước cam kết sử dụng nước hệ thống sông Mê Kông một cách công bằng, hợp lý trong lãnh thổ của mình theo hoàn cảnh và điều kiện liên quan, cần tuân thủ quy chế sử dụng nước và chuyển nước ra ngoài lưu vực trong mùa mưa và mùa khô. Uỷ ban Liên hợp sẽ thông qua các hướng dẫn về vị trí và mức lưu lượng, theo dõi và có hành động cần thiết để duy trì mức lưu lượng dòng chảy theo quy định. Về việc ngăn ngừa và ngừng ảnh hưởng có hại: Các nước cố gắng nỗ lực tránh, giảm thiểu tới mức thấp nhất và giảm nhẹ các ảnh hưởng có hại xảy ra đối với môi trường, đặc biệt đối với chất lượng nước, các hệ sinh thái thuỷ sinh và cân bằng sinh thái của hệ thống song do việc phát triển và sử dụng tài nguyên nước sông Mê Kông. Khi một hoặc nhiều quốc gia được thông báo với những bằng chứng rõ ràng về việc đang gây ra các thiệt hại đối với sông Mê Công thì quốc gia hoặc các quốc gia đó phải ngừng ngay lập tức và tìm nguyên nhân gây hại cho tới khi nguyên nhân gây hại đó được xác định theo quy định. Như vậy, có thể khẳng định thông qua những cuộc gặp gỡ cấp cao và những tuyên bố chung về quản lý nguồn nước sông Mê Kông cho thấy việc hướng đến hợp tác phát triển bền vững là việc làm hết sức cần thiết đối với các nước GMS. Các nước đã nhận ra rằng, không thể tiếp tục hờ hững với tương lai của chính mình, mà buộc phải chung tay hành động vì một môi trường hòa bình, phát triển. “Nếu như Mê Công là dòng sông chung và đem lại nguồn lợi chung thì rõ ràng, các nước cần phải tích cực đóng góp vào kế hoạch hành động chung để cùng có cách ứng xử thích hợp với “khối tài sản chung vĩ đại” này và chỉ như vậy, dòng Mê Công mới có thể mãi xanh” 10. 2.3 Những kết quả đạt được trong quan hệ hợp tác phát triển bền vững của GMS Với những nỗ lực trong quan hệ hợp tác của GMS thời gian qua đã đem lại nhiều kết quả quan trọng. Thông qua các cơ chế hợp tác, nhiều kênh và diễn đàn mới được hình thành giúp các nước trong lưu vực tìm kiếm những biện pháp thúc đẩy hợp tác kinh tế, giải quyết các vấn đề chung của khu vực và sử dụng tối đa tài nguyên trên cơ sở thảo luận, bình đẳng, tự nguyện và cùng có lợi. Bên cạnh đó, trên từng lĩnh vực hợp tác phát triển, các nước GMS còn đạt được những thành tựu tích cực, cụ thể như: Giao thông vận tải: Đây là lĩnh vực hợp tác phát triển mạnh nhất. Để phục vụ cho công tác vận chuyển, trao đổi hành hóa và rút ngắn thời gian di chuyển của người dân trong và ngoài tiểu vùng, nhiều tuyến hành lang giao thông huyết mạch nối liền giữa các nước đã triển khai thực hiện. Bao gồm: Hành lang Đông-Tây, Hành lang Bắc-Nam từ Côn Minh (Trung Quốc) qua Lào đến Băng Cốc (Thái Lan) và Hành lang phía Nam nối TP. Hồ Chí Minh - Phnôm Pênh (Campuchia) - Băng Cốc (Thái Lan). Trong đó “Hành lang Kinh tế Đông-Tây là một trong những chương trình hợp tác quan trọng nhất trong khuôn khổ GMS. Trên đoạn Hành lang đi qua Việt 70 Nam, một loạt dự án hạ tầng quan trọng đã được triển khai cụ thể: dự án nâng cấp Quốc lộ 9 có tổng chiều dài 83,5km với tổng mức đầu tư 25 triệu USD sử dụng vốn vay ADB; dự án xây dựng hầm đường bộ Hải Vân sử dựng vốn vay JBIC khánh thành tháng 6/2005; dự án xây dựng cảng Tiên Sa - Đà Nẵng và cầu Tuyên Sơn hoàn thành tháng 2/2004 với công suất giai đoạn 1 (1999-2004) là 2,5,triệu tấn/năm và giai đoạn 2 (2004-2010) là 4 triệu tấn/năm” 9. Một khi các tuyến hành lang này đi vào hoạt động sẽ là động lực cho phát triển kinh tế, trao đổi thương mại, rút ngắn thời gian di chuyển giữa các nước trong GMS, đặc biệt là phát triển du lịch. Bảng dự án rút ngắn thời gian đi lại qua các đường bộ Dự án Khoảng cách (km) Thời gian trung bình (giờ) Trước khi dự án thực hiện Sau khi dự án thực hiện Dự án Hành lang kinh tế Đông-Tây Từ Savannakhet đến Dansavanh 236 10-12 4 Từ Đông Hà đến Lao Bảo 83 4 2 Tổng 319 14-16 6 Đường Phnôm Pênh – TP. Hồ Chí Minh Từ Phnôm Pênh đến Bavet 158 7 3 Từ Mộc Bài đến TP. Hồ Chí Minh 80 4 2 Tổng 238 11 5 Nguồn: Tư vấn của ADB phỏng vấn người sử dụng, năm 2008. Về năng lượng: Trong vài thập kỷ qua, do các nước GMS có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với sự gia tăng nhu cầu về điện. Chính vì vậy đã có nhiều nhà máy thủy điện được xây dựng tại các nước GMS, trong đó Trung Quốc là nước có nhà máy thủy điện được xây dựng nhiều nhất với “25 bậc thang trên dòng chính, có tổng cộng suất lắp máy là 25.870 MW và 120 dự án thủy điện trên các dòng nhánh với tổng công suất lắp máy là 2.600 MW. Trên sông Lang Thương thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc dự kiến xây dựng 15 bậc thang thủy điện với tổng công suất lắp máy lên đến 22.860MW, tổng dung tích chứa 52,81 tỷ m3, dung tích hữu ích 29,3 tỷ m3”6. Ngoài ra, trong một thời gian ngắn từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2007, Lào và Campuchia đã ký 12 biên bản ghi nhớ nghiên cứu chuẩn bị xây dựng hàng loạt các công trình thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mê Công. Trong đó có 12 dự án thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mê Kông được xây dựng tại Lào và Campuchia (có 10 dự án ở Lào và 2 dự án ở Campuchia). Nếu các con đập được xây dựng tại Trung Quốc, Lào và Campuchia sẽ đáp ứng nhu cầu thủy điện cho người 71 dân sống trong tiểu vùng. Tuy nhiên, việc xây dựng và vận hành các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Công cũng cần phải cân nhắc giữa các nước vì nó có thể gây ra những tác động tiêu cực đến chế độ dòng chảy, chất lượng nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế của hơn 20.000 người đang sinh sống tại lưu vực con sông này. Do đó, trước khi quyết định triển khai các dự án thủy điện trên dòng chính sông Mê Công cần có sự tham vấn rộng rãi, thông tin minh bạch, sự thống nhất chung trong nhận thức và hành động để không ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các nước GMS. Môi trường: Chương trình Môi trường trọng điểm và Sáng kiến hành lang đa dạng sinh học giai đoạn 1: từ năm 2006-2011 đã được Hội nghị Bộ trưởng Môi trường các nước GMS thông qua năm 2005 với mục tiêu thúc đẩy hợp tác môi trường giữa các nước GMS và giải quyết các vấn đề môi trường trong khu vực. Chương trình tập trung giải quyết các vấn đề: sáng kiến hành lang đa dạng sinh học; đánh giá môi trường chiến lược; đánh giá hiệu quả hoạt động môi trường; tăng cường năng lực; tài chính bền vững cho bảo tồn đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu. “Tổng kinh phí cho Chương trình ước tính khoảng 36 triệu USD do Ngân hành Phát triển Châu Á và các nước GMS tài trợ. Hiện tại các nước đang tiếp tục triển khai giai đoạn 2 (2014 – 2015). Trong giai đoạn này, Chương trình được tài trợ bởi Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) với tổng tài trợ là 29 triệu USD” 8. Nông nghiệp: Hội nghị Bộ trưởng Tiểu vùng Mê Kông mở rộng lần thứ 16 diễn ra ngày 19 – 20/8/2010 tại Hà Nội đã thông qua Chương trình hỗ trợ nông nghiệp giai đoạn (2011 – 2015). Chương trình cung cấp định hướng chiến lược giúp các nước giải quyết các vấn đề đang nổi lên đối với sự phát triển nông nghiệp trong khu vực tiểu vùng, cụ thể là vấn đề thương mại nông sản và đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Chương trình tập trung xây dựng tính cạnh tranh của các nước GMS trên trường quốc tế trong lĩnh vực an toàn thực phẩm; tiếp tục hiện đại hóa thương mại nông sản; xây dựng ngành nông nghiệp và mạng lưới cung cấp hàng xuyên biên giới thân thiện với môi trường hơn Phát triển nguồn nhân lực: Khung chiến lược Phát triển nguồn nhân lực trong khu vực tiểu vùng Mê Kông mở rộng và Kế hoạch hành động (2009 – 2012) đã được phê duyệt tại Hội nghị Bộ trưởng GMS 15 (diễn ra từ ngày 17-19/06/2009 tại tỉnh Petchburi, Thái Lan) và hiện đang được các nước GMS triển khai cùng với sự hỗ trợ vốn, kỹ thuật của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các đối tác phát triển. Dự án có trị giá 2.050.000 USD do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) viện trợ không hoàn lại. Kế hoạch hành động này tập trung giải quyết các vấn đề đáng quan tâm trong lĩnh vực đào tạo - phát triển kỹ năng, lao động - nhập cư, y tế và phát triển xã hội Du lịch: Nhờ điều kiện địa lý thuận lợi là có chung dòng sông Mê Kông nên vấn đề hợp tác phát triển du lịch của GMS đạt được nhiều kết quả tích cực. Mục tiêu hợp tác du lịch của GMS là phát triển du lịch bền vững phục vụ xóa đói giảm nghèo và đưa tiểu vùng thành điểm đến chung với những sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng. Với mục tiêu đó, trong những năm qua lượng khách du lịch đến lưu vực này không ngừng được tăng lên. Theo số liệu thống kê “năm 2012 lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực GMS đạt gần 44 triệu lượt so với chỉ tiêu 50,2 triệu lượt khách 72 đến năm 2015. Đến nay, số lượt khách đến các nước trong khu vực này tiếp tục được tăng lên. Cụ thể, 9 tháng đầu năm 2013, tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đón gần 5,9 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng trung bình 15%. Tương tự, Lào đón gần 2,8 triệu lượt, tăng 15%, trong đó lượng khách từ Việt Nam tăng trưởng trên 22%. Trong 10 tháng năm 2013, Myanmar và Thái Lan đều có lượng khách quốc tế đến tăng trên 20%. Cụ thể, Myanmar đón trên 450.000 lượt khách, tăng 27%; Thái Lan đón gần 22 triệu lượt, tăng trên 22%. Số lượng khách đến Campuchia cũng tăng ở tỷ lệ gần sát Thái Lan là 18,2% nâng số lượng khách du lịch quốc tế đến trong 10 tháng là 3,4 triệu lượt. Việt Nam, 11 tháng năm 2013 có 6,85 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến, tăng 11%”5. Với những kết quả đạt được trong quan hệ hợp tác của GMS thời gian qua trên các lĩnh vực đã đóng góp tích cực thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển và nâng cao đời sống nhân dân các nước trong lưu vực sông Mê Kông. Việc nâng cấp các tuyến đường bộ, cảng biển, đặc biệt là các hành lang kinh tế, đã tạo thuận lợi cho các tỉnh nâng cấp cơ sở hạ tầng dựa vào trục giao thông chính, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp, thương mại và dịch vụ, gắn kết phát triển với các vùng, miền thông qua liên kết giao thông, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương. Nhiều địa phương nghèo đã tận dụng tốt cơ hội từ hợp tác tiểu vùng để vươn lên mạnh mẽ, rút ngắn khoảng cách phát triển với các tỉnh thành khác. Hợp tác trong lĩnh vực môi trường, phát triển nguồn nhân lực cũng giúp các nước Mê Kông nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và xây dựng mô hình phát triển bền vững. Không chỉ bó hẹp trong phạm vi hợp tác giữa các nước trong tiểu vùng, với vị trí địa - chính trị - kinh tế quan trọng, trong quá trình triển khai hợp tác, GMS còn đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nhiều cường quốc lớn trên thế giới. Hiện nay, GMS đã “chứng tỏ là một mô hình hợp tác hiệu quả giữa các nước ASEAN với các đối tác bên ngoài, đưa Tiểu vùng Mê Công trở thành chiếc cầu nối với hai nền kinh tế đang nổi lên ở châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ. GMS thực sự là diễn đàn của tình hữu nghị, sự hợp tác mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia” 1,107. Cụ thể, tiểu vùng Mê Kông đã và đang thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và các đối tác phát triển, trong đó có các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, và Hàn Quốc. Một loạt cơ chế hợp tác giữa các nước tiểu vùng sông Mê Kông và các nước đối tác đã hình thành như: Hợp tác sông Mê Kông – sông Hằng, Hợp tác Mê Kông – Nhật Bản, Hợp tác các nước hạ nguồn sông Mê Kông – Mỹ, và gần đây nhất là Hợp tác Mê Kông – Hàn Quốc Đánh giá những thành tựu đã đạt được trong quan hệ hợp tác của GMS thời gian qua, Ông Stephen Groff, Phó Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) phụ trách khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương nhận định: “Chương trình GMS biến đổi một tiểu vùng từng bị cô lập một thời thành một hình mẫu hội nhập kinh tế. Nếu các quốc gia trong GMS tiếp tục tăng cường hợp tác, thì tương lai sẽ là một tiểu vùng hội nhập, thịnh vượng và hài hòa tại tâm điểm của châu lục năng động nhất thế giới” 11. Trong hơn thập kỷ qua, hợp tác phát triển bền vững giữa các nước trong tiểu vùng Mê Kông đã có những đóng góp quan 73 trọng cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước, góp phần làm thay đổi diện mạo của Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay đòi hỏi các nước cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng tương xứng với tiềm năng và lợi thế của khu vực. Trong giai đoạn tới, các nước GMS cần tiếp tục tăng cường phối hợp, thực hiện nhiều chính sách ở tầm vĩ mô, tìm hướng đi thích hợp cho các cơ chế và khuôn khổ hợp tác. Về phần mình, Việt Nam luôn coi trọng các cơ chế hợp tác khu vực Mê Kông và sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước Mê Kông cũng như các đối tác phát triển để có những đóng góp tích cực và cụ thể hơn nữa, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế (2008), Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.107. 2. Phạm Thị Oanh (2013), Mối quan hệ con người – tự nhiên và phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. tr.57, 59. 3. Nguyễn Ngọc Trân (2011), Những hòn đá nhỏ vì sự phát triển bền vững, Nxb Trẻ. 4. Tan-Dung-du-Hoi-nghi-cap-cao-cac-nuoc- Tieu-vung-Me-Cong-mo-rong-lan-thu- 4/122/7582484.epi 5. du-lich-tieu-vung-Mekong/45/12709604.epi 6. file:///C:/Users/HP/Downloads/Thuy%20dien %20song%20Me%20Kong%20_PA3_.pdf 7. https://cmsdata.iucn.org/downloads/tiep_can_ bao_ve_mt__04122012__final.pdf 8. su-chinh-tri/2014-08-19/29-trieu-usd-tai-cho- cho-chuong-trinh-moi-truong-trong-diem- giai-doan-ii-12580.aspx 9. du-bao/phat-trien-cac-hanh-lang-kinh-te-o- viet-nam-trong-khuon-kho-tieu-vung-song- mekong.nd5-dt.60886.113121.html 10. ruong/40729/Hay-vi-loi-ich-chung-tu-dong- Mekong 11. 20 năm hợp tác phát triển tiểu vùng Mê – kông, truy cập ngày 14/09/2012. Ngày nhận bài: 04/6/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf70_5644_2221560.pdf
Tài liệu liên quan