Tài liệu Các hình thức tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ thông: 78 Sự kiện - Nhận định Xã hội học số 1 (101), 2008
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
Các hình thức tham nhũng
trong hệ thống giáo dục phổ thông
nguyễn đình cử
Năm 2005, hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam với 780.500 giáo viên,
16.649.200 học sinh giảng dạy và học tập trong 27.227 trường phổ thông với 508.763
lớp học. Ngân sách chi cho giáo dục - đào tạo năm 2007 là 66.770 tỷ đồng (chiếm 20%
trong tổng chi ngân sách nhà nước). Rõ ràng, hệ thống giáo dục phổ thông được quản
lý những nguồn nhân lực, vật lực, tài lực rất lớn. Ngoài ra, hệ thống này còn có thêm
những quyền lực đặc thù, như: Đánh giá, cấp Văn bằng nên cũng khó tránh khỏi vấn
nạn tham nhũng.
Theo kết quả điều tra xã hội học về tham nhũng năm 2005 do Dự án “Nghiên
cứu đấu tranh chống tham nhũng” thuộc Ban Nội chính Trung ương tiến hành,
53.2% cán bộ công chức, 51.83 % cán bộ doanh nghiệp và 39.3 % người dân đánh giá
tham nhũng trong ngành giáo dục từ mức “không ít” đến mức “rất phổ ...
6 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các hình thức tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
78 Sự kiện - Nhận định Xã hội học số 1 (101), 2008
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
Các hình thức tham nhũng
trong hệ thống giáo dục phổ thông
nguyễn đình cử
Năm 2005, hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam với 780.500 giáo viên,
16.649.200 học sinh giảng dạy và học tập trong 27.227 trường phổ thông với 508.763
lớp học. Ngân sách chi cho giáo dục - đào tạo năm 2007 là 66.770 tỷ đồng (chiếm 20%
trong tổng chi ngân sách nhà nước). Rõ ràng, hệ thống giáo dục phổ thông được quản
lý những nguồn nhân lực, vật lực, tài lực rất lớn. Ngoài ra, hệ thống này còn có thêm
những quyền lực đặc thù, như: Đánh giá, cấp Văn bằng nên cũng khó tránh khỏi vấn
nạn tham nhũng.
Theo kết quả điều tra xã hội học về tham nhũng năm 2005 do Dự án “Nghiên
cứu đấu tranh chống tham nhũng” thuộc Ban Nội chính Trung ương tiến hành,
53.2% cán bộ công chức, 51.83 % cán bộ doanh nghiệp và 39.3 % người dân đánh giá
tham nhũng trong ngành giáo dục từ mức “không ít” đến mức “rất phổ biến”. Như vậy,
có thể thấy rằng, trong giáo dục cũng có tham nhũng, kể cả các vụ tham nhũng
nghiêm trọng (trong 4 vụ án "điểm" về tham nhũng được đưa ra xét xử trong năm
2007 có 1 vụ thuộc ngành giáo dục). Ngoài các hình thức tham nhũng có tính chung
trong xã hội hiện nay, do tính đặc thù, hệ thống giáo dục phổ thông cũng có các hình
thức tham nhũng riêng. Dưới đây cố gắng phát hiện và định dạng các hình thức
tham nhũng trong hệ thống này.
1. Các hình thức tham nhũng ngân sách hộ gia đình
1.1. Chạy trường
Như đã nói ở trên, Hệ thống giáo dục phổ thông ở Việt Nam có hàng vạn trường
phổ thông với hàng chục vạn lớp học. Đương nhiên, chất lượng các trường, lớp học này
không như nhau, nhất là so sánh giữa các trường, lớp bình thường với các trường
chuyên, lớp chọn, giữa các trường nội thành, nội thị với các trường ngoại thành, ngoại
thị, nông thôn và miền núi. Ngay trong một trường, các lớp chất lượng cũng khác nhau,
do các giáo viên khác nhau phụ trách! Các bậc phụ huynh, nhất là những người khá giả,
luôn mong muốn cho con học ở trường, lớp tốt. Họ thường cố gắng đạt được mục tiêu.
Nếu không đủ tiêu chuẩn về lực học của con em hay đúng tuyến theo hộ khẩu, thì họ
tìm cách nhờ vả hoặc “chạy” bằng tiền. Một suất học tại trường PTTH Lê Quý Đôn,
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006 có “giá” tới 2000 USD! (xem hộp 1).
Nguyễn Đình Cử
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
79
Hộp 1: Tiêu cực ở trường Lê Quý Đôn (Thành phố Hồ Chí Minh)
Sở Giáo dục - Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh vừa có quyết định kỷ luật cách
chức bà Trần Thanh Vân, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Lê Quý Đôn, Thành
phố Hồ Chí Minh. Với trách nhiệm là người đứng đầu bà Vân đã để xảy ra tiêu cực
tại đơn vị, làm ảnh hưởng đến uy tín nhà giáo, nhà trường và ngành giáo dục
... Theo kết luận thanh tra xác minh đơn tố cáo tiêu cực trong tuyển sinh lớp
10 tại Trường THPT Lê Quý Đôn vào tháng 9 năm 2006, bà Đỗ Thị Thu Hòa - giáo
viên Trường Lê Quý Đôn - đã nhận 2.000 USD của một phụ huynh để “chạy” cho con
phụ huynh này vào Trường Lê Quý Đôn. Vụ việc này đã được ủy ban nhân dân
Thành phố giao cơ quan công an tiến hành điều tra làm rõ. (Lao động, 06/03/2007)
Tất nhiên, chạy trường không chỉ ở trường Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí
Minh mà còn ở nhiều trường, nhiều tỉnh /thành khác đã được báo chí đề cập sôi động
trong năm 2006.
1.2. Chạy điểm
Mỗi năm, ngành giáo dục có đặc quyền đánh giá cho hàng chục triệu học sinh
có đủ điểm lên lớp không? Đủ điểm đầu vào không? (Nhất là chuyển từ PTCS lên
PTTH), đủ điểm vào trường chuyên, lớp chọn không? Có đủ điểm để tốt nghiệp THPT
và cấp văn bằng tốt nghiệp THPT không? Để học lên và để thăng tiến, trong thời đại
ngày nay, nhất thiết phải có văn bằng này. Các học sinh thiếu năng lực hoặc phụ
huynh của họ thường chạy điểm để được lên lớp, được đánh giá tốt hơn hoặc được tốt
nghiệp. Chạy điểm có thể hiểu là dùng tiền, tình, quan hệ thân quen để nâng điểm
thi hoặc điểm tổng kết của học sinh. Vụ chạy điểm tai tiếng nhất trong năm học 2005
- 2006 xảy ra tại tỉnh Bạc Liêu cho thấy một mạng lưới chạy điểm, từ giáo viên đến
tập thể lãnh đạo ngành Giáo dục - Đào tạo của tỉnh và liên quan đến hàng nghìn học
sinh với số tiền lên đến hàng trăm triệu đồng! Do vụ này, 26 cán bộ, giáo viên Sở
Giáo dục - Đào tạo bị đưa ra toà xem xét (xem hộp 2).
Hộp 2: Vụ án "chạy" điểm tại Bạc Liêu: 15 bị cáo được hưởng án treo
Chiều qua 30.11, phiên tòa xét xử vụ án "chạy" điểm của TAND tỉnh Bạc Liêu
đã kết thúc. Hội đồng xét xử đã tuyên bố tất cả 26 bị cáo bị Viện KSND truy tố ra tòa
đều phạm tội, với các nhóm "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ";
"lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi"; "nhận hối
lộ"; "môi giới hối lộ" và "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Trong đó, bị cáo giữ vai trò then chốt trong vụ án là Nguyễn Hoàng Huy bị xử
phạt 10 năm 6 tháng tù. Bị cáo Ngô Đoàn Nguyễn (nguyên Phó Giám đốc Sở Giáo
dục - Đào tạo Bạc Liêu) phạm 2 tội "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công
vụ" và "lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi"
phải chịu mức hình phạt tổng hợp là 4 năm tù..
(Báo Thanh niên, 30/11/2007)
Các hình thức tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ thông
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
80
Cần chú ý rằng, người đưa và người nhận tiền trong các vụ “chạy trường” và
“chạy điểm”, theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đều vi phạm
Luật này.
1.3. Dạy thêm và bắt buộc học thêm
Dạy thêm, học thêm đã có ở Việt Nam từ lâu và hiện nay vẫn còn rất phổ
biến. Cuộc điều tra quốc gia về Vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2003 do
Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật và Tài chính của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) cho thấy: 78%
học sinh thành thị và 60% học sinh nông thôn phải học thêm. Một cuộc điều tra còn
cho thấy, tình trạng học thêm dường như là tuyệt đối đối với một số môn học, được
coi là cơ bản nhất, như: Văn, Toán, Lý, Hóa. (Xem báo Tuổi Trẻ, ngày 10/12/2003).
Cho đến nay, các quan điểm vẫn còn khác nhau, trong đó có ý kiến cho rằng
dạy thêm là một dạng của tham nhũng, với các lý do sau:
1. Đi học thêm cũng là để lấy lòng thầy, cô giáo, "hối lộ hợp pháp" cho thầy, cô
để chạy điểm, chạy lên lớp, vì: “Về nội dung học thêm, 44,2% cho rằng học thêm thực
chất là học kỹ hơn các nội dung đã học trên lớp; 34,7% cho rằng học thêm là... đi làm
bài tập; 10,2% cho rằng học thêm là học những điều thầy cô chưa dạy trên lớp (Kết
quả điều tra nghiên cứu, VietNamNet, 14/07/2004).
2. Đi dạy thêm cũng là một cách bày vẽ để lấy tiền học sinh. Tiếng là “tự nguyện”,
do cha mẹ học sinh viết đơn đề nghị nhưng thực ra là ép buộc học sinh vì mục đích kiếm
tiền thông qua kiểm tra đánh giá kiến thức (Ai không học thêm, điểm sẽ kém). Theo số
liệu điều tra của Trung tâm nghiên cứu cộng đồng, Tổng cục Thống kê và Tổ chức Cứu trợ
nhi đồng Anh công bố, số tiền chi cho học thêm ước tính khoảng 300 triệu USD/năm. Chi
phí trung bình cho một học sinh ở thành phố, thị xã là 425.000 đ/năm (tương đương 27
USD/năm), nông thôn và miền núi là 100.000 đ/năm (khoảng 6 USD/năm) (Báo Tuổi trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh, 16/12/2004). Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh dao động giữa
khoảng 100.000 - 500.000 đ/tháng. Mức 500.000 - 3.000.000 đ/tháng chiếm tỷ lệ 10%. (Kết
quả điều tra nghiên cứu, VietNamNet, 14/07/2004).
3. Do giáo viên dành sức lực, thời gian và kiến thức cho dạy thêm nên dạy
chính không tương xứng với nghĩa vụ, tiền lương được trả.
4. Tại một trường Tiểu học ở Hà Nội, trên 500 học sinh, giáo viên nhận thêm
trung bình một khoảng 800.000đ/tháng, còn lãnh đạo là 4.000.000 đ/tháng - từ dạy
thêm. Tại một trường THCS ở Thành phố Hồ Chí Minh có 997 học sinh, giáo viên
nhận 200.000đ/ tháng cho 10 tiết dạy, còn lãnh đạo nhận đến chục triệu đồng/ tháng.
(Lao Động 21/10/2005).
5. Nhiều giáo viên có thu nhập rất cao nhưng trốn thuế thu nhập cao.
Rõ ràng, trong nhiều trường hợp dạy thêm là một dạng của tham nhũng và
nguồn gốc của tiêu cực.
Nguyễn Đình Cử
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
81
1.4. Lạm thu phí giáo dục
Khoản 1, Điều 105, Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Học sinh tiểu học
trường công lập không phải đóng học phí. Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người
học hoặc gia đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào khác”. Có thể coi
“học phí và lệ phí tuyển sinh” là khoản “thu cứng” các khoản thu khác là khoản “thu
mềm”. Theo liệt kê chưa đầy đủ các khoản “thu mềm” của các Trường, theo phản ảnh
của các báo nhưng cũng đã lên đến 33 khoản (xem hộp 3).
Thu sai quy định, cả về khoản mục lẫn mức thu thì trên thực tế, chi sai quy
định cũng thường xảy ra.
Hộp 3: Danh mục các khoản thu ngoài học phí của Trường được phản ánh trên các
báo
(1) Quỹ lớp, (2) Quỹ trường, (3) Tiền học bạ , (4) Phí chiêu sinh, (5) Tiền giấy
khen, (6)Tiền xây dựng , (7) Tiền học thêm, (8)Tiền phù hiệu, (9)Tiền trông xe, (10)
Tiền nước uống, (11) Bảo hiểm y tế, (12) Bảo hiểm xã hội , (13) Quỹ khuyến học , (14)
Tiền dọn nhà vệ sinh, (15) Tiền hồ sơ cá nhân, (16) Quỹ hội chữ thập đỏ, (17) Tiền
giấy thi, pho-to đề thi, (18) Tiền “ủng hộ Hội đồng thi”, (19) Tiền mua vở ô ly học trên
lớp, (20) Tiền phôtô các loại giấy mời, (21) Phiếu báo đồ dùng dạy học, (22) Sơ yếu lý
lịch, thời khóa biểu... (23) Quỹ để khen thưởng giáo viên, (24) Quỹ Đội Thiếu niên
tiền phong, (25) Tiền ghế ngồi sinh hoạt dưới cờ, (26) Tiền nước tắm của học sinh bán
trú, (27) Tiền hỗ trợ làm đồ dùng tranh, ảnh cho bài học, (28) Khăn trải bàn, bình
hoa, bút viết bảng, bông lau bảng...(29) Trợ cấp cho nhân viên văn phòng, giám thị,
bảo vệ của trường, (30) Thù lao cho bộ phận thu chi tài chính quỹ hội (gồm giáo viên
chủ nhiệm, kế toán, thủ quỹ), (31) Chi hoạt động thăm quan, dã ngoại, múa hát, thể
thao, các cuộc thi, vui chơi giải trí cho giáo viên, học sinh, (32) Đóng góp mua máy
tính, điều hòa nhiệt độ, chi phí tiền điện để cho con em học, (33) Tiền bồi dưỡng
cho giáo viên chủ nhiệm mỗi tháng để... “uống nước cam”... (VnExpress, 18-9-2007)
1.5. Tham nhũng trong tuyển dụng, đề bạt và luân chuyển cán bộ, giá o viên
Với số lượng giáo viên bậc phổ thông khoảng 80 vạn người (năm học 2005 -
2006 cả nước có 780.500 giáo viên bậc phổ thông), hàng năm sẽ có một số lớn cán bộ,
giáo viên ra khỏi ngành giáo dục và một bộ phận rời khỏi vị trí quản lý, lãnh đạo (về
hưu, hết tuổi quản lý, về mất sức, chuyển ngành, bỏ việc, chết) và tương ứng sẽ có số
cán bộ, giáo viên được tuyển dụng, đề bạt.
Trên diễn đàn của Trang báo điện tử Edu.net.vn, có nhiều bài phản ảnh về
tình trạng đưa và nhận hối lộ khi tuyển dụng giáo viên và không hiếm bài nêu thời
gian, địa chỉ cụ thể. Trong khi tính chân thực của các bài viết như vậy cần được kiểm
định thì việc tuyển dụng hơn 1000 giáo viên, trong đó có đến 184 người khi tuyển đã
quá tuổi và không đạt chuẩn, quy hoạch, tạo nguồn và bổ nhiệm 44 hiệu trưởng và
hiệu phó của các cấp học chưa có quyết định tuyển dụng, không theo quy chế, diễn ra
trong nhiều năm ở tỉnh Quảng Bình đã làm cho dư luận không thể không đặt ra
những câu hỏi có cơ sở về sự khuất tất trong sự vụ này.
Mặt khác, để cân đối, điều hòa số lượng và chất lượng cán bộ quản lý, cán bộ
Các hình thức tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ thông
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
82
giảng dạy giữa các đơn vị trong ngành, để đảm bảo công bằng giữa cống hiến và
hưởng thụ trong đội ngũ cán bộ, việc điều chuyển cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy từ
địa phương này sang địa phương khác được tiến hành thường kỳ. Ai cũng muốn được ở
lại hoặc chuyển đến những trường có điều kiện thuận lợi và ai cũng muốn được chuyển
khỏi những trường có hoàn cảnh khó khăn. Để đạt được mục tiêu đó, đã xảy ra hối lộ,
không phải chỉ một người và không phải chỉ trong ngành giáo dục mà có khi phải hối lộ
nhiều người, cả trong và ngoài ngành giáo dục để tạo ra được một liên minh ủng hộ,
(xem báo Pháp luật, ngày 25-7-2006).
2. Những hình thức tham nhũng ngân sách nhà nước
2.1. Rút ruột công trình xây dựng, chương trình kiên cố hóa trường học
Năm 2005, ngành giáo dục có 27.227 trường phổ thông, với 424.059 phòng
học. Vì vậy, hàng năm có nhu cầu xây dựng mới, kiên cố hóa, sửa chữa rất lớn và
trên thực tế ngân sách Nhà nước cũng đã đầu tư nhiều cho công tác này, đặc biệt là
Chương trình “Kiên cố hóa trường học” được đầu tư 7.930 tỷ đồng. Cũng như bất kỳ
lĩnh vực xây dựng cơ bản nào khác, các công trình xây dựng, sửa chữa trường học
cũng bị “rút ruột”. Tổng hội xây dựng lập Danh mục địa chỉ 43 công trình thất thoát
lãng phí trong đầu tư - xây dựng, trong đó có 6 công trình thuộc lĩnh vực giáo dục.
Riêng chương trình Kiên cố hóa trường học, thanh tra 14% tổng số phòng học được
xây dựng đã phát hiện thất thoát 27,6 tỷ đồng, (Báo Kinh tế - xã hội ngày 30/5/06).
Vì thanh tra trên mẫu rất lớn: Tại 50 tỉnh, thành phố, với 7.823 phòng học và 259
phòng cải tạo sửa chữa, nên có thể suy rộng số tiền thất thoát trong Chương trình
này lên đến khoảng 200 tỷ! Kết quả thanh tra nói trên cho thấy: Tệ rút ruột công
trình xây dựng, sửa chữa trường học là phổ biến và nghiêm trọng.
2.2. Xà xẻo kinh phí đầu tư mua trang thiết bị dạy học
Kinh phí dùng cho đầu tư thiết bị dạy học giai đoạn 2002 - 2007 là 14.000 tỉ
đồng (tương đương gần 1 tỉ USD), chia ra bậc tiểu học 1.424 tỉ đồng, bậc trung học cơ
sở 6.100 tỉ đồng, bậc trung học phổ thông 6.574 tỉ đồng. Chỉ riêng niên học 2005 -
2006, ta đã chi ra 1.100 tỉ đồng cho thiết bị dạy học lớp 4 và lớp 9, không kể tiền mua
thiết bị dạy học phục vụ phân ban thí điểm và cấp bổ sung thiết bị dạy học lớp 3, lớp
8. (Tuổi trẻ cười Chủ nhật, 27/08/2006).
Không thể phủ nhận rằng việc đầu tư kinh phí lớn cho thiết bị dạy học góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy nhiên, việc cung cấp thiết bị dạy học vừa
chậm, vừa kém về chất lượng đã và đang là chủ đề được xã hội quan tâm và được
phản ảnh nhiều trên phương tiện thông tin đại chúng. Đây cũng là một đề tài do Công
đoàn Giáo dục Việt Nam thực hiện.
Sở dĩ chất lượng thiết bị dạy học kém là do một số cơ quan có chức năng cung cấp
đã mua sắm trang thiết bị dạy học không nhãn mác hoặc không có nguồn gốc, nhưng lại
dán tem nhãn của Nhật Bản. Vụ án "sản xuất, buôn bán hàng giả" tại Công ty in, phát
hành sách và thiết bị Quảng Ngãi là một ví dụ (VietNamNet - 24/11/2006). Không chỉ
ở Quảng ngãi, nhiều tỉnh khác, như: Tuyên Quang, (Báo Tổ Quốc, ngày 22/12/2006).
Bình Định, (Báo Thanh niên, 07/08/2007) cũng có tình trạng tương tự.
Nguyễn Đình Cử
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
83
2.3. Xà xéo tiền Dự án giáo dục
Với chính sách ưu tiên đặc biệt của Nhà nước, ngành Giáo dục và Đào tạo đã nhận
được những khoản đầu tư kinh phí lớn từ ngân sách Nhà nước, những chương trình, dự
án vay vốn ODA và viện trợ không hoàn lại, trong đó phần lớn các dự án do bộ chủ quản
trực tiếp quản lý. Cụ thể, “Theo báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa gửi lên ủy ban Văn
hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội về tình hình phân bổ,
quản lý và sử dụng ngân sách năm 2008, ước chi cho giáo dục và đào tạo trong năm này là
76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, tăng 14,1% so với ước thực hiện
năm 2007” (Thời báo Việt, ngày 11-10-2007). Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng là
đơn vị chủ quản 77 dự án, với tổng vốn ODA là 1.109 triệu USD; trong đó có 549,4 triệu
USD viện trợ và 559,6 triệu USD vốn vay. (Sài Gòn Giải Phóng, 07/10/2006).
Đã có những hoạt động của Dự án xảy ra tham nhũng. Chẳng hạn, ở tỉnh
Bình Phước, khi Sở Giáo dục - Đào tạo triển khai tổ chức bồi dưỡng 4 modul (gói dự
án) cho 5.112 GVTH (46 trường) và 1.185 cán bộ quản lý, khoảng 35,8% kinh phí cho
hoạt động này đã bị ăn chặn, (xem Lao Động, ngày 18/05/2007).
Thậm chí, người ta còn dựng lên cả những “Dự án ma” và tham nhũng được ngay
ở cả những Dự án như vậy. Vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lợi dụng chức vụ quyền
hạn trong khi thi hành công vụ” mà một trong những bị cáo là Mạc Kim Tôn - nguyên
Đại biểu Quốc hội khoá 11, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Thái Bình là 1
trong 4 vụ án điểm về tham nhũng được xét xử năm 2007. Vụ án này cho một ví dụ về
tham nhũng khoảng 13 % tổng kinh phí Dự án cung cấp trang thiết bị dạy học nhưng
nổi bật hơn cả là tính chất nghiêm trọng của vụ án. (xem Pháp luật, 25/03/2007).
Kết luận:
Nghiên cứu này chưa chỉ ra mức độ phổ biến của từng hình thức nhưng cũng
đủ cho thấy tính nghiêm trọng của vấn đề: Thứ nhất, tồn tại hiện tượng tham nhũng
trong Hệ thống giáo dục phổ thông với các hình thức khá đa dạng; Thứ hai, nhiều vụ
tham nhũng trong hệ thống giáo dục phổ thông liên quan đến nhiều người (26 bị can
trong vụ án “chạy điểm” ở Bạc Liêu); Thứ ba, tham nhũng liên quan đến quan chức
giáo dục cấp cao nhất ở Sở Giáo dục và Đào tạo (Thái Bình và Bạc Liêu); Thứ tư,
không những nhận hối lộ của dân mà “ăn chặn” tiền bồi dưỡng của hàng nghìn đồng
nghiệp trong một hoạt động của Dự án (Bình Phước).
Cần nghiên cứu sâu hơn về nguyên nhân, hậu quả và tìm ra giải pháp phòng,
chống thích hợp với mỗi hình thức tham nhũng nói trên.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Nội chính Trung ương. Ban quản lý Dự án "Nghiên cứu đấu tranh chống tham nhũng”: Báo cáo kết
quả Điều tra tham nhũng ở Việt Nam. Tài liệu Hội thảo. Hà Nội - 30/11/2005.
2. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2005. Nxb Thống kê. Hà Nội - 2005
3. Các báo điện tử: Thanh Niên; Lao Động; Pháp Luật; Tổ Quốc; Vietnam.net; VnExpress; Thời báo Việt;
Sài Gòn Giải phóng; 2T Tuổi trẻ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so1_2008_nguyendinhcu_5515.pdf