Tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại các trường Đại học ở Việt Nam: Tổng quan lý thuyết và khung phân tích gợi ý - Hoàng Thị Anh Thư: Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
27
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI CHIA SẺ TRI
THỨC VỚI ĐỒNG NGHIỆP CỦA GIẢNG VIÊN TẠI CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
VÀ KHUNG PHÂN TÍCH GỢI Ý
FACTORS AFFECTING LECTURERS’ KNOWLEDGE SHARING
BEHAVIOUR TO THEIR COLLEAGUES IN VIETNAM
UNIVERSITIES: LITERATURE REVIEW AND THE PROPOSED
CONCEPTUAL FRAMEWORK.
Hoàng Thị Anh Thư1
Ngày nhận: 28/9/2017 Ngày nhận bản sửa: 15/12/2017 Ngày đăng: 5/2/2018
Tóm tắt
Chia sẻ tri thức có vai trò quan trọng trong việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của tổ chức nói
chung và trường đại học nói riêng. Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu về hành vi chia sẻ tri thức với
đồng nghiệp của các giảng viên còn hạn chế và kết quả nghiên cứu lại thiếu đồng bộ. Lý do là vì,
các nghiên cứu trước đang tiếp cận vấn đề theo ba hướng khác nhau: (1) lý thuyết hành vi
TRA/TPB, (2) các lý thuyết tiêu biểu liên quan đến việc học tập của cá nhân; (3) phân tích theo
ba nhóm nhân...
14 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại các trường Đại học ở Việt Nam: Tổng quan lý thuyết và khung phân tích gợi ý - Hoàng Thị Anh Thư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
27
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI CHIA SẺ TRI
THỨC VỚI ĐỒNG NGHIỆP CỦA GIẢNG VIÊN TẠI CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
VÀ KHUNG PHÂN TÍCH GỢI Ý
FACTORS AFFECTING LECTURERS’ KNOWLEDGE SHARING
BEHAVIOUR TO THEIR COLLEAGUES IN VIETNAM
UNIVERSITIES: LITERATURE REVIEW AND THE PROPOSED
CONCEPTUAL FRAMEWORK.
Hoàng Thị Anh Thư1
Ngày nhận: 28/9/2017 Ngày nhận bản sửa: 15/12/2017 Ngày đăng: 5/2/2018
Tóm tắt
Chia sẻ tri thức có vai trò quan trọng trong việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của tổ chức nói
chung và trường đại học nói riêng. Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu về hành vi chia sẻ tri thức với
đồng nghiệp của các giảng viên còn hạn chế và kết quả nghiên cứu lại thiếu đồng bộ. Lý do là vì,
các nghiên cứu trước đang tiếp cận vấn đề theo ba hướng khác nhau: (1) lý thuyết hành vi
TRA/TPB, (2) các lý thuyết tiêu biểu liên quan đến việc học tập của cá nhân; (3) phân tích theo
ba nhóm nhân tố là “cá nhân”, “tổ chức”, và “hệ thống thông tin”. Khung phân tích được đề xuất
trong bài viết này dựa trên sự tích hợp đầy đủ cả ba hướng tiếp cận trên, sau đó được sàng lọc
cẩn thận để phù hợp với bối cảnh các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp nghiên
cứu được sử dụng là phương pháp nghiên cứu định tính. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chia
sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại các trường đại học ở Việt Nam được xác định như
sau: (1) hệ thống khen thưởng, (2) người lãnh đạo trực tiếp, (3) văn hóa tổ chức, (4) niềm tin cảm
tính, và (5) sự cam kết với tổ chức.
Từ khóa: chia sẻ tri thức, yếu tố ảnh hưởng đến chia sẻ tri thức, các trường đại họctại Việt Nam
Abstract
Knowledge sharing plays an important role in enhancing the competitive advantage of
organizations in general and universities in particular. However, the number of studies on
knowledge sharing behavior amongst lecturers is rather limited and these studies’ results are
inconsistent. The cause is that previous studies are approached in three different ways: (1)
TRA/TPB behavioral theory, (2) typical theories related to self-learning; (3) analyzed in three
factor groups are: "individual", "organization", and “information system”. The framework
proposed in this paper is a full integration of all three approaches above, and then is selected
carefully to match the current context of Vietnam universities. The method used here is
qualitative research method. The factors which affecting the lecturers’ knowledge sharing
behavior with their colleagues in Vietnam universities are identified as follows: (1) reward
1 Khoa Du Lịch – Đại học Huế, email: hoanganhthu.hat@gmail.com
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
28
system, (2) direct leader, (3) organizational culture, (4) affected trust, and (5) organizational
commitment.
Keywords: knowledge sharing, factors on knowledge sharing, universities in Vietnam.
1. Giới thiệu
Tại trường đại học, mỗi một giảng viên cần
phải ý thức được rằng “việc chia sẻ tri thức với
mọi người xung quanh” là một nhiệm vụ quan
trọng (Suhaimee, Abu Bakar, Alias, 2006). Vì
chia sẻ tri thức giúp cải thiện chất lượng của
mỗi giảng viên, qua đó tăng cường năng lực
cạnh tranh của trường học đó (Christine Nya-
Ling Tan & Ramayah, 2014). Trong hai đối
tượng nhận được sự chia sẻ tri thức của các
giảng viên tại môi trường làm việc là sinh viên
và đồng nghiệp thì ở nhóm thứ hai gặp nhiều
khó khăn hơn, và đây cũng là một trong các
trở ngại lớn đối với hoạt động quản lý tri thức
tại trường đại học hiện nay. Bởi vì, khi việc sở
hữu các tri thức quý giá giúp cho cá nhân trở
nên có ưu thế hơn so với đồng nghiệp thì họ có
xu hướng tích trữ và không muốn chia sẻ tri
thức đó (Davenport, 1998). Do vậy, việc nhận
diện được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
chia sẻ tri thức của giảng viên với đồng nghiệp
là rất quan trọng, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo và hiệu quả hoạt động của các
trường đại học hiện nay (Ali Jolaee & ctg,
2013).
Tìm hiểu các nghiên cứu đã thực hiện trước
đây về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chia
sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại
các trường đại học thì nhận thấy: số lượng
công trình nghiên cứu còn hạn chế và các yếu
tố ảnh hưởng được nhận diện còn tương đối
rời rạc và thiếu đồng bộ. Điều này khiến cho
những người theo sau trong chủ đề này gặp
phải khó khăn khi lựa chọn khung phân tích
chuẩn để vận dụng. Xuất phát từ lý do đó, bài
viết này trên cơ sở tích hợp đồng thời cả ba
hướng tiếp cận lý thuyết rồi dựa vào bối cảnh
thực tế của các trường đại học Việt Nam hiện
nay để đề xuất khung phân tích, đặt cơ sở ban
đầu cho việc triển khai các nghiên cứu thực
nghiệm tiếp theo trong tương lai.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm chia sẻ tri thức và hành vi
chia sẻ tri thức
Chia sẻ tri thức là nền tảng cốt lõi và cũng
là khía cạnh quan trọng nhất của quản lý tri
thức (Gupta &ctg, 2000). Chia sẻ tri thức được
định nghĩa là quá trình cho và nhận tri thức,
trong đó sự sáng tạo và chia sẻ tri thức phụ
thuộc vào nỗ lực có ý thức của cá nhân làm
cho tri thức được chia sẻ (Nonaka & Tekeuchi,
1995); hay chia sẻ tri thức là một hành động
chủ quan cố ý làm cho tri thức được tái sử
dụng bởi những người khác thông qua chuyển
giao tri thức (Lee & Al-Hawamdeh, 2002);
hoặc chia sẻ tri thức chính là việc tạo ra dòng
chảy tri thức miễn phí trong các tổ chức
(Gupta, 2008). Quinn & ctg (1996) đã nhấn
mạnh rằng việc chia sẻ tri thức khiến cho
thông tin và tri thức nhận được bởi người gửi
và người nhận được tăng theo cấp số nhân.
Còn hành vi chia sẻ tri thức là các hoạt
động liên quan đến sự sẵn lòng của người lao
động đối với việc chia sẻ tri thức của mình với
những người khác trong tổ chức (Yun,
Takeuchia & Liu, 2007), cụ thể như chủ động
giao tiếp, tư vấn, trao đổi và chia sẻ kinh
nghiệm với đồng nghiệp một cách tự nguyên
(Lin, 2011). Tại các trường đại học hiện nay,
các giảng viên đang thực hiện hành vi chia sẻ
tri thức của mình với đồng nghiệp chủ yếu
thông qua các hình thức sau: xuất bản sách,
giáo trình; công bố kết quả nghiên cứu khoa
học; tổ chức hội thảo, tọa đàm, seminar; thành
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
29
lập các nhóm đọc (Group Reading), nhóm
nghiên cứu,
2.2. Các lý thuyết nền tảng liên quan đến
hành vi chia sẻ tri thức
❖ Lý thuyết khoa học hành vi: thuyết
hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned
Action) được xem là học thuyết tiên phong
trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lý hành vi
(Olson &Zanna, 1993). Theo đó, khả năng một
hành vi xảy ra hay không được dự đoán tốt
nhất thông qua ý định thực hiện hành vi đó; và
ý định hành vi của một cá nhân dựa vào hai
yếu tố là: (1) thái độ và (2) chuẩn chủ quan.
Trong đó, “thái độ” chính là đánh giá của
chính cá nhân đó đối với kết quả dự kiến của
việc thực hiện hành vi, còn “chuẩn chủ quan”
là suy nghĩ của những người xung quanh đối
với việc thực hiện hành vi của cá nhân đó. Đến
năm 1991, Ajzen đề xuất Lý thuyết hành vi
hoạch định - TPB (Theory of Planned
Behavior) bằng cách bổ sung thêm yếu tố
“nhận thức kiểm soát hành vi” (perceived
control behaviour) vào mô hình gốc ban đầu
để dự đoán hành vi của con người. Yếu tố
“nhận thức kiểm soát hành vi” là việc mà cá
nhân cảm thấy dễ dàng hay khó khăn để thực
hiện hành động dựa trên các nguồn lực và cơ
hội có sẵn. Lý thuyết hành động hợp lý TRA
(Ajzen&Fishbein,1975) và Lý thuyết hành vi
hoạch định TPB (Ajzen, 1991) được chứng
minh có kết quả khá tốt trong việc dự báo các
hành vi khác nhau của cá nhân (Sheppard
&ctg, 1988).
❖ Lý thuyết trao đổi xã hội (Social
Exchange Theory): được giới thiệu bởi Blau
(1964) đề cập đến việc khi chia sẻ tri thức với
người khác sẽ tạo ra các cảm giác về sự biết
ơn, niềm tin, và nghĩa vụ đáp lại. Qua đó, giúp
họ thiết lập được những mối quan hệ xã hội tốt
với những người được chia sẻ tri thức.
❖ Lý thuyết nhận thức xã hội (Social
Cognitive Theory): được giới thiệu bởi
Bandura (1989), lý thuyết này nhấn mạnh vào
tiến trình nhận thức của cá nhân thông qua
việc học trung gian. Thực tiễn cho thấy, các cá
nhân nếu như không chắc chắn về năng lực và
kết quả tri thức mà họ chia sẻ thì họ sẽ không
chia sẻ; ngược lại cá nhân nếu không tin vào
năng lực và tri thức của người chia sẻ thì sẽ
ngần ngại đối với việc tiếp nhận tri thức. Vì
vậy, “niềm tin” được xem là trái tim của lý
thuyết nhận thức xã hội.
❖ Lý thuyết xây dựng xã hội (Social
Constructivist Theory): được giới thiệu bởi
Jonassen & ctg (1995), nó nhấn mạnh đến vai
trò của xã hội đối với việc xây dựng nên kiến
thức trong bộ não của mỗi cá nhân. Hay nói
một cách khác, tri thức của mỗi cá nhân được
định hình từ trải nghiệm của cá nhân đó với
môi trường xung quanh, qua đó cải thiện kỹ
năng và kiến thức. Do đó, môi trường tổ chức
chính là tâm điểm của lý thuyết xây dựng xã
hội.
2.3. Các nghiên cứu đã thực hiện về hành
vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng
viên tại trường đại học
Tính đến thời điểm hiện nay, nhìn chung số
lượng các nghiên cứu về hành vi chia sẻ tri
thức với đồng nghiệp của giảng viên tại trường
đại học còn khá hạn chế. Một số nghiên cứu
tiêu biểu về chủ đề này được trình bày ở bảng
1.
Nhìn chung, các nghiên cứu đã thực hiện
trước đây về chủ đề này đang tồn tại ba hạn
chế sau: (1) cách thức tiếp cận vấn đề khác
nhau, cụ thể chỉ sử dụng duy nhất một hoặc
chỉ kết hợp hai trong ba hướng sau: Lý thuyết
khoa học hành vi (TRA hoặc TPB), các lý
thuyết nền tảng liên quan đến quá trình học
tập của cá nhân, hay phân tích các yếu tố ảnh
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
30
hưởng theo ba nhóm: “cá nhân”, “tổ chức”
và “hệ thống thông tin”; (2) kết quả nghiên
cứu (các yếu tố ảnh hưởng được nhận diện )
thiếu sự đồng bộ và nhất quán, (3) tính đến
thời điểm hiện nay, vẫn chưa thực sự có khung
phân tích chuẩn đối với hành vi chia sẻ tri
thức với đồng nghiệp được thiết kế riêng cho
đối tượng là giảng viên các trường đại học.
Bảng 1: Một số nghiên cứu tiêu biểu về hành vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp của
giảng viên tại các trường đại học
STT Quốc gia Hướng tiếp cận Các yếu tố ảnh hưởng được xác định
Nguồn
tham khảo
1 Malaysia
Tiếp cận từ góc độ các
rào cản trong chia sẻ
tri thức (barriers)
(1) Phần thưởng & sự ghi nhận, (2) thời gian, (3)
hoạt động chính thức & không chính thức, (4) văn
hóa doanh nghiệp, (5) sự giao tiếp, (7) niềm tin,
(8) hệ thống thông tin.
Kamal Kishore
Jain & ctg (2007)
2 Malaysia Mô hình TPB (1) Thái độ, (2) chuẩn chủ quan, (3) nhận thức
kiểm soát hành vi.
Noor Asilah
Nordin & ctg
(2012)
3 Malaysia
Mô hình TPB & 02 yếu
tố cảm xúc cá nhân
(niềm tin, sự cam kết)
(1) Thái độ, (2) chuẩn chủ quan, (3) nhận thức
kiểm soát hành vi, (4) niềm tin tình cảm, (5) cam
kết cảm xúc.
See Kwong Goh &
Manjit Singh
Sandhu (2013)
4 Iran
Tiếp cận theo 03 nhóm
yếu tố: cá nhân, tổ
chức và hệ thống
thông tin
(1) Niềm tin, (2) thời gian, (3) kỹ năng và năng lực
của người lao động, (4) thái độ, (5) cấu trúc tổ
chức, (6) văn hóa tổ chức, (7) tinh thần đồng đội,
(8) sự hướng dẫn sử dụng hệ thống thông tin, (9)
hệ thống thông tin thiếu tương thích với nhu cầu.
Dokhtesmati &
Bousari (2013)
5 Anh
Tiếp cận theo 02 nhóm
yếu tố: cá nhân & tổ
chức
(1) Thái độ, (2) phần thưởng và lợi ích cá nhân đi
kèm, (3) ảnh hưởng từ lãnh đạo & đồng nghiệp,
(4) văn hóa tổ chức (gồm có: lãnh đạo, hệ thống
thông tin, cấu trúc tổ chức).
Roger Fullwood &
ctg (2013)
6 Iran
Tiếp cận theo 01 yếu
tố thuộc nhóm cá nhân
là “sự cam kết với tổ
chức”
Các thành phần của “cam kết” ảnh hưởng đến chia
sẻ tri thức: cam kết cảm xúc, cam kết tiếp tục, cam
kết nghĩa vụ.
Neyestani & ctg
(2013)
7 Malaysia
Mô hình TRA & Lý
thuyết vốn xã hội
(SCT)
(1) Thái độ, (2) chuẩn chủ quan, (3) niềm tin.
Trong đó, thái độ được cấu thành từ: sự tự tin, giao
tiếp xã hội, và phần thưởng.
Ali Jolaee & ctg
(2014)
8 Malaysia
Tiếp cận từ góc độ các
rào cản trong chia sẻ
tri thức
- Đối với trường đại học công lập: (1) phần thưởng
bằng tiền mặt, (2) sự công nhận, (3) sự công bố về
tri thức trên website và bản tin, (4) sử dụng các
công cụ và hệ thống công nghệ thích hợp.
- Đối với trường đại học tư thục: (1) các phần
thưởng phi tiền mặt, (2) đánh giá kết quả công việc
công bằng. Và hoạt động này ở trường tư thì diễn
ra tốt hơn ở trường công.
Chin Wei Chong &
ctg (2014)
9 Iran
Tiếp cận theo 02 nhóm
yếu tố: cá nhân & tổ
chức
(1) Thái độ, (2) sự tôn trọng và niềm tin từ các
đồng nghiệp, (3) văn hóa chia sẻ tri thức, (4) cấu
trúc quản trị của tổ chức, (5) sự ủng hộ của ban
lãnh đạo, (6) kỹ năng giao tiếp, (7) và kỹ năng sử
dụng các công cụ thông tin có sẵn.
Ziaei (2014)
10 Malaysia
Tiếp cận theo 02 nhóm
yếu tố: cá nhân (động
lực bên trong) & tổ
(1) Động lực bên trong:cam kết, thích thú việc
giúp đỡ người khác; và (2) động lực bên ngoài:
danh tiếng, phần thưởng.
Christine Nya-Ling
Tan & Ramayah
(2014)
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
31
chức (động lực bên
ngoài)
11 Việt Nam
Các lý thuyết liên quan
đến việc học tập của cá
nhân: trao đổi xã hội,
nhận thức xã hội, phát
triển nhận thức, kiến
tạo xã hội
(1) Hệ thống khen thưởng, (2) văn hóa tổ chức,
(3) công nghệ thông tin, (4) sự tin tưởng, (5) định
hướng học hỏi.
Bùi Thị Thanh
(2014)
12 Việt Nam
Tiếp cận theo 01 yếu
tố thuộc nhóm “tổ
chức” là văn hóa
doanh nghiệp
Các thành phần của văn hóa doanh nghiệp ảnh
hưởng đến chia sẻ tri thức: (1) sự tin tưởng vào
đồng nghiệp, (2) giao tiếp giữa các đồng nghiệp;
(3) quy trình, (4) hệ thống khen thưởng, (5) lãnh
đạo.
Nguyễn Thị Hằng
Nga & Nguyễn
Kim Nam (2016)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2017
3. Cơ sở thiết kế khung phân tích
Nhằm lấp đầy một cách toàn diện các khe
hổng nghiên cứu đã đề cập ở trên, bài viết này
tiến hành thiết kế khung phân tích trên cơ sở
thực hiện đồng thời ba công việc sau: (1) tích
hợp cùng lúc cả ba hướng tiếp cận mà các
nghiên cứu trước đang vận dụng riêng rẽ; (2)
kế thừa các nhân tố hội tụ từ những nghiên cứu
trước; và (3) đối chiếu kết quả thu được từ lý
thuyết với bối cảnh thực tiễn thông qua việc
hiểu được các rào cản đối với hoạt động chia
sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại
các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Sự tích hợp đồng thời cả ba hướng
tiếp cận về lý thuyết
3.1.1. Hướng tiếp cận từ lý thuyết hành vi
Cá nhân chỉ thực hiện chia sẻ tri thức khi
mà tổng giá trị/ lợi ích họ nhận được là vượt
qua chi phí mà họ phải bỏ ra để có được tri
thức đó (Constant &ctg, 1994). Hay nói một
cách khác, thì hành vi chia sẻ tri thức của cá
nhân là quyết định mang tính lý trí và hành
động hợp lý dựa trên sự phân tích có ý thức
các thông tin có sẵn. Bên cạnh đó, hành vi chia
sẻ tri thức tại trường đại học là rất hiếm khi bị
kiểm soát hay hạn chế. Vì vậy, thuyết TRA sẽ
phù hợp hơn với hành vi chia sẻ tri thức của
giảng viên tại các trường đại học.
Ngoài ra, một trong những ưu điểm của mô
hình TRA là không mang tính cứng nhắc, nó
có thể được mở rộng bằng cách bổ sung thêm
các nhân tố đóng góp cho việc giải thích hành
vi như yếu tố xã hội, tâm lý, động lực cá nhân
(Mzoughi & ctg, 2010).
Do đó, bài viết này lựa chọn phân tích ý
định hành vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp
của giảng viên tại các trường đại học ở Việt
Nam theo mô hình TRA với các yếu tố ảnh
hưởng là: thái độ đối với hành vi chia sẻ tri
thức và chuẩn chủ quan.
3.1.2. Hướng tiếp cận từ các lý thuyết nền
tảng liên quan đến quá trình học tập của cá
nhân
Các lý thuyết nền tảng liên quan đến quá
trình học tập của cá nhân cùng với yếu tố trọng
tâm của chúng được trình bày ở bảng 2 sau
đây:
Bảng 2: Các lý thuyết nền tảng liên quan đến quá trình học tập của cá nhân
STT Lý thuyết Yếu tố cốt lõi Nguồn
1 Trao đổi xã hội Các mối quan hệ xã hội tạo dựng được nhờ vào Blau (1964)
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
32
sự chia sẻ tri thức
2 Nhận thức xã hội Niềm tin trong giao tiếp giữa các cá nhân Bandura (1989)
3 Tạo dựng xã hội Đặc điểm của môi trường tổ chức Jonassen&ctg (1995)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2017
3.1.3. Hướng tiếp cận dựa trên phân tích
các yếu tố ảnh hưởng theo 03 nhóm “cá
nhân”, “tổ chức”, và “hệ thống thông tin”
Phần lớn các nghiên cứu trước đều phân
tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ
tri thức của cá nhân trong tổ chức theo ba
nhóm là: cá nhân, tổ chức, và hệ thống thông
tin. Tuy nhiên, trong hai nghiên cứu về hành vi
chia sẻ tri thức của giảng viên với đồng nghiệp
của Roger Fullwood & ctg (2013) và Ziaei
(2014) đã đưa nội dung “hệ thống thông tin”
vào nhóm yếu tố “tổ chức”.
3.2. Các nhân tố hội tụ được rút ra từ các
nghiên cứu đã thực hiện
Các nghiên cứu tiêu biểu đã thực hiện về
chủ đề này (bảng 1) đang hội tụ với nhau ở các
nhân tố sau: (1) thái độ đối với chia sẻ tri thức,
(2) chuẩn chủ quan, (3) văn hóa tổ chức, (4) hệ
thống thông tin, và (5) niềm tin. Bên cạnh đó,
yếu tố cam kết xuất hiện nhiều trong các
nghiên cứu nước ngoài, nhưng lại không có
mặt trong các nghiên cứu ở Việt Nam. Trong
các nhân tố hội tụ này có một vấn đề cần lưu ý
đó là: với những tổ chức không yêu cầu mức
độ công nghệ thông tin quá cao như trường đại
học (trừ các đơn vị đảm nhận đào tạo chuyên
sâu ngành công nghệ thông tin) thì “hệ thống
thông tin” về bản chất là một trong các yếu tố
quan trọng nhằm xây dựng và tăng cường văn
hóa tổ chức định hướng chia sẻ tri thức
(Bradley & ctg, 2006; Jakobus Smit &
Marielle Dellemijn, 2015).
Do đó, bài viết này lựa chọn kế thừa các
nhân tố hội tụ sau để xây dựng khung phân
tích về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chia
sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại
các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, gồm
có: thái độ đối với chia sẻ tri thức, chuẩn chủ
quan, văn hóa tổ chức, niềm tin, và cam kết
với tổ chức. Trong đó, thái độ đối với chia sẻ
tri thức là niềm tin của một giảng viên về các
lợi ích dự kiến sẽ nhận được nếu họ thực hiện
chia sẻ tri thức với đồng nghiệp, bao gồm: sự
khen thưởng, các mối quan hệ có được, cảm
giác bản thân có giá trị thông qua việc đóng
góp cho tổ chức (Bock & Kim, 2002); còn
chuẩn chủ quan là nhận thức của người thực
hiện hành vi về việc những người quan trọng
đối với họ nghĩ rằng họ nên hay không nên
thực hiện hành vi đó (Ajzen & Fishbein,
1980), nên chuẩn chủ quan đối với hành vi
chia sẻ tri thức của một giảng viên chính là
người lãnh đạo và các đồng nghiệp của họ.
3.3. Xem xét các rào cản đối với hoạt động
chia sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng
viên tại các trường đại học ở Việt Nam hiện
nay
Suy cho cùng, điều kiện cần và đủ để hoạt
động chia sẻ tri thức đạt được thành công là ở
hai yếu tố sau: (1) tổ chức phải có đội ngũ sản
xuất tri thức giỏi, (2) người chia sẻ cũng như
người tiếp nhận tri thức biết được cách thức
làm việc nhóm, làm việc cùng nhau hiệu quả.
Vì vậy, có thể xác định các rào cản quan trọng
đối với hoạt động chia sẻ tri thức với đồng
nghiệp của giảng viên tại các trường đại học ở
Việt Nam hiện nay như sau:
- Đội ngũ sản xuất tri thức của toàn xã
hội nói chung và các trường đại học nói riêng
chính là các nhà khoa học. Các nhà khoa học
Việt Nam hiện nay đang đối mặt với hai khó
khăn lớn nhất là: mức sống thấp và môi trường
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
33
dung dưỡng cho sáng tạo, nghiên cứu còn hạn
chế (Trần Cao Sơn, 2014).
- Khả năng làm việc nhóm của người
Việt được đánh giá là thấp so với thế giới cũng
như các nước khác trong khu vực châu Á, là
do các nguyên nhân sau: ngại trao đổi thẳng
thắn trong giao tiếp do thiếu sự tin cậy lẫn
nhau; tính bảo thủ cá nhân cao; người lãnh đạo
chưa ý thức được tầm quan trọng của việc xây
dựng thói quen chia sẻ tri thức tại tổ chức.
Như vậy, các trường đại học ở Việt Nam
hiện nay có thể gỡ bỏ các rào cản giúp đẩy
mạnh hoạt động chia sẻ tri thức với đồng
nghiệp của giảng viên tại tổ chức bằng những
việc làm sau: (1) tăng thu nhập cho người làm
khoa học thông qua hệ thống khen thưởng; (2)
người lãnh đạo cần chú trọng xây dựng văn
hóa đơn vị hướng đến sự khích lệ nghiên cứu
khoa học và chia sẻ tri thức; (3)các giảng viên
phải nhận thức được rằng chia sẻ tri thức mang
lại nhiều lợi ích cho bản thân cũng như tập thể.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên
cứu định tính. Trước tiên, phương pháp nghiên
cứu tài liệu được thực hiện nhằm tổng hợp các
công trình nghiên cứu tiêu biểu, sau đó đánh
giá chúng để phát hiện các hạn chế còn tồn tại.
Từ đó, chỉ ra các khe hổng nghiên cứu mà bài
viết này cần giải quyết. Bên cạnh đó, tác giả
còn tiến hành phỏng vấn chuyên gia với 10
trưởng khoa, trưởng bộ môn của các trường
đại học thuộc khối khoa học xã hội trên địa
bàn thành phố Huế để nhận diện các rào cản
trong hoạt động chia sẻ tri thức với đồng
nghiệp của đội ngũ giảng viên, giúp kết quả
nghiên cứu bám sát với bối cảnh thực tiễn. Tất
cả những thông tin thu thập được từ quá trình
nghiên cứu tài liệu và phỏng vấn chuyên gia
chính là cơ sở để thiết kế khung phân tích.
5. Kết quả nghiên cứu
Dựa trên các nội dung đã trình bày ở trên,
những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ
tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay được
nhận diện gồm có:
❖ Hệ thống khen thưởng
Hệ thống khen thưởng được tạo ra để
khuyến khích người lao động đạt được các
mục tiêu mà tổ chức đặt ra (Svetlana Sajeva,
2014). Hệ thống khen thưởng được phân thành
hai nhóm là phần thưởng bên ngoài và bên
trong. Trong đó, các phần thưởng bên ngoài là
do tổ chức trao cho người lao động gồm có sự
khen thưởng tiền tệ và phi tiền tệ. Cụ thể, tiền
tệ chính là tăng lương và tiền thưởng, còn phi
tiền tệ là sự thăng tiến, được tham dự các khóa
đào tạo hay các dự án. Ngược lại với phần
thưởng bên ngoài, thì phần thưởng bên trong
chính là các lợi ích vô hình, thiên về tâm lý khi
thực hiện chia sẻ tri thức như: hy vọng sẽ xây
dựng được các mối quan hệ tốt với đồng
nghiệp, danh tiếng cá nhân được củng cố, cảm
thấy mình có ích với tổ chức, hay cảm thấy tự
tin hơn.
Rất nhiều nghiên cứu đã thừa nhận hệ thống
khen thưởng là một nhân tố quan trọng tác
động đến hành vi chia sẻ tri thức trong tổ chức
(Al-Alawi & ctg, 2007; Alam & ctg, 2009).
Theo Al-Alawi & ctg (2007) thì hệ thống khen
thưởng nên gắn với các hoạt động chia sẻ tri
thức tại tổ chức. Và sự công nhận, cơ hội
thăng tiến được thừa nhận là cách khuyến
khích hiệu quả đối với hành vi chia sẻ tri thức
(Sutton, 2006). Do đó, giả thuyết được đề xuất
là:
Giả thuyết H1: Hệ thống khen thưởng có
tác động cùng chiều đến ý định chia sẻ tri thức
với đồng nghiệp của giảng viên tại các trường
đại học ở Việt Nam.
❖ Lãnh đạo
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
34
Lãnh đạo là người thuộc chủ thể quản trị,
giữ vị trí vạch ra đường lối, mục đích của hệ
thống, khống chế cũng như chi phối hệ thống
(Đoàn Thị Thu Hà & Nguyễn Ngọc Huyền,
2011). Thực tế hiện nay tại các trường đại học
của Việt Nam thì mỗi khoa, mỗi bộ môn được
xem là một đơn vị độc lập nên hầu như việc
khởi xướng, triển khai, thực hiện các hoạt
động chuyên môn đều được nhà trường giao
quyền cho lãnh đạo trực tiếp là các trưởng bộ
môn, trưởng khoa hay trưởng ngành đào tạo
(Trần Thị Thu & Nguyễn Thùy Dung, 2013).
Theo Nguyễn Văn Thắng & Cao Thanh
Phong (2010) thì người lãnh đạo có vai trò
quan trọng trong việc tạo môi trường chia sẻ
và tiếp nhận tri thức của người lao động. Vì
những người lãnh đạo có trình độ cao trong
chuyên môn được coi như những “người thầy”
truyền đạt các tri thức nghề nghiệp cho cấp
dưới của mình (Barry, 1991; Bain & ctg, 2005;
Srivastava & ctg, 2006). Do đó, trình độ và
phong cách quản lý của người lãnh đạo ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động chia sẻ tri thức tại
tổ chức (Phạm Kim Oanh & Nguyễn Văn
Thắng, 2013). Vì vậy, giả thuyết được đề xuất
là:
Giả thuyết H2: Người lãnh đạo trực tiếp có
tác động cùng chiều đến ý định chia sẻ tri thức
với đồng nghiệp của giảng viên tại các trường
đại học ở Việt Nam.
❖ Văn hóa tổ chức
Văn hóa tổ chức đặt cơ sở cho việc hình
thành tính cách cũng như mối quan tâm của
các cá nhân trong tổ chức (Hartnell et al.,
2011). Văn hóa chia sẻ tri thức chính là đặc
trưng nổi bật của văn hóa tổ chức trong lĩnh
vực quản lý tri thức; và những yếu tố mà đơn
vị cần chú trọng để tạo ra văn hóa chia sẻ tri
thức gồm có: tầm nhìn của tổ chức, tuyên bố
sứ mệnh, và hệ thống thông tin (Campbell,
2009).
Văn hóa tổ chức đã được các nhà thực tiễn
lẫn học thuật đánh giá là yếu tố đứng đầu trong
danh sách các trở ngại cản trở quá trình
chuyển giao tri thức (Ruggles, 1998; McCann
& Buckner, 2004). Để có thể giảm bớt các rào
cản trong quá trình trao đổi tri thức cả từ cấp
độ cá nhân lẫn cấp độ tổ chức thì nhà lãnh đạo
cần gây dựng một văn hóa tổ chức chú trọng
đến sự chia sẻ tri thức (Moradi & ctg, 2012).
Do vậy, giả thuyết được đề xuất là:
Giả thuyết H3: Văn hóa tổ chức có tác
động cùng chiều đến ý định chia sẻ tri thức với
đồng nghiệp của giảng viên tại các trường đại
học ở Việt Nam.
❖ Niềm tin
Niềm tin luôn được xác định là một trong
những yếu tố quan trọng đối với việc học tập
lẫn nhau giữa các cá nhân trong tổ chức
(Davenport & Prusak, 1998), bởi vì chỉ khi có
niềm tin thì con người mới sẵn lòng chia sẻ tri
thức cũng như tiếp nhận tri thức từ người khác
(Mooradian & ctg, 2006). Theo Levin & ctg
(2003) thì sự tin tưởng giữa người chia sẻ và
người thu nhận tri thức, hay còn gọi là niềm
tin trong giao tiếp là yếu tố tiên quyết cho việc
chia sẻ tri thức đạt hiệu quả.
Niềm tin trong giao tiếp bao gồm hai thành
phần là niềm tin cảm tính và niềm tin nhận
thức (Lewis & Weigert, 1985). Trong đó, niềm
tin nhận thức là sự tin tưởng dựa trên năng lực
của đối tác; còn niềm tin cảm tính được hình
thành từ sự chăm sóc và quan tâm lẫn nhau.
Nghiên cứu của Holste & Fields (2010) khi
tiến hành điều tra tại các trường học và doanh
nghiệp lớn ở Mỹ, cho rằng cả niềm tin cảm
tính và niềm tin nhận thức đều ảnh hưởng đến
ý định chia sẻ tri thức của cá nhân với đồng
nghiệp. Ngược lại, các nghiên cứu ở Trung
Quốc khẳng định, chỉ có niềm tin cảm tính
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
35
mới thực sự là yếu tố gây ảnh hưởng; vì điều
khiến cho người nắm giữ tri thức cảm thấy tin
tưởng để chia sẻ tri thức chính là tính chân
thành và trung thực, chứ không phải là năng
lực của người tiếp nhận tri thức (Chua & ctg,
2008; Huang & ctg, 2011).
Việt Nam là quốc gia mà nền văn hóa có
nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc nên
trong bài viết này, tác giả lựa chọn kế thừa
quan điểm “niềm tin cảm tính là yếu tố ảnh
hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức với đồng
nghiệp của đội ngũ giảng viên tại trường đại
học”. Vì vậy, giả thuyết được đề xuất là:
Giả thuyết H4: Niềm tin cảm tính có tác
động cùng chiều đến ý định chia sẻ tri thức với
đồng nghiệp của giảng viên tại các trường đại
học ở Việt Nam.
❖ Cam kết với tổ chức
Cam kết tổ chức xuất hiện khá nhiều trong
các nghiên cứu ở nước ngoài về hành vi chia
sẻ tri thức tại trường đại học (See Kwong Goh
& Manjit Singh Sandhu, 2013; Demirel &
Goc, 2013; Rocha & ctg, 2008; Neyestani &
ctg, 2013; Chiang & ctg, 2011) nhưng lại
không có mặt trong các nghiên cứu cùng chủ
đề tại Việt Nam (Bùi Thị Thanh, 2014;
Nguyễn Thị Hằng Nga & Nguyễn Kim Nam,
2016). Trong khi theo Nonaka & ctg (2001),
chỉ có sự cam kết với tổ chức mới khiến các cá
nhân chuyên tâm vào việc chia sẻ và sáng tạo
tri thức. Hoặc, chỉ ở những cá nhân có sự cam
kết cao với tổ chức thì mới có thái độ tích cực
đối với các nhiệm vụ liên quan đến lợi ích của
tập thể như thực hiện chia sẻ tri thức, chuyển
giao tri thức (See Kwong Goh & Manjit Singh
Sandhu, 2013).
Cam kết với tổ chức được định nghĩa là
trạng thái tâm lý của nhân viên với tổ chức và
có tác động đến nguyện vọng ở lại tổ chức
(Meyer & Allen, 1991). Sự cam kết luôn được
thừa nhận là yếu tố quan trọng để thấu hiểu
hành vi chia sẻ tri thức của cá nhân với tổ chức
(Van den Hooff & De Leeuw van Weenen,
2004). Bởi vì, cam kết với tổ chức ảnh hưởng
rất lớn trong việc thúc đẩy các nhà khoa học
chia sẻ tri thức một cách tự nhiên, qua đó tăng
cường sự tham gia của họ vào các hoạt động
liên quan đến chia sẻ tri thức tại tổ chức
(Hislop, 2003). Do đó, giả thuyết được đề xuất
là:
Giả thuyết H5: Cam kết với tổ chức có tác
động cùng chiều đến ý định chia sẻ tri thức với
đồng nghiệp của giảng viên tại các trường đại
học ở Việt Nam.
Hình 2: Khung phân tích đề xuất
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
36
6. Kết luận
Bài viết này được thực hiện với mục tiêu
nhằm khắc phục hạn chế của các nghiên cứu
đã thực hiện trước đây về chủ đề này bằng
cách thực hiện đồng thời ba công việc sau: tích
hợp cả ba hướng tiếp cận trên khía cạnh lý
thuyết; kế thừa các nhân tố hội tụ của những
nghiên cứu trước; và tham khảo bối cảnh thực
tiễn đối với hoạt động chia sẻ tri thức của
giảng viên với đồng nghiệp tại các trường đại
học ở Việt Nam hiện nay. Trên các cơ sở đó,
đề xuất khung phân tích đối với hành vi chia
sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại
các trường đại học ở Việt Nam hiện nay gồm
các nhân tố ảnh hưởng được xác định gồm có:
(1) hệ thống khen thưởng, (2) người lãnh đạo
trực tiếp, (3) văn hóa tổ chức), (4) niềm tin
cảm tính, và (5) cam kết với tổ chức.
Các hướng nghiên cứu có thể tiếp tục được
triển khai trong tương lai cho bài viết này là:
- Thực hiện các nghiên cứu định lượng
cho trường hợp các trường đại học ở Huế nói
riêng và Việt Nam nói chung để kiểm định sự
phù hợp cũng như tính chuẩn hóa của khung
phân tích đề xuất. Qua đó, xác định được các
yếu tố ảnh hưởng cũng như mức độ tác động
của chúng, nhằm thiết kế các giải pháp giúp
đẩy mạnh hoạt động chia sẻ tri thức tại các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay;
- Một số yếu tố ảnh hưởng trong khung
phân tích đề xuất có thể có sự tác động lẫn
nhau. Ví dụ, niềm tin trong một số trường hợp
được cho là yếu tố cần thiết để tạo nên sự cam
kết tổ chức (Costa & Anderson, 2011); hay các
khuôn mẫu lãnh đạo khác nhau sẽ tạo ra các
kiểu văn hóa tổ chức khác nhau (Bass &
Avolio, 1993).
Tài liệu tham khảo
1. Al-Alawi, A.I., Al-Marzooqi, N.Y., Mohammed, Y.S. (2007). Organizational culture and
knowledge sharing: critical success factors. Journal of Knowledge Management, vol.11, 22-42.
2. Alam, S., Abdullah, Z., Ishak, N., Zain, Z. (2009). Assessing knowledge sharing
behaviour among employees in SMEs: An empirical study. International Business Research,
vol.2.
3. Ali Jolaee, A., Nor, K.M, Khani, N., Yusoff, R.M. (2014). Factors affecting knowledge
sharing intention among academic staff. International Journal of Educational Management,
Vol.28, 413-431.
4. Ajzen, I.(1991). The theory of planned behavior. Journal of Organizational Behavior and
Human Decision Processes, vol.50, 179-211.
5. Ajzen, I. & Fishbein, M. (1975). Belief, Attitude, Intention, and Behavior: An
introduction to Theory and Research. Reading, MA: Addison-Wesley.
6. Bain, P.G., Mann, L., Atkins, L., Dunning, J. (2005). R&D project leaders: roles and
responsibilities. Leadership, Management, and Innovation in R&D project teams, 49-70,
Westport, CT: Praeger.
7. Bandura, A. (1989). Social cognitive theory. In R.Vasta (Ed.), Annals of child
development. Vol.6. Six theories of child development, (pp. 1-60). Greenwich, CT: JAI Press.
8. Barry, D. (1991). Managing the bossless team: Lesson in distributed leadership.
Organizational Dynamics, vol.20, 31-47.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
37
9. Bass, B.M.& Avolio, B.J.(1993). Transformational leadership: A response to critiques. in
M.M Chemers and R.Ayman (eds). Leadership Theory and Research: Perspectives and
Directions. NewYork: Academic Press.
10. Blau, P.M. (1964). Exchange and power in social life. NY: John Wiley & Sons
11. Bock, G.W.& Kim, Y.G. (2002). Breaking the myths of reward: An exploratory study of
attitudes about knowledge sharing. The Journal of Information Resource Management, vol.15,
14-21.
12. Bock, G.W., Zmud, R.W., Kim, Y.G., Lee, J.N. (2005). Behavioral intention formation in
knowledge sharing: examining the roles of extrinsic motivators, social-psychological forces, and
organizational climate. MIS Quarterly, vol.29, 87-111.
13. Bùi Thị Thanh (2014). Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp
của giảng viên trong các trường đại học. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 199, 71-79.
14. Campbell, M.J. (2009). Identification of organizational cultural factors that impact
knowledge sharing. University of Oregon.
15. Chiang, H., Han, T., Chuang, J. (2011). The relationship between high-commitment
HRM and knowledge sharing behavior and its mediators. International Journal of Manpower,
vol.32, 604-622.
16. Chong, C.W., Yuen, Y.Y, Gan, G.C., (2014). Knowledge sharing of academic staff: A
comparison between private and public universities in Malaysia. Library Review, vol.63, 203-
223.
17. Chua, R.Y.J., Ingram, P., Morris, M.W. (2008). From the head and the heart: locating
cognition-and affect-based trust in managers’ professional networks. Academy of Management
Journal, vol.51, 436-452.
18. Constant, D., Kiesler, S., Sproull, L.(1994). What’s mine is ours, or is it? A study of
attitude about information sharing. Information Systems Research, vol.5, 400-422.
19. Costa, A.C.& Anderson, N.(2011). Measuring trust in teams: Development and
validation of multifaceted measures of formative and reflective indicators of team trust.
European Journal of Work and Organizational Psychology, vol.20, 119-154.
20. Davenport, T.H., & Prusak, L. (1998). Working knowledge: How organizations manage
what they know. Boston: Havard Business School Press.
21. Demirel, Y. & Goc, K. (2013). The impact of organizational commitment on knowledge
sharing. 1st Annual International Interdisciplinary Conference, AIIC, 24-26 April, Azores,
Portugal.
22. Dokhtesmati , M. & Bousari, R.G. (2013). Knowledge sharing in Iranian academic
institutions: Meata analysis approach. Procedia- Social and Behavioral Sience, vol.73, 383-387.
23. Đoàn Thu Hà & Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2011). Giáo trình Quản trị học, NXB Tài
chính.
24. Fullwood, R., Rowley, J., Delbridge, R. (2013). Knowledge sharing amongst academics
in UK universities. Journal of Knowledge Management, vol.17, 123-136.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
38
25. Goh, S.K. & Sandhu, M.S. (2013). Knowledge sharing among Malaysian academics:
Influence of affective commitment and trust. Electronic Journal of Knowledge Management,
Vol.11, 38-48.
26. Gupta, A.K. & Govindarajan, V. (2000). Knowledge management’s social dimension:
lessons from Nucor Steel. MIT Sloan Management Review, vol.42, 71-80.
27. Gupta,B. (2008). Role of personality in knowledge sharing and knowledge acquisition
behaviour. Journal of the Indian Academy of Applied Psychology, vol.34, 143-149.
28. Hartnell, C.A., Ou, A.Y., Kinicki, A. (2011). Organizational culture and organizational
effectiveness: a meta-analytic investigation of the competing values framework’s theoretical
suppositions. Journal of Applied Psychology, vol.96.
29. Hislop, D. (2003). Linking human resource management and knowledge management via
commitment: A review and research agenda. Employee Relations, Vol.25, 182-202.
30. Holste, J.S & Fields, D. (2010). Trust and tacit knowledge sharing and use. Journal of
Knowledge Management, vol.14, 128-140.
31. Huang, Q., Davison, R.M., and Gu, J. (2011). The impact of trust, guanxi orientation and
face on the intention of Chinese employees and managers to engage in peer-to-peer tacit and
explicit knowledge sharing. Information Systems Journal, vol.21, 557-577.
32. Jain, K.M., Manjit Signh Sandhu, M.S., Sidhu, G.K. (2007). Knowledge sharing among
academic staff: A case study of Business Schools in Klang Valley, Malaysia. 2nd International
Borneo Business Conference, Malaysia.
33. Jonassen, D.H., Davidson, M., Collins, C., Campbell, J., Haag, B.B. (1995).
Constructivism and computer-mediated communication in distance education. The American
Journal of Distance Education, vol.9, 7-26.
34. Lee, C.K. & Hawamdeh, S. (2002). Factors impacting knowledge sharing. Journal of
Information and Knowledge Management, vol.1, 49-56.
35. Levin, D.Z., Cross, R., Abrams, L.C., Lesser, E.L. (2003). Nurturing interpersonal trust
in knowledge sharing networks. Academy of Management Executive, vol.17, 64-76.
36. Lewis, J.D. & Weigert, A. (1985). Trust as a social reality. Social Forces, vol.63, 967-
985.
37. Lin, H.F. (2011). Antecedents of the stage-based knowledge management evolution.
Journal of Knowledge Management, vol.15, 136-155.
38. McCann, J.E. & Buckner, M. (2004). Strategically integrating knowledge management
initiatives. Journal of Knowledge Management, vol.8, 47-63.
39. Meyer , J.P.& Allen, N.J. (1991). A three-component conceptualization of organizaitonal
commitment. Human Resource Management Review, vol.1, 61-89.
40. Moradi, E., Saba, A., Azimi, S., Emami, R. (2012). The relationship between
organizational culture and knowledge management. International Journal of Innovative Ideas,
vol.12, 30-46.
41. Mooradian, T., Renzl, B., Matzler, K. (2006). Who trusts? Personality, Trust and
knowledge sharing. Management Learning Journal, vol.37, 523-540.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
39
42. Mzoughi, N., Bouhlel, O., Ghachem, M.S., Negra, A. (2010). Online purchase intention.
International Journal of e-Business management, vol.4.
43. Neyestani, M., Piran, M., Nasabi, N.A., Nosrati, K., Maidanipour, K., (2013). The
necessity of organizational commitment for knowledge sharing case study : Shiraz university of
Medical Sciences. Journal of sociological research, vol.4, 162-171.
44. Nguyễn Thị Hằng Nga & Nguyễn Kim Nam (2016). Ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa
tổ chức đến chia sẻ tri thức tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Những tư tưởng kinh tế, quản trị hiện đại và khả năng vận
dụng khi Việt Nam tham gia AEC và TPP.Chủ đề: Những tư tưởng quản trị hiện đại, 925-936,
thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9.
45. Nguyễn Văn Thắng & Cao Thanh Phong (2010). Cơ chế chia sẻ tri thức và hoạt động của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số
tháng 6.
46. Nonaka, I., Teece, D.J., (2001). Research directions for knowledge management. In
Managing Industrial Knowledge: Creation, Transfer and Utilizations. London: SAGE
Publications.
47. Nonaka, I. & Tekeuchi, H. (1995). The knowledge creating company: How Japanese
companies create the dynamics of innovation. Oxford University Press.
48. Nordin, N.A., Daud, N., Osman, W.U.K.M. (2012). Knowledge sharing among
academic staff at a public higher education institution in Malaysia. International Journal of
Social, Behavioral, Educational, Economic, Business and Industrial Engineering, vol.6, 3415-
3420.
49. Olson, J.M. & Zanna, M.P. (1993). Attitudes and attitude change. Annual Review of
Psychology, vol.44, 117-154.
50. Park, H., Ribiere, V., Schulte, W. (2004). Critical attributes of organizational culture that
promote knowledge management implementation success. Journal of Knowledge Management,
vol.8, 106-117.
51. Phạm Kim Oanh & Nguyễn Văn Thắng (2013). Fosterring knowledge sharing in an
organization the case of Petro Vietnam construction (PVC) Jont Stock Coporation.
Internationalconference: Knowledge management in transition economy of Vietnam, August
2013.
52. Quinn, J.B., Anderson, P., & Finkelstein, S. (1996). Managing professional intellect:
Making the most of best. Havard Business Review, vol.74, 71-80.
53. Rocha, F., Cardoso, L., Tordera, N. (2008). The importance of organizational
commitment to knowledge management. Comportamento Organizacional Egesta, vol.14, 211-
232
54. Ruggles, R. (1998). The state of notion: Knowledge management in practice. California
Management Review, vol.40, 80-89.
55. Sajeva, S. (2014). Encouraging knowledge sharing among employees: how reward
matters. Journal of Social and Behavioral Sciences, vol.156, 130-134.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
40
56. Sheppard, B.H., Hartwick, J., Warshaw, P.R. (1988). The theory of reasoned action: A
meta-analysis of past research with recommendations for modifications and future research. The
Journal of Consumer Research, vol.15, 325-343.
57. Srivastava, A., Bartol, K.M., Locke, E.A. (2006). Empowering leadership in management
teams: Effects on knowledge sharing, efficacy, and performance. Academy of Management
Journal, vol.49, 1239-1251.
58. Suhaimee, S., Abu Bakar, A.Z., Alias, R.A. (2006). Knowledge sharing culture in
Malaysian public institution of higher education: An overview. In Proceedings of the
Postgraduate Annual Research Seminar, 354-359.
59. Sutton, M. (2006). Knowledge citizen’s approach to knowledge sharing, rewards and
incentive. South Arfican Journal of Information Management.
60. Tan, C.N.L., & Ramayah, T. (2014). The role of motivators in improving knowledge
sharing among academics. Information Research: An International Electronic Journal, vol.19.
61. Trần Cao Sơn ( 2014). Tri thức khoa học trẻ ở Việt Nam hiện nay: thách thức và triển
vọng. Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 2, 62-72.
62. Trần Thị Thu & Nguyễn Thùy Dung (2013). Lãnh đạo, cơ chế chia sẻ tri thức và động
lực làm việc của giảng viên. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số tháng 08, 6-12.
63. Van den Hooff, B. & De Leeuw van Weenen, F. (2004). Knowledge sharing in context:
The influence of organizational commitment, communication climate and CMC use on
knowledge sharing. Journal of Knowledge Management, vol.8, 117-130.
64. Yun, S., Takeuchi, R., & Liu, W. (2007). Employee self-enhancement motives and job
performance behaviors: investigating the moderating effects of employee role ambiguity and
managerial perceptions of employee commitment. The Journal of applied psychology, vol.92,
745-756.
65. Ziaei, S., Chalak, A.M., Nafei, R. (2014). A survey of knowledge sharing among the
faculty members of Iranian Library and Information Science Departments. Library Philosophy
and Practice (e-journal). 1063.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7_7337_2141138.pdf