Tài liệu Các chuẩn mực giá trị trong cuộc sống của các gia đình trẻ ở nông thôn: Xã hội học, số 2 - 1986
CÁC CHUẨN MỰC GIÁ TRỊ TRONG CUỘC SỐNG
CỦA CÁC GIA ĐÌNH TRẺ Ở NÔNG THÔN
NGUYỄN PHƯƠNG ANH
Dưới nhận thức của người dân nông thôn, những giá trị nào của cuộc sống gia đình được họ quan
tâm nhiều nhất? Đó là một trong những khía cạnh được đặt ra nghiên cứu trong chương trình điều tra
thực nghiệm do Viện Xã hội học tổ chức vào những năm 1983-1984. Căn cứ vào các kết quả đã được
xử lý, chúng tôi sẽ tập trung phân tích vấn đề trên ở tầng lớp các gia đình trẻ, có vợ và chồng tuổi từ 30
trở xuống. Thông qua bài viết này, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ những biến đổi trong
đời sống văn hoá - lối sống của thanh niên hiện nay.
*
* *
Để giải quyết khía cạnh được đặt trong chương trình nghiên cứu vừa nêu trên trong bảng câu hỏi
điều tra xã hội học thực nghiệm, chúng tôi đã đưa ra một số yếu tố giá trị định hướng cuộc sống gia
đình của người nông dân. Mức độ đánh giá về từng yếu tố giá trị của cuộc sống gia đình được nêu ra
và gợi ý tr...
5 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 885 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các chuẩn mực giá trị trong cuộc sống của các gia đình trẻ ở nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học, số 2 - 1986
CÁC CHUẨN MỰC GIÁ TRỊ TRONG CUỘC SỐNG
CỦA CÁC GIA ĐÌNH TRẺ Ở NÔNG THÔN
NGUYỄN PHƯƠNG ANH
Dưới nhận thức của người dân nông thôn, những giá trị nào của cuộc sống gia đình được họ quan
tâm nhiều nhất? Đó là một trong những khía cạnh được đặt ra nghiên cứu trong chương trình điều tra
thực nghiệm do Viện Xã hội học tổ chức vào những năm 1983-1984. Căn cứ vào các kết quả đã được
xử lý, chúng tôi sẽ tập trung phân tích vấn đề trên ở tầng lớp các gia đình trẻ, có vợ và chồng tuổi từ 30
trở xuống. Thông qua bài viết này, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ những biến đổi trong
đời sống văn hoá - lối sống của thanh niên hiện nay.
*
* *
Để giải quyết khía cạnh được đặt trong chương trình nghiên cứu vừa nêu trên trong bảng câu hỏi
điều tra xã hội học thực nghiệm, chúng tôi đã đưa ra một số yếu tố giá trị định hướng cuộc sống gia
đình của người nông dân. Mức độ đánh giá về từng yếu tố giá trị của cuộc sống gia đình được nêu ra
và gợi ý trả lời ở ba bậc: không quan trọng, quan trọng và rất quan trọng. Điều đó cho phép đo được
tính khách quan cao trên cơ sở các đối tượng được nghiên cứu đã lựa chọn câu trả lời phù hợp nhất.
Câu hỏi đưa ra gồm 11 yếu tố giá trị của cuộc sống gia đình, bao gồm các khía cạnh kinh tế, đạo
đức, quan hệ cộng đồng, học vấn và văn hoá
Tại hai điểm nghiên cứu ở tỉnh Thái Bình, các số liệu thu thập được qua cuộc điều tra cho thấy rằng
những người thuộc độ tuổi dưới 26 và 26-30 đánh giá cao ba yếu tố quan trọng nhất theo thứ tự như
sau:
1. Lao động giỏi, kinh tế vững.
2. Thuận vợ, thuận chồng.
3. Đạo đức trong sạch.
Riêng những người ở độ tuổi dưới 26 thì yếu tố nhà cửa khang trang được chú ý ở mức độ ưu tiên
thứ 4. Trong khi đó những người ở độ tuổi 26-30 dành mức độ ưu tiên thứ 4 cho hoà thuận xóm làng.
Đối với dành mức độ ưu tiên thứ 5, cả hai độ tuổi đều dành cho yếu tố giá trị “cha mẹ già được săn sóc
tốt”. Vậy điều gì dẫn đến sự khác biệt về mức độ ưu tiên thứ 4 giữa hai độ tuổi này?
Theo chúng tôi, có thể những người ở độ tuổi dưới 26, do mới thành lập gia đình, một nếp nhà với
họ là ước vọng trong hoàn cảnh chung hiện nay khi gia đình nông thôn đang có sự phân giải sâu sắc
theo xu hướng gia đình hạt nhân hoá. Đối với những người ở độ tuổi 26-30, việc có một nếp nhà đã
được đáp ứng rồi. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Một thời gian sau khi kết hôn, đến lứa tuổi
này các cặp vợ chồng đã có đủ thời gian và điều kiện cần thiết để xây dựng một nếp nhà riêng. Do đó
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn
Xã hội học, số 2 - 1986
36 NGUYỄN PHƯƠNG ANH
nhu cầu nhà cửa đối với họ không còn bức thiết nữa (trừ trường hợp một số ít chưa có nhà hoặc muốn
sửa sang lại ngôi nhà cho khang trang, to đẹp hơn).
Kết quả điều tra cũng cho thấy rằng các yếu tố ít được quan tâm đối với những người ở cả trong hai
độ tuổi trên là:
- Con cái thoát ly làm cán bộ.
- Vợ chồng đều có văn hoá cao.
- Con cái học cao.
Như vậy, có sự khác nhau ở người nông dân giữa một bên là quan niệm về các giá trị mang tính
chất trực tiếp (gắn bó với hoạt động sống, sinh hoạt của họ) với một bên là các giá trị mang tính chất
gián tiếp (các khía cạnh học vấn, văn hoá). Thực chất của sự khác nhau này là gì? Đó là sự phản ánh
hai điểm quy chiếu của hai mô hình xã hội khác nhau: điểm quy chiếu của xã hội nông thôn còn trong
tình trạng sản xuất nông nghiệp truyền thống với con trâu đi trước, cái cày đi sau mà bản thân người
nông dân đang sống và điểm quy chiếu của xã hội thành thị trên cơ sở của học vấn và lao động công
nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu ở đây là các nhóm gia đình trẻ ở nông thôn, tức là ở họ, một cơ chế gia đình
đã được thiết lập và vận hành để dần dần đi vào ổn định. Bởi thế, đánh giá của họ về các giá trị trước
hết được chú ý tới những yếu tố liên quan trực tiếp tới cuộc sống gia đình chứ không được đánh giá
bằng những suy nghĩ cá nhân chưa được cơ chế gia đình ràng buộc. Rộng hơn nữa, cuộc sống của họ,
gia đình họ, được gây dựng và tồn tại trong một xã hội nông thôn, ở đó mọi giá trị vật chất và tinh thần
bị chi phối bởi nền sản xuất nông nghiệp đã tồn tại lâu đời.
Trong nông thôn hiện nay, mặc dù đã trải qua hàng chục năm cải tạo nền nông nghiệp theo hướng
sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng do nhiều nguyên nhân xã hội như việc bùng nổ dân số, chiến tranh 30
năm liên miên, sản xuất nhỏ vẫn còn ngự trị trong nông thôn, khoa học - kỹ thuật chưa được áp dụng
mạnh mẽ đối với nông nghiệp, nên năng suất lao động bình quân nhìn chung rất thấp kém, không
đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhân dân. Do vậy, đời sống kinh tế vẫn là mục tiêu quan tâm thường xuyên, là
điểm mấu chốt nhất trong kế hoạch phát triển một nông thôn mới ở nước ta. Vì thế, trong hoàn cảnh xã
hội nông thôn, lao động sản xuất để có nguồn của cải dồi dào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống là hoạt
động lớn nhất, quyết định tất cả mọi hoạt động khác của người nông dân, trong đó có các bậc cha mẹ
trẻ.
Cụ thể hơn về giá trị ưu tiên thứ nhất, lao động giỏi, kinh tế vững, ta có kết quả như sau:
Tại điểm nghiên cứu thứ nhất, nhóm gia đình trẻ dưới tuổi 26 có 78,6% cho rằng rất quan trọng,
21,4% cho rằng quan trọng. Không có ý kiến nào trả lời không quan trọng. Thuộc nhóm gia đình trẻ ở
độ tuổi 26-30 thì trả lời cho ba mức độ rất quan trọng, quan trọng và không quan trọng là 79,5%;
17,9% và 2,6%. Tại điểm nghiên cứu thứ hai, nhóm gia đình trẻ dưới tuổi 26 đánh giá qua điểm số của
yếu tố giá trị lao động giỏi, kinh tế vững là 1,79% (xếp ưu tiên thứ nhất) và thuộc nhóm gia đình 26-30
tuổi đánh giá qua điểm số là 1,77% (cũng xếp ưu tiên thứ nhất).
So sánh với các nhóm tuổi cao từ 41-45 và 45 trở lên, ta thấy những người ở lứa tuổi này cũng xếp
yếu tố giá trị lao động giỏi, kinh tế vững vào mức độ ưu tiên số
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn
Xã hội học, số 2 - 1986
Các chuẩn mực 37
một. Sự nhất quán này cho phép chúng ta đánh giá ý nghĩa kinh tế đích thực của lao động giỏi, kinh tế
vững.
Tiếp theo yếu tố kinh tế là yếu tố giá trị về mặt đạo đức của cuộc sống gia đình. Trong xã hội
truyền thống, những giá trị đạo đức luôn luôn là những chuẩn mực hành động và ứng xử của con người
Việt Nam. Đương nhiên có sự khác nhau cơ bản giữa các giá trị đạo đức xưa và nay. Trong xã hội
truyền thống, cơ sở của các giá trị đạo đức là tư tưởng phong kiến, với các lễ giáo trói buộc con người
trong trật tự của sự phân chia giai cấp, duy trì chế độ người bóc lột người. Ngày nay, trên cơ sở của
chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nội dung cơ bản của đạo đức xã hội là đoàn kết tương trợ,
thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, mỗi người vì mọi người và mọi người vì mỗi người.
Thuận vợ, thuận chồng là một yếu tố giá trị đạo đức của cuộc sống gia đình được mọi người đề
cao. Trong thành ngữ của nhân dân ta, có câu “Thuận vợ, thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Ở đây,
nếu như chưa xét đến mặt tình cảm của thuận vợ, thuận chồng, thì ít ra, sức mạnh của vợ chồng sẽ làm
được tất thảy mọi công việc trong gia đình và ngoài gia đình. Ý nghĩa của thuận vợ, thuận chồng
không chỉ thuần tuý phản ánh giá trị đạo đức. Trong những cuộc điều tra, nông dân trả lời rõ câu hỏi
này: “Có thuận vợ, thuận chồng thì làm việc gì cũng dễ”. Trong tình hình hiện nay, chức năng kinh tế
gia đình vẫn giữ địa vị quan trọng, thì thuận vợ, thuận chồng trở thành điểm nút của sức mạnh (sức lao
động) gia đình để thực hiện tốt mục tiêu lao động giỏi, kinh tế vững. Đối với yếu tố thuận vợ, thuận
chồng, số liệu điều tra cho thấy: Ở độ tuổi dưới 26: 76,9% số người được hỏi trả lời rất quan trọng,
23,1% trả lời quan trọng. Ở độ tuổi 26-30, kết quả trả lời là 75,7%, 21,6% và không quan trọng là
2,7%. Đánh giá qua điểm số ở điểm nghiên cứu thứ hai, độ tuổi dưới 26, kết quả là 1,77% (mức độ ưu
tiên thứ 2) và độ tuổi 26-30 là 1,73% (cũng mức độ ưu tiên thứ 2). Ở các độ tuổi 41-45 và từ 45 trở lên,
đều cùng chung một quan niệm là đánh giá cao yếu tố giá trị thuận vợ, thuận chồng như những người ở
các độ tuổi nói trên.
Đạo đức trong sạch cũng được coi là một khía cạnh trong các yếu tố giá trị đạo đức nói chung. Ở
cả hai độ tuổi thuộc điểm nghiên cứu thứ nhất (dưới 26 và 26-30) có 50% số người được hỏi trả lời rất
quan trọng và 50% trả lời là quan trọng. Đánh giá quan điểm số ở điểm nghiên cứu thứ hai, thì mức độ
ưu tiên dành cho đạo đức trong sạch xếp thứ 3 (ở cả hai độ tuổi dưới 26 và 26-30).
Chung quy lại, nếu đạo đức được xem là một chuẩn mực ứng xử của lối sống, thì ở nông thôn,
trong các nhóm gia đình trẻ, kể cả các nhóm gia đình tuổi cao, quan niệm cụ thể về đạo đức như “thuận
vợ, thuận chồng” và “đạo đức trong sạch” được đề cao không phải thuần tuý là sự tiếp nối truyền
thống cũ về giá trị đạo đức. Nó còn phản ánh mối liên hệ sâu xa của tính thống nhất trong gia đình để
thực hiện các chức năng sản xuất và chức năng xã hội của nó, trong đó chức năng sản xuất là mặt căn
bản hơn cả.
Đối với các yếu tố giá trị của cuộc sống gia đình ít được quan tâm như học vấn, văn hoá thì điều
căn bản nhất, những yếu tố giá trị đó chưa đến lúc là điểm quy chiếu cho hành vi của nông dân sống
trong một khung cảnh xã hội nông nghiệp – nông thôn như thực trạng hiện nay. Vấn đề là ở chỗ những
nhu cầu đó chưa ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống thực tiễn hàng ngày mà họ phải đương đầu. Tuy
nhiên, trong một trường hợp cũng có sự không phù hợp giữa ý nghĩ và hành vi thực tế.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn
Xã hội học, số 2 - 1986
38 NGUYỄN PHƯƠNG ANH
Yếu tố không để ma chê cưới trách mặc dầu không được coi trọng, nhưng vì trong cộng đồng làng xa,
những tập tục cũ đã từng ăn sâu vào tư tưởng nông dân, cho nên dù người ta có thể không muốn,
nhưng vẫn phải hành động theo những thiết chế riêng của cộng đồng.
Bảng số liệu sau về các yếu tố giá trị của uy tín và triển vọng gia đình thuộc lĩnh vực học vấn, văn
hoá chiếm tỷ lệ phần trăm không lớn, đã minh chứng cho lập luận trên:
Dưới 26 tuổi 26-30 tuổi
- Con cái học cao 23,1% 37,8%
- Vợ chồng đều có văn hoá cao 15,4% 24,3%
- Con cái thoát ly làm cán bộ 23,1% 27,8%
- Không để ma chê cưới trách 0 5,0%
Đánh giá qua điểm số, yếu tố giá trị “con cái học cao” ở độ tuổi dưới 26 là 1,23% (xếp ưu tiên thứ
5), độ tuổi 26-30 là 1,32% (xếp ưu tiên thứ 6), “vợ chồng đều có văn hoá cao” cả hai độ tuổi là 1,08%
(xếp ưu tiên thứ 6), “vợ chồng đều có văn hoá cao” cả hai độ tuổi là 1,08% (xếp thứ 9) và 1,13% (xếp
thứ 8), “con cái thoát ly làm cán bộ” là 1,15% (xếp thứ 7) và 1,19% (xếp thứ 7), “không để ma chê
cưới trách” là 0,38% (xếp thứ 11) và 0,48% (xếp thứ 11).
Cũng cần khẳng định thêm rằng, việc con cái học cao hay con cái thoát ly là điều chưa trực tiếp đặt
ra đối với các đôi vợ chồng trẻ, vì hầu hết con cái còn nhỏ tuổi, hoặc họ đã có văn hoá, hoặc họ không
cần học nữa vì có trình độ cao hơn cũng chưa cần thiết đối với cuộc sống ở làng.
*
* *
Thay lời kết luận, chúng tôi có những nhận xét sau đây:
1. Các nhóm gia đình trẻ đánh giá ưu tiên số một cho các yếu tố giá trị kinh tế là sự khẳng định
khách quan thái độ của họ trong một khung cảnh xã hội đặc thù – xã hội nông thôn với những hoạt
động chính của sản xuất nông nghiệp, và đó chính là điểm quy chiếu để quyết định thái độ xử sự của
người nông dân. Cũng như ở cư dân thành thị, học vấn là những yếu tố giá trị định hướng quan trọng,
vì nó là giá trị căn bản nhất được thừa nhận như một khuôn mẫu của xã hội đó.
Do vậy, có thể nói rằng, chừng nào đời sống nông dân còn ở tình trạng chưa phát triển mạnh mẽ,
của cải vật chất chưa dồi dào, văn hoá tinh thần chưa được nâng cao thì điểm quy chiếu thái độ xử sự
của họ vẫn là những yếu tố giá trị thuộc về lĩnh vực kinh tế, và các yếu tố giá trị học vấn, văn hoá bị
đẩy xuống hàng thứ yếu.
Cũng trong một xã hội đặc thù nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chưa có phân công lao động cao thì
quan tâm đến nghề nghiệp dường như chưa rõ ràng. Do đó, yếu tố giá trị trong bảng hỏi như có nghề
riêng vững chắc thu được một tỷ lệ đồng ý rất thấp ở cả hai độ tuổi (15,4% và 15,8%).
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn
Xã hội học, số 2 - 1986
Các chuẩn mực giá trị 39
2. Khi các nhóm gia đình trẻ xử sự với các yếu tố giá trị được đưa ra trong bảng hỏi đã nói lên tình
trạng biến đổi sâu sắc về cấu trúc xã hội nông thôn và gia đình của nó. Các nhóm gia đình này không
còn chú ý đến tính cộng đồng làng xã mà bảng hỏi đã đưa ra là “hoà thuận xóm làng” (23,1% và
45,9%). Tức là mối liên hệ cộng đồng, một đặc trưng nổi bật trong làng xã Việt Nam, có nhiều tác
dụng chi phối các quan hệ của những thành viên, nhóm gia đình nay đã bị lu mờ trước thái độ xử sự
của các nhóm gia đình trẻ. Như vậy, chúng ta đã thấy rõ ở các độ tuổi này, là sự phân giải của các quan
hệ cộng đồng thành các quan hệ chức năng, và quan hệ mới này chỉ được thiết lập trên một cấu trúc xã
hội có nhiều biến đổi về kinh tế, xã hội và văn hoá mà thôi.
Điều này cũng cho phép khẳng định chắc chắn hơn khi chúng ta xem xét thêm yếu tố giá trị “cha
mẹ già được săn sóc tốt” cũng bị đẩy xuống bậc thấp. Đáng lẽ, theo truyền thống đạo đức của Việt
Nam, yếu tố giá trị này phải được đặt lên hàng đầu. Sự giải thể các yếu tố giá trị cũ đó đương nhiên chỉ
có thể giải thích bằng sự giải thể cấu trúc gia đình truyền thống trong sự giải thể của xã hội nông thôn
nói chung với sự tác động của quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá ngày một rõ nét.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so2_1986_nguyenphuonganh_7778_8408.pdf