Các mô hình nhà nước liên bang trong lịch sử nước Đức trước thống nhất quốc gia năm 1871

Tài liệu Các mô hình nhà nước liên bang trong lịch sử nước Đức trước thống nhất quốc gia năm 1871: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 94 CÁC MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC LIÊN BANG TRONG LỊCH SỬ NƯỚC ĐỨC TRƯỚC THỐNG NHẤT QUỐC GIA NĂM 1871 The federal state models in German history prior to national unification of 1871 ThS.NCS. Nguyễn Mậu Hùng(1), TS. Phạm Xuân Vũ(2) (1)Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế (2)Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Lịch sử nước Đức thế kỷ XIX thực chất là lịch sử của các nỗ lực tìm kiếm một phương thức tổ chức cộng đồng phù hợp cho các bên liên quan trên con đường tiến lên thống nhất của các nhóm cư dân nói tiếng Đức ở Trung Âu. Trong tiến trình đó, nước Đức đã trải qua 4 hình thức thể chế liên bang khác nhau trước khi thống nhất hoàn toàn vào năm 1871, gồm: Đế quốc Thần thánh La Mã (962-1806), Liên bang sông Rhine (1806-1813), Liên bang Đức (1815-1866), và ...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các mô hình nhà nước liên bang trong lịch sử nước Đức trước thống nhất quốc gia năm 1871, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 94 CÁC MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC LIÊN BANG TRONG LỊCH SỬ NƯỚC ĐỨC TRƯỚC THỐNG NHẤT QUỐC GIA NĂM 1871 The federal state models in German history prior to national unification of 1871 ThS.NCS. Nguyễn Mậu Hùng(1), TS. Phạm Xuân Vũ(2) (1)Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế (2)Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Lịch sử nước Đức thế kỷ XIX thực chất là lịch sử của các nỗ lực tìm kiếm một phương thức tổ chức cộng đồng phù hợp cho các bên liên quan trên con đường tiến lên thống nhất của các nhóm cư dân nói tiếng Đức ở Trung Âu. Trong tiến trình đó, nước Đức đã trải qua 4 hình thức thể chế liên bang khác nhau trước khi thống nhất hoàn toàn vào năm 1871, gồm: Đế quốc Thần thánh La Mã (962-1806), Liên bang sông Rhine (1806-1813), Liên bang Đức (1815-1866), và Liên bang Bắc Đức (1866-1871). Cả 4 hình thức tổ chức nhà nước liên bang này đều có những đóng góp nhất định cho tiến trình thống nhất nước Đức (1848 – 1871) nói riêng và việc giải quyết các vấn đề nước Đức thế kỷ XIX nói chung. Tuy nhiên, chỉ có Đế quốc Thần thánh La Mã và Liên bang Đức mang tính quốc gia dân tộc cho toàn thể các cư dân nói tiếng Đức, trong khi hai thể chế còn lại chỉ có tính khu vực. Từ khoá: Đế quốc Thần thánh La Mã, Liên bang sông Rhine, Liên bang Đức, Liên bang Bắc Đức, quá trình thống nhất nước Đức. Abstract The nineteenth-century German history is actually the history of efforts in search for a suitable form of community organization for related parties on the road to unification of the German-speaking communities in Central Europe. In that process, the Germans underwent four different forms of federal constitution before being fully unified in 1871, including the Holy Roman Empire (962-1806), the Confederation of the Rhine (1806-1813), the German Confederation (1815-1866), and the Nothern German Confederation (1866-1871). All four forms of federal state organization mentioned above have certainly contributed to the unification of Germany (1848-1849) in particular and the process of resolving the problems of the nineteenth-century German in general. However, only the Holy Roman Empire and the German Confederation were nationalized for all German-speaking residents, while the two remaining institutions were only characterized by regional nature. Keywords: Holy Roman Empire, The Confederation of the Rhine, The German Confederation, The Northern German Confederation, the unificaiton of Germany. Email: vuqub@yahoo.com.vn NGUYỄN MẬU HÙNG - PHẠM XUÂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 95 1. Đặt vấn đề Quá trình thống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX là sản phẩm của một loạt các nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau. Quá trình này diễn ra từ các nhóm cư dân nói tiếng Đức riêng rẽ thành một tổ chức liên bang của các nhà nước tiểu bang (Staatenbund) đã phát triển trong một thời gian dài thông qua các liên minh cả chính thức lẫn không chính thức giữa các nhà cai trị hoàng tộc của các vương triều phong kiến. Tuy nhiên, lợi ích cục khác nhau của các bên tham gia đã cản trở quá trình thống nhất nước Đức trong gần một thế kỷ thử nghiệm mang tính độc đoán, bắt đầu từ thời kỳ của các cuộc chiến tranh chống Napoléon và kết thúc sau cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871). Trong quá trình lịch sử đó, cộng đồng các cư dân nói tiếng Đức đã trải qua bốn hình thức nhà nước liên bang với các quy mô và mức độ khác nhau. Cùng với sự tan rã của Đế quốc Thần thánh La Mã (962-1806) là sự ra đời của Liên bang sông Rhine (1806-1813). Sau Hội nghị Viên năm 1815, Liên bang Đức (1815-1866) do Áo đứng đầu được thành lập đã cùng với các nước lớn đặt ra mục tiêu duy trì hoà bình và ổn định ở Trung Âu. Tuy nhiên, qua cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 nó đã sụp đổ và mở đường cho sự ra đời của Liên bang Bắc Đức (1866-1871). Có thể nói Đế chế Đức năm 1871 chính là sự kế thừa của tất cả các hình thức thể chế liên bang tiền thân nói trên ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong số bốn thể chế liên bang đó, Liên bang sông Rhine (1806-1813) và Liên bang Bắc Đức (1866-1971) là những giải pháp mang tính tạm thời của một lực lượng chính trị đơn phương, trong khi Đế quốc Thần thánh Rome và Liên bang Đức (1815-1866) không chỉ mang tính quốc gia dân tộc mà còn là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của các bên liên quan. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu sứ mệnh lịch sử của hai thể chế liên bang mang tính quốc gia dân tộc trong quá trình giải quyết vấn đề nước Đức thế kỷ XIX. 2. Các hình thức nhà nước liên bang tiền thân của đế chế Đức năm 1871 2.1. Đế quốc Thần thánh La Mã Lịch sử hiện đại của nước Đức bắt đầu gắn với sự lụi tàn của Đế quốc Thần thánh La Mã của dân tộc Đức năm 1806, sự ra đời và phát triển của Liên bang Đức (1815-1866) và cùng với đó là sự phát triển liên tục của chủ nghĩa dân tộc Đức. Mặc dù Đế quốc Thần thánh La Mã được xem là đế chế đầu tiên trong lịch sử lập quốc của người Đức, nhưng sự chia cắt của các khu vực vì các yếu tố địa lý đã dẫn đến một kết quả không thể khác được, chính là sự phát triển của những yếu tố có bản sắc khác biệt giữa các khu vực và cộng đồng về tôn giáo, ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá trong một thời gian dài. Trước năm 1806, các cộng đồng nói tiếng Đức ở Trung Âu bao gồm hơn 300 thực thể chính trị, hầu hết trong số họ đều là thành viên của Đế quốc Thần thánh La Mã hoặc ít nhất cũng là các vùng lãnh thổ rộng lớn thuộc quyền thừa kế của nhà Habsburg. Các thực thể chính trị này có quy mô và tầm ảnh hưởng khác nhau từ nhóm dân cư thuộc những vùng đất nhỏ và phức tạp của các gia đình hoàng tộc thứ yếu như Hohenlohe đến các nhóm dân cư, vùng lãnh thổ được phân định rõ ràng, có quy mô lớn như các Vương quốc Bavaria, Vương quốc Phổ. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 96 Quyền kiểm soát các thực thể chính trị này cũng rất khác nhau; chúng bao gồm các thành phố tự do trực thuộc đế chế có tầm ảnh hưởng khác nhau như thành phố Augsburg hùng mạnh một bên và bên kia là một Weil der Stadt nhỏ bé. Trong số các thực thể chính trị nói tiếng Đức ở Trung Âu đương thời còn có các lãnh thổ của giáo hội như Tu viện giàu có của Reichenau và Tổng giám mục quyền uy của Cologne. Ngoài ra, còn có thể chế mang tính vương triều như Vương quốc Württemberg. Những vùng đất này hoặc một phần của các vùng đất này1 đã tạo thành lãnh thổ của Đế quốc Thần thánh La Mã có những lúc bao gồm hơn 1.000 thực thể khác nhau trong thực tế. Từ thế kỷ XV trở đi, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, các lãnh chúa có quyền bầu cử của Đế quốc Thần thánh La Mã thường chọn những người đứng đầu nhà Habsburg của Áo giữ danh hiệu Hoàng đế của Đế quốc Thần thánh La Mã [2, tr. 221]. Trong các nhà nước nói tiếng Đức lúc bấy giờ, cơ chế hành chính và luật pháp của Đế quốc Thần thánh La Mã là một công cụ hữu hiệu cho việc giải quyết các tranh chấp giữa nông dân và chủ đất cũng như giữa các cơ quan pháp lý. Thông qua việc tổ chức các nhóm quyền lực mang tính hoàng tộc, các nhà nước có nhiều cơ hội thống nhất nguồn lực vốn có của mình thành liên minh để tăng cường xây dựng những lợi ích mang tính khu vực và tổ chức liên minh, bao gồm cả hợp tác về kinh tế và bảo vệ quân sự [5]. Sau cuộc Chiến tranh Liên minh lần thứ hai (1799-1802), các hiệp ước Lunéville (1801), Amiens (1802) cùng với các phương án năm 1803 đã chuyển phần lớn lãnh thổ của Đế quốc Thần thánh La Mã sang các nhà nước mang tính vương triều và các vùng lãnh thổ của giáo hội đã được thế tục hoá, nhiều thành phố trực thuộc Đế quốc bị biến mất khỏi sân khấu chính trị và pháp lý của châu Âu. Cư dân sống trong các vùng lãnh thổ này buộc phải giành sự trung thành và sự phục tùng của họ cho các công tước và các vị vua thế quyền hơn là cho các thế lực thần quyền đơn thuần. Quá trình chuyển đổi này làm cho lãnh thổ của các Vương quốc Württemberg và Baden được mở rộng thêm một cách đáng kể [8, tr. 70]. Tuy có sự khác biệt về luật pháp, hành chính và chính trị giữa các nhà nước thành viên khi Đế quốc Thần thánh La Mã sụp đỗ, nhưng người dân ở các khu vực nói tiếng Đức của Đế chế cũ có chung một truyền thống pháp lý, ngôn ngữ, văn hoá. Mặt khác, Chủ nghĩa tự do châu Âu bấy giờ cũng đã tạo nên một nền tảng trí thức cơ bản cho sự thống nhất của các tiểu bang bằng cách thách thức các mô hình quân chủ và chuyên chế tuyệt đối của các phương thức tổ chức xã hội và chính trị cổ đại [9, tr. 49]. Biểu hiện về phương diện này chính là việc người Đức thường nhấn mạnh tầm quan trọng của truyền thống, giáo dục, và sự thống nhất ngôn ngữ của các dân tộc trong một khu vực địa lý hơn là quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế đơn thuần. Sau thất bại của liên quân phong kiến châu Âu chống Pháp lần thứ ba tại Jena và Auerstedt, Napoléon đã ký Hiệp ước Pressburg chính thức giải thể Đế quốc Thần thánh La Mã [2, tr. 221; 8, tr. 70]. Ngày 6 tháng 8 năm 1806, Hoàng đế Francis II của Đế quốc Thần thánh La Mã chính thức tuyên bố thoái vị. Nhà nước liên bang đầu tiên của cộng đồng các cư NGUYỄN MẬU HÙNG - PHẠM XUÂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 97 dân nói tiếng Đức ở Trung Âu chính thức trở thành hiện thực và dư âm của nó vẫn còn vọng lại trong các phương thức tổ chức cộng đồng mang tính liên bang về sau của người Đức. Tóm lại, trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, về phương diện địa chính trị, chưa có một nước Đức thống nhất mà chỉ có các vương quốc, đại công quốc, công quốc, và khu tự trị do các cư dân nói tiếng Đức sinh sống. Mỗi thực thể chính trị như thế đều được cai trị bởi một nhà chức trách độc lập với một bộ máy nhà nước được tổ chức bằng những phương thức khác nhau nhưng đều có thể gọi là nhà nước với các trình độ phát triển rất khác nhau. Tuy nhiên, có một dòng chảy tự nhiên âm thầm đang hướng đến cảm giác quốc gia và hướng tới một sự liên minh của những người Đức vào trong một quốc gia vĩ đại, được cai trị bởi một người đứng đầu chung như một thực thể quốc gia thực tế [4]. 2.2. Liên bang Đức (1815-1866) Trong các năm từ 1806 đến 1813, Napoléon đã tổ chức các nhà nước Đức ở phía Tây Nam vào trong Liên bang sông Rhine, nhưng liên bang này bị giải thể dần dần trong các thất bại của ông từ năm 1812 đến 1815. Sau thất bại của Napoléon tại Waterloo năm 1815, châu Âu trở lại với trật tự cũ của các thể chế phong kiến của thời tiền cách mạng dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Hội nghị Viên (1814-1815) của các cường quốc chính là sự khởi đầu cho một trật tự mới của châu Âu cho đến khi Thế chiến thứ nhất kết thúc. Tiến trình lịch sử của nước Đức trong khoảng thời gian đó và quá trình thống nhất nước Đức (1848-1871) nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những quyết định cũng như cái trật tự mà Hội nghị này mang lại. Liên bang Đức (1815-1866) được thiết lập để đáp ứng an ninh chống lại các mối nguy hiểm từ sự tấn công của các lực lượng bên ngoài cũng như cách mạng từ bên trong. Và như một công cụ để cân bằng quyền lực giữa các khu vực, Liên bang Đức (1815-1866) tỏ ra quá mạnh để thu hút tấn công và quá yếu để cảnh báo các nước châu Âu láng giềng. Trên phương diện này, những người chiến thắng tại Hội nghị Viên đã hình thành một liên minh chính trị mang đến hoà bình và ổn định cho châu Âu trong hơn một thế hệ thời hậu kỳ kỷ nguyên Napoléon2. Liên bang Đức (1815-1866) được thành lập dựa trên cơ sở Đế quốc Thần thánh La Mã tan rã năm 1806 là một liên minh thành lập theo điều 9 của Hiệp ước Viên ngày 8 tháng 6 năm 1815 và được củng cố thêm qua một Hiệp ước liên bang khác ngày 15 tháng 5 năm 1820. Các nhà nước tham gia Liên bang Đức (1815-1866) theo hiệp ước 1820 gồm có [1, tr. 480]3: SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 98 1 Đế chế Áo (bao gồm cả ngôi vương của Bohemia, Bohemia, Moravia, và vùng Sê- lơ-din (Silesia) của Áo, các vùng đất của Áo như Áo, Carinthia, Carniola, Littoral, Salzburg, Styria, Tyrol, và Vorarlberg). 2 Phổ 22 Anhalt-Dessau 3 Bayern 23 Anhalt-Bernburg 4 Sachsen 24 Anhalt-Koethen 5 Hanover 25 Schwarzburg-Sondershausen 6 Wuerttemberg 26 Schwarzburg-Rudolstadt 7 Baden 27 Holhenzollern-Hechingen 8 Hessen-Kassel 28 Liechtenstein 9 Hessen-Darmstadt 29 Hohenzollern-Sigmaringen 10 Holstein và Lauenburg (Đan Mạch) 30 Waldeck 12 Luxemburg (Hà Lan) 31 Reuss, dòng trước 12 Brunswick 32 Reuss, dòng sau 13 Meclenburg-Schwerin 33 Schaumburg-Lippe 14 Nassau 34 Lippe-Detmold 15 Saxe-Weimar-Eisenach Hiệp ước năm 1820 cũng bao gồm các thành viên sau trong Liên bang Đức 16 Saxe-Gotha 35 Hessen-Homburg 17 Saxe-Coburg 36 Lübeck 18 Saxe-Meiningen 37 Frankfurt 19 Saxe-Hildburghausen 38 Bremen 20 Mecklenburg-Strelitz 39 Hamburg 21 Holstein-Oldenburg Ngoài các nhà nước Đức truyền thống, còn có một số đại diện khác trong Liên bang Đức (1815-1866) gồm: vua Hà Làn đại diện cho Luxemburg và Limburg còn vua Đan Mạch đại diện cho Holstein, vua Anh đại diện cho Vương quốc Hanover [3]. Năm 1839, Luxemburg được giao lại cho Bỉ, Công quốc Limburg được thành lập và trở thành một thành viên của Liên bang Đức (1815-1866) cho đến năm 1866. Cả Áo và Phổ đều bao gồm các vùng lãnh thổ không nằm trong phạm vi Liên bang Đức (1815-1866). Bốn thành phố tự do - Hamburg, Lübeck, Bremen, và Frankfurt - được phục hồi trở thành các thành viên của Liên bang Đức do Áo làm chủ tịch [3]. Với tư cách là các nhà nước độc lập và có chủ quyền, mỗi thành viên của Liên bang Đức (1815-1866) đều có các chính sách ngoại giao riêng. Quan hệ ngoại giao NGUYỄN MẬU HÙNG - PHẠM XUÂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 99 của các nước này bao gồm quan hệ với các nhà nước nói tiếng Đức trong Liên bang Đức (1815- 1866) và với các nước khác ngoài liên bang. Về cơ bản, các nhà nước Đức thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước khác ngoài các lý do kinh tế và văn hoá thông thường là vấn đề an ninh. Chính vì thế, mỗi nhà nước trong đó hoặc đứng về phe Áo hoặc theo Phổ để tìm kiếm chiếc ô bảo vệ an ninh cho mình. Rất ít nước có khả năng duy trì được nền độc lập của mình một cách toàn vẹn mà không cần có bất cứ mối liên kết nào với các nước lớn. Bộ máy quyền lực có chức năng pháp lý duy nhất của Liên bang Đức (1815-1866) là Nghị viện liên bang (Bundesversammlung hay Bundestag) bao gồm đại biểu của các nhà nước thành viên. Không có đại biểu chủ toạ, đại biểu của Áo thường được giao trọng trách điều khiển nghị viện, nhưng không có các quyền hạn vượt trội ở Frankfurt. Liên bang có thể chấp nhận đại sứ từ các nước khác, nhưng hiếm khi có đại sứ của riêng mình đến đó. Trong cuộc cách mạng (1848-1849), Nghị viện liên bang bị chính các đại biểu của mình giải thể để nhường chỗ cho Quốc hội Quốc gia Frankfurt được bầu từ toàn bộ cử tri hợp lệ của các nhà nước nói tiếng Đức. Nghị viện liên bang được phục hồi năm 1850 theo yêu cầu của Áo và chỉ có thể trở lại hoạt động bình thường từ năm 1851. Mặc dù về danh nghĩa, Liên bang Đức (1815-1866) có một Nghị viện liên bang, nhưng cơ quan này không phải là tập hợp của các nhóm đại biểu mà là một hình thức hội nghị của các đại biểu được cử hoặc chỉ định của các lãnh chúa đang làm chủ các nhà nước thành viên của Liên bang Đức (1815-1866). Mặc dù vậy, các nỗ lực để tái cấu trúc của Nghị viên liên bang cũng có thể xem là một nỗ lực pháp lý trong quá trình thống nhất nước Đức vì nó đại diện cho quyền lực của toàn thể dân tộc. Như đại biểu Georg Rau thừa nhận vào ngày 21 tháng 7 năm 1856 rằng nghị viện liên bang chẳng qua cũng chỉ là một hội nghị của các đại diện chính phủ các nước thành viên của Liên bang Đức (1815- 1866) và chính vì thế quốc gia dân tộc không được đại diện trong quá trình hoạch định chính sách của nghị viện liên bang [11, tr. 118-119]. Sự phát triển của nền kinh tế của cả các tầng lớp giàu có lẫn các tầng lớp khủng hoảng đều cần một hình thức tổ chức cộng đồng mới, trong khi Liên bang Đức (1815-1866) không thể là một phương án thay thế cho cho một nhà nước dân tộc Đức [7, tr. 41]. Chính vì thế, vấn đề dân tộc Đức thế kỷ XIX của giới quý tộc phong kiến chính là việc bảo vệ Liên bang Đức (1815-1866) với sự tồn tại của các ngôi vương [6, tr. 7-8]. Theo quan điểm này, Nghị viện liên bang là đại diện cho vấn đề nước Đức thế kỷ XIX của các vương triều phong kiến, đặc biệt là Vương quốc Phổ và Đế chế Áo [6, tr. 15]. Áo và Phổ là những thành viên lớn nhất của Liên bang Đức (1815-1866), nhưng cả hai đều có những phần lãnh thổ và dân cư không thuộc Liên bang Đức (1815-1866), do chúng vốn không thuộc Đế quốc Thần thánh La Mã trước đây. Cả hai nước này đều có một phiếu trong nghị viện Liên bang Đức (1815-1866). Sáu nước khác cũng có một phiếu tương tự là Bavaria, Saxony, Württemberg, Hessen- Kassel, Baden, và Hessen-Darmstadt. Ba nước thuộc sở hữu của nước ngoài gồm: Holstein thuộc Đan Mạch, Luxemburg thuộc Hà Lan và Hanover thuộc Limburg SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 100 và Anh là chỉ có một phiếu trong nghị viện của Liên bang Đức 1815- 1866. Bốn thành phố tự do gồm: Bremen, Frankfurt, Hamburg, và Lübeck, cũng chỉ có một phiếu trong nghị viện Liên bang Đức (1815-1866). 23 tiểu quốc khác với các danh xưng và chức vụ khác nhau chia nhau 5 phiếu còn lại trong nghị viện Liên bang Đức (1815-1866). Liên bang Đức (1815-1866) ở Trung Âu được thiết kế để trở thành một vùng đệm giữa Pháp, Nga, và Áo-Hung. Không có một cường quốc nào có thể mở rộng lãnh thổ của mình vào khu vực đó mà không có sự phản đối của các cường quốc khác. Tuy nhiên, liên minh lỏng lẻo này được xem là một trong những nguyên nhân chính và nhân tố chủ đạo cản trở quá trình thống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX. Bản Hiến chương của Liên bang Đức (1815- 1866) do các cường quốc châu Âu soạn thảo tại Hội nghị Viên 1815 và thiết chế cân bằng quyền lực của châu Âu được coi là một trong số các yếu tố chống lại quá trình thống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX. Các chi tiết trong bản Hiến chương của Liên bang Đức (1815-1866) cho phép quá nhiều yếu tố bất lợi cho quá trình thống nhất Đức tồn tại. Vì vậy, quá trình thống nhất Đức giữa thế kỷ XIX vì thế gần như không thể chừng nào Liên bang Đức (1815-1866) và các lợi ích mà nó ủng hộ vẫn còn tồn tại. Lãnh thổ của Liên bang lỏng lẻo này không có sự thay đổi đáng kể nào cho đến cuộc Chiến tranh Đan Mạch-Phổ lần thứ hai năm 1864. Kết cục của cuộc chiến này của Phổ đã đưa Schleswig và Holstein về tay người Đức. Sau cuộc Chiến tranh Áo- Phổ năm 1866, Áo tuyên bố rút lui, Phổ tuyên bố giải thể Liên bang Đức (1815- 1866) và thiết lập Liên bang Bắc Đức cùng năm với các chức năng đầy đủ của một nhà nước. Liên bang Bắc Đức (thành lập 1866) dưới sự lãnh đạo của Phổ có 22 nhà nước thành viên phía Bắc sông Main. Tuy nhiên, đây là một bước quá độ và giải pháp tình thế của Phổ trên con đường thống nhất nước Đức (1848-1871) hơn là phương án cuối cùng trong quá trình giải quyết vấn đề nước Đức thế kỷ XIX. 3. Kết luận Lịch sử nước Đức cho đến năm 1871 có thể nói là lịch sử của các nổ lực tìm kiếm một hình thức tổ chức cộng đồng phù hợp cho phần lớn nhóm các cư dân nói tiếng Đức ở Trung Âu. Hình thức tổ chức cộng đồng đầu tiên mang tính liên bang ấy chính là Đế quốc Thần thánh La Mã (962- 1806)4. Sau khi đế chế thứ nhất của người Đức vừa không phải là một đế quốc thần thánh [9, tr. 49] vừa không phải là La Mã tan rã5 Liên bang sông Rhine (1806-1813) ra đời và rồi giải thể dần dần trong các thất bại của Napoléon những năm (1812-1815) [1, tr. 480]. Liên bang Đức (1815-1866) lỏng lẻo và không hiệu quả được thành lập theo điều 9 của Hiệp ước Viên ngày 8 tháng 6 năm 1815 và củng cố thêm qua một hiệp ước khác ngày 15 tháng 5 năm 1820 [1, tr. 480]. Số lượng các nhà nước thành viên của liên minh này giao động từ 38 đến 41 trong những thời điểm khác nhau. Ngoài các nhà nước Đức, vua Hà Lan đại diện cho Luxemburg và Limburg, còn vua Đan Mạch đại diện cho Holstein6. Cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 không chỉ đã loại bỏ Áo ra khỏi các vấn đề nội bộ của người Đức mà còn đưa Phổ lên làm chủ Liên bang Bắc Đức (1866-1871). Cả bốn hình thức tổ chức liên bang nêu trên đều có những đóng góp nhất định trong NGUYỄN MẬU HÙNG - PHẠM XUÂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 101 quá trình thống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX, nhưng chỉ có Đế quốc Thần thánh La Mã và Liên bang Đức (1815-1866) có tính đại diện cho sự thống nhất của toàn thể các cư dân nói tiếng Đức ở Trung Âu, trong khi Liên bang sông Rhine (1806- 1813) và Liên bang Bắc Đức mang tính tình thế và trung gian quá độ cho quá trình thống nhất nước Đức nhiều hơn. Mặc dù vậy, không một hình thức liên bang nào nói trên tỏ ra thoả mãn và đáp ứng được các yêu cầu và đòi hỏi của thời đại cũng như nhu cầu phát triển của tất yếu của người Đức giữa thế kỷ XIX. Chính vì thế, một thể chế mới ra đời là tất yếu đương nhiên và điều đó đã diễn ra năm 1871. Đó cũng là lúc tạm thời khép lại câu chuyện vấn đề nước Đức thế kỷ XIX. Chú thích: 1 Cả nhà Habsburg của Áo và nhà Hohenzollern của Phổ đều có những vùng đất riêng nằm bên ngoài phạm vi lãnh thổ của các cấu trúc chính trị và thể chế chính trị như đã kể ở trên của Đế quốc Thần thánh La Mã. 2 Thực tế không có bất cứ cuộc chiến tranh lớn nào giữa các cường quốc châu Âu trong gần bốn thập kỷ cho đến cuộc Chiến tranh Crưm (1853-1856). 3 Theo Hiệp ước Viena (1815) thì có 34 vương quốc và 4 thành phố tự do. Nhưng theo HU 1820 thì có 39. 4 Mặc dù nó có cái tên là La Mã hoặc Rôma, nhưng thực chất là của người Đức. Trong tiếng Đức nó có tên là Heiliges Roemisches Reich der deutschen Nation. Trong tiếng Anh, nó có tên là Holy Roman Empire of the German Nation. 5 Sau thất bại của Phổ và Nga trong các trận chiến tại Jena và Auerstadt năm 1806, Napoléon đã ký Hiệp ước Pressburg chính thức giải thể Đế quốc Thần thánh La Mã. 6 Năm 1839, Luxemburg được giao lại cho Bỉ, Công quốc Limburg được thành lập và trở thành một thành viên của Liên bang Đức 1815-1866 cho đến năm 1866. TAI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh 1. Heeren, Arnold; Hermann, Ludwig; Talboys, David Alphonso (1873). A Manual of the History of the Political System of Europe and its Colonies, H. G. Bohn, London. 2. Kann, Robert A. (1974). History of the Habsburg Empire: 1526-1918, University of California Press, Los Angeles. 3. Robertson, C. Grant (1915). An historical atlas of modern Europe from 1789 to 1914 with an historical and explanatory text, Oxford University Press, Oxford, in: s (truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2016). 4. The Situation of Germany (1866). The New York Times, July 1. 5. Vann, James Allen (1975). The Swabian Kreis: Institutional Growth in the Holy Roman Empire 1648-1715. Vol. LII, Studies Presented to International Commission for the History of Representative and Parliamentary Institutions, Bruxelles. Tiếng Đức 6. Doeberl, M. (1922). Bayern und die Deutsche Frage in der Epoche des Frankfurter Parlament, München und Berlin, Druck und Verlag von R. Oldenbourg, München. 7. Kropat, Wolf-Arno (1981). Das Ende des Herzogtums Nassau (1850-1866), in: Herzogtum Nassau 1806-1866, Politik - Wirtschaft - Kultur, Eine Ausstellung des Landes Hessen und der Landeshauptstadt Wiesbaden unter der gemeinsamen Schirmherrschaft S.K.H. des Prinzen Henri, SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 102 Erbgroßherzog von Luxemburg, Prinz von Nassau und des Hessischen Ministerpräsidenten Holger Börner, Museum Wiesbaden, 5. April bis 26. July. 8. Mann, Golo (2002). Deutsche Geschichte des 19. und 20. Jahrhunderts, Fischer Taschenbuch Verlag, Frankfurt am Main. 9. Nipperdey, Thomas (1998). Deutsche Geschichte 1800-1866, Bürgerwelt und starker Staat, C. H. Beck, München. 10. Paul, R. (2016). Deutsche Geschichte von 1806 bis 1871, in: westmark.de/Deutsche-Geschichte-1806- 1871.pdf (truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2016. 11. Schüler, Winfried (Hrg.) und Reyer, Herbert (be.) (2010). Nassauische Parlamentsdebatte, Band 2, Revolution und Reaktion 1848-1866, Historische Kommission für Nassau, Wiesbaden. Ngày nhận bài: 22/07/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf87_8274_2214992.pdf
Tài liệu liên quan