Bước đầu thực nghiệm xây dựng quy trình kỹ thuật tiêu cơ cải tiến trong chẩn đoán nhiễm gnathostoma sp ở lươn (monopterus albus)

Tài liệu Bước đầu thực nghiệm xây dựng quy trình kỹ thuật tiêu cơ cải tiến trong chẩn đoán nhiễm gnathostoma sp ở lươn (monopterus albus): Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 22 BƯỚC ĐẦU THỰC NGHIỆM XÂY DỰNG QUY TRÌNH KỸ THUẬT TIÊU CƠ CẢI TIẾN TRONG CHẨN ĐOÁN NHIỄM GNATHOSTOMA SP Ở LƯƠN (MONOPTERUS ALBUS) Lê Đức Vinh*, Nguyễn Văn Vĩnh Châu**, Trần Trinh Vương* TÓM TẮT Mở đầu: Bệnh do Gnathostoma sp. là một bệnh động vật ký sinh, lây nhiễm vào người qua đường thực phẩm do ăn các loài thuỷ sản sống hoặc tái như ếch nhái, cá lóc, lươn, rắn bị nhiễm ấu trùng giai đoạn 3 của KST này. Trong cơ thể người ấu trùng có thể di chuyển và gây tác hại tại nhiều cơ quan khác nhau, đôi khi có thể đưa đến tử vong. Do yêu cầu cấp thiết về kỹ thuật chẩn đoán phù hợp với các loại bệnh phẩm khác nhau, chúng tôi tiến hành nghiên cứu xây dựng mô hình kỹ thuật tiêu cơ cải tiến để tìm ấu trùng Gnathostoma sp. trên lươn nhằm xác định chính xác nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh này từ môi trường. Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu thực nghiệm xây dựng quy trình kỹ thuật tiêu cơ cải tiến trong chẩn đoán nhiễm gnathostoma sp ở lươn (monopterus albus), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 22 BƯỚC ĐẦU THỰC NGHIỆM XÂY DỰNG QUY TRÌNH KỸ THUẬT TIÊU CƠ CẢI TIẾN TRONG CHẨN ĐOÁN NHIỄM GNATHOSTOMA SP Ở LƯƠN (MONOPTERUS ALBUS) Lê Đức Vinh*, Nguyễn Văn Vĩnh Châu**, Trần Trinh Vương* TÓM TẮT Mở đầu: Bệnh do Gnathostoma sp. là một bệnh động vật ký sinh, lây nhiễm vào người qua đường thực phẩm do ăn các loài thuỷ sản sống hoặc tái như ếch nhái, cá lóc, lươn, rắn bị nhiễm ấu trùng giai đoạn 3 của KST này. Trong cơ thể người ấu trùng có thể di chuyển và gây tác hại tại nhiều cơ quan khác nhau, đôi khi có thể đưa đến tử vong. Do yêu cầu cấp thiết về kỹ thuật chẩn đoán phù hợp với các loại bệnh phẩm khác nhau, chúng tôi tiến hành nghiên cứu xây dựng mô hình kỹ thuật tiêu cơ cải tiến để tìm ấu trùng Gnathostoma sp. trên lươn nhằm xác định chính xác nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh này từ môi trường. Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu xây dựng mô hình kỹ thuật tiêu cơ cải tiến trong chẩn đoán nhiễm Gnathostoma sp. ở lươn Phương pháp tiến hành: tiến hành mô hình thực nghiệm cải tiến tại phòng thí nghiệm.Thu thập mẫu nội tạng lươn và thịt lươn từ chợ. Mẫu sẽ được phẫu tích và ứng dụng kỹ thuật tiêu mô bằng pepsin tìm ấu trùng lây nhiễm giai đoạn 3 (AT3) của Gnathostoma sp. trong gan. Xác định tỷ lệ lươn nhiễm mầm bệnh từ mẫu nghiên cứu. Kết quả: thực nghiệm 30 mẫu thịt và 30 mẫu gan lươn theo quy trình được thiết lập đã tìm thấy kết quả nhiễm 10%. Quy trình cho kết quả thành công với mô thịt (6FIP – U). Ở nồng độ thủy phân thấp hơn (5FIP –U) quy trình thành công với mô gan. Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy qui trình cải tiến được xây dựng có thể ứng dụng cho việc xác định mầm bệnh Gnathostoma sp. ở gan và thịt lươn. Từ khóa: Gnathostoma sp., kỹ thuật tiêu cơ bằng pepsin cải tiến. ABSTRACT INITIAL EXPERIMENT TO BUILD PROCESS USING MODIFIED TECHNIQUE OF MEAT’S DIGESTION IN DIAGNOSIC OF GNATHOSTOMA SP. INFECTION IN SWARM EELS (MONOPTERUS ALBUS) Le Duc Vinh, Nguyen Van Vinh Châu, Tran Trinh Vuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 22 - 29 Background: Human gnathostomiasis is an important food-borne parasitic zoonosis, caused mainly by eating raw meat of infected fish especially frogs, snakehead, swamp eels, snakes, Getting into the human body, the advanced third stage larvae can migrate and harm to many different organs, or even lead to death. Due to the urgent requirements of suitable diagnostic techniques with many various types of specimens, we conducted a rese arch to build the process of modified method - digestion of meat by pepsin to determine presence of Gnathostoma sp. larvae in swamp eels. Navigate to alert the exact risk of infection agent from the environment. *Bộ môn Ký Sinh – Vi Nấm học, Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch **Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới Thành Phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. BS Lê Đức Vinh. ĐT: 0918096773 Email: ducvinh@pnt.edu.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 23 Objectives: Initial building the process using modified technique - digestion of meat by pepsin to determine presence of Gnathostoma sp. larvae in swamp eels. Methods: a laboratory experimental study, we build the process of modified technique - digestion of meat by pepsin. Collect samples of meat and visceral organ of swamp eels from a market. The samples were dissected and applied histolytic modified technique by artificial pepsin digestion to find the advanced third stage larvae (AT3). Determine the prevalence of Gnathostoma sp. infection in research samples. Results: According to the established process, 30 samples of eel meat and 30 samples of eel liver were tested; the prevalence of Gnathostoma sp. infection was 10%. The process get a successful outcome with pepsin concentration was 6 FIP – U for eel meat. At lower concentration (5 FIP –U), the process was also success with the tissue of eel liver. Conclusion: From our study, we found that our modified process was possible to apply in determination of Gnathostoma sp. infection inside the liver and meat tissue of eel. Keywords: Gnathostoma sp., modified digestion of meat ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh do Gnathostoma sp. ở người được nhiễm từ thực phẩm. Trong cơ thể người giun chỉ phát triển đến giai đoạn ấu trùng hoặc giun non. Ấu trùng giun không khu trú mà có thể di chuyển từ đường tiêu hoá qua các cơ quan nội tạng hoặc ra da. Khi ấu trùng hoặc giun non di chuyển vào các cơ quan trọng yếu của cơ thể như não, tuỷ sống, thì bệnh cảnh sẽ nghiêm trọng và có thể đưa đến tử vong(2,3,4). Trên thế giới, bệnh do Gnathostoma sp. được báo cáo nhiều ở khu vực Đông nam Á, trong đó có Việt Nam. Trường hợp bệnh đầu tiên tại nước ta được phát hiện năm 1963, và từ năm 1999 trở lại đây bệnh được phát hiện ngày nhiều hơn nhờ vào sự phát triển của kỹ thuật chẩn đoán(11). Nguyên do chính để nhiễm Gnathostoma sp. vào người là do ăn các loài thuỷ sản sống hoặc tái như lươn, rắn, ếch nhái, cá lóc, cá trê, hoặc ốc. Tại Thái Lan và Việt nam đã có các nghiên cứu về tình hình nhiễm Gnathostoma sp. trên lươn từ trước năm 2000 đến nay để đánh giá tình hình ô nhiễm mầm bệnh trong tự nhiên. Kỹ thuật xét nghiệm dùng trong các nghiên cứu này chủ yếu tìm kiếm mầm bệnh bằng phương pháp ép lam kính soi trực tiếp với bệnh phẩm là nội tạng của các ký chủ trung gian này(6,7,8,9,1,13). Tuy nhiên một thực tế được đặt ra là người chỉ ăn và sử dụng các chế phẩm từ thịt của các loài ký chủ trung gian chứ không sử dụng nội tạng, vì lẽ đó các nghiên cứu chỉ ra sự ô nhiễm mầm bệnh trong tự nhiên từ nội tạng của các loài KCTG dù là kinh điển nhưng vẫn bộc lộ các hạn chế(1). Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu của Thái Lan đã ứng dụng kỹ thuật tiêu cơ để tìm mầm bệnh Gnathostoma sp. gây bệnh cho người trong thịt của lươn. Kỹ thuật này trước đây vốn được sử dụng để tìm loài giun xoắn hoặc nang trùng của các loài sán lá với quy trình thực hiện khá công phu, tốn nhiều thời gian và nguyên vật liệu. Và đến hiện nay, qui trình hoàn chỉnh cho việc chẩn đoán nhiễm Gnathostoma sp. vẫn chưa được công bố chính thức(5,6,7,10,13). Bên cạnh đó, sự khác biệt về hình thái học của giun Gnathostoma sp. và giun xoắn cũng như với nang trùng các loài sán lá đã ảnh hưởng rõ đến kết quả của xét nghiệm khi sử dụng kỹ thuật tiêu cơ kinh điển(5,10). Từ các lý do trên, chúng tôi tiến hành thực nghiệm hiệu chỉnh và cải tiến kỹ thuật tiêu cơ trong chẩn đoán nhiễm giun xoắn, ứng dụng cho chẩn đoán nhiễm giun Gnathostoma sp. ở lươn. Thực nghiệm sẽ sử dụng vật liệu và các phương tiện đơn giản nhằm tiết kiệm nguồn lực nhưng vẫn đạt kết quả chẩn đoán, mong muốn xây dựng được quy trình hiệu quả và khả thi. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 24 Mục tiêu nghiên cứu Bước đầu xây dựng quy trình kỹ thuật xét nghiệm tìm ấu trùng Gnathostoma sp. gây bệnh ở lươn bằng kỹ thuật tiêu cơ cải tiến từ qui trình chẩn đoán giun xoắn. Xác định tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. trong mẫu thực nghiệm PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Mô hình thực nghiệm không lặp Địa điểm nghiên cứu Phòng thí nghiệm Bộ môn Ký sinh – Vi nấm học, Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch Đối tượng nghiên cứu Lươn và nội tạng lươn đựơc bán tại chợ nội thành Tp.HCM Cỡ mẫu Theo quy ước của Tổ Chức Y Tế Thế Giới 30 mẫu thịt lươn 30 mẫu gan lươn Phương pháp chọn và thu thập mẫu Chọn mẫu thuận tiện tại chợ N. Q.10 là một chợ trung tâm và lớn nhất của quận. Tại chợ: chọn gian hàng lớn nhất đảm bảo được mẫu mỗi ngày. Một ngày mua 1 cá thể lươn có trọng lượng từ 300 - 400g/con, mua 10 ngày. Thu thập nội tạng lươn sau buổi chợ chiều trong 15 ngày. Thu toàn bộ nội tạng lươn Tại bộ môn Ký Sinh – Vi nấm học: Phần thịt lươn: Rửa sạch, phẫu tích lọc phần thịt lươn từ đầu đến tận đuôi 1 bên (hình 1) Chia làm 3 phần: 1/3 đầu, 1/3 giữa và 1/3 sau đuôi, cắt lọc mỗi mẫu có trọng lương 50g, lọc bỏ phần dư. Trường hợp không đủ 50g, tiến hành bổ sung bằng lượng thịt ở phần thân đối xứng. Phần nội tạng lươn: Nội tạng lươn được rửa sạch và bóc tách phần gan Phần gan lươn sẽ được cân lấy 2 mẫu, 1 mẫu 50g, lấy ngẫu nhiên. Mẫu gan và thịt được xử lý theo quy trình cải tiến Mô hình kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu Bước 1: Chuẩn bị mẫu và dung dịch thủy phân 50 gam mẫu được xay nhuyễn trong 3 phút bằng máy xay thịt gia dụng Pha dung dịch thủy phân HCl 1,5% từ dung dịch acid HCl 37%, thêm pepsin vào với nồng độ pepsin 5 và 6 FIP – U/ml. Bước 2: Thủy phân mẫu Chuyển mẫu đã xay nhuyễn vào cốc thủy tinh có chứa 1500 ml dịch thủy phân (tỷ lệ 1/300) Mẫu thịt sử dụng nồng độ pepsin 6 FIP – U/ml Mẫu gan: 1 mẫu sử dụng nồng độ pepsin 5 và 1 mẫu sử dụng 6 FIP-U/ml Đậy giấy nhôm lên miệng cốc và ủ trong tủ ấm ở 370C qua đêm (18 – 24 giờ) Bước 3: Lọc dịch và lắng mẫu Gạn bỏ phần nước nổi Rửa phần cặn lắng 1 – 2 lần với nước sinh hoạt Lần cuối gạn phần lắng còn khoảng 20 – 30 ml ra đĩa petri đường kính 9cm Bước 4: Quan sát tìm mầm bệnh. Tìm mầm bệnh dưới kính hiển vi soi nổi SZ 51 (FIP – U: đơn vị của hãng, 1FIP- U/ml = 1g/ 1000ml nước) Quan sát ghi nhận kết quả Mầm bệnh thu được dưới dạng ấu trùng tự do hoặc trong nang. Ghi nhận sự nguyên vẹn của ấu trùng, khối nang hoặc hiệu suất thủy phân đạt/không đạt Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 25 Thu thập và đếm số lượng ấu trùng trong mỗi mẫu. Chẩn đoán xác định bằng cách quan sát hình thể ấu trùng: ấu trùng dài 1 – 3 mm, màu trắng ánh vàng, đầu phình to thành vòm tròn, có 4 hàng gai nhỏ, bộ phận sinh dục còn nguyên sơ, toàn thân có nhiều gai mảnh. (Hình 4) Xử lý số liệu: SPSS 16.0 for windows. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Mẫu nghiên cứu Tổng số mẫu thịt lươn thu được: 30 mẫu. Tổng số mẫu gan lươn thu được: 30 mẫu. Biểu đồ 1: Tỷ lệ thủy phân của mô hình cải tiến Bảng 1: Tỷ lệ phát hiện mầm bệnh trong thịt Vị trí thịt (chia 1/3) Mẫu Số mẫu thủy phân tốt Số mẫu nhiễm Tỷ lệ nhiễm % Đầu 10 10 0 0 Giữa 10 10 1 10 Đuôi 10 9 0 0 Bảng 2: Tỷ lệ phát hiện mầm bệnh trong gan lươn Loại thủy phân Mẫu Số mẫu nhiễm Tỷ lệ % 6 FIP - U 15 7 46.67 5 FIP - U 15 7 46.67 Tổng 30 14 46.67 Bảng 3: Lượng ấu trùng trong mẫu Loại mẫu- nồng độ Số mẫu nhiễm Tổng số ấu trùng Mật độ trung bình Số ấu trùng sống Trong nang Đứt, chết Thịt 1 2 2 2 0 0 Gan - 5 FIP - U 7 67 9.57 ± 5,56 56 4 7 Gan - 6 FIP - U 7 68 9,14 ± 4,27 60 1 7 Bảng 4. Tỷ lệ ấu trùng khó chẩn đoán sau kỹ thuật Loại mẫu và nồng độ Dễ Khó Tổng (tỷ lệ) Thịt 2 (100%) 0 (0%) 2 (100%) Gan - 5 FIP - U 60 (89,55%) 7(10,45%) 67 (100%) Gan - 6 FIP - U 60 (88,33%) 8(11,77%) 68 (100%) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 26 Hình 1: Lươn đã phẫu tích. Hình 2: Thủy phân chưa đạt Hình 3: Mẫu ấu trùng sau gạn lắng và quan sát dưới kính hiển vi soi nổi Hình 4: Ấu trùng phóng lớn định danh nhờ cấu trúc gai BÀN LUẬN So sánh với mô hình chẩn đoán giun xoắn Trichinella trước đây (5,10). Mô hình này gồm 4 bước kéo dài 6 – 8 giờ Bước 1: Chuẩn bị mẫu và dung dịch thủy phân 50 gam mẫu được xay nhuyễn trong 5 – 10 phút Pha dung dịch thủy phân HCl 1,5% từ dung dịch acid HCl 37%, thêm pepsin vào với nồng độ pepsin 6 FIP – U/ml. Bước 2: Thủy phân mẫu Chuyển mẫu đã xay nhuyễn vào cốc thủy tinh có chứa 3000 ml dịch thủy phân Đặt máy khuấy từ vào trong chỉnh tốc độ khuấy phù hợp trong 20 - 30 phút, lặp lại 6 – 8 lần. Luôn giữ nhiệt độ khi khuấy là 350C Bước 3: Lọc dịch và lắng mẫu Dịch sau thủy phân được lọc qua rây lọc có kích thước 180 µm vào bình lắng thứ nhất, rửa rây lọc bằng nước ấm và cho tất cả vào bình lắng Dịch lọc trong bình lắng thứ 1 được để yên trong 30 phút. Lấy 125 ml phần lắng từ bình thứ nhất chuyển sang bình lắng thứ 2. Để yên trong 10 phút Lấy nhanh 22 – 27 ml từ bình lắng thứ 2 ra đĩa petri Hi ̀nh 1 Hi ̀nh 2 Hi ̀nh 4 Hi ̀nh 3 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 27 Bước 4: Quan sát tìm mầm bệnh, Để yên đĩa petri trong 10 phút. Tìm mầm bệnh dưới kính lúp điện. Những nhược điểm của kỹ thuật trong mô hình trên rơi vào các bước: Bước thủy phân cần thiết bị là máy khuấy và phải giữ máy trong tủ ấm đảm bảo nhiệt độ ổn định. Bước lắng mẫu cần hệ thống lắng và rây lọc, đòi hỏi vật dụng và thiết bị, thời gian liên tục không cho phép thực hiện nhiều mẫu. Trên cơ sở nhận xét thấy ấu trùng Gnathostoma sp. có kích thước lớn và khả năng tồn tại tốt trong môi trường bên ngoài chúng tôi tiến hành cải tiến kỹ thuật trên tất cả các bước: Giảm thời gian xay trong bước 1, tăng khoảng thời gian ủ và hạn chế thao tác sử dụng máy khuấy liên tục trong bước 2, Bỏ qua các khoảng gạn lọc nhiều lần trong bước 3 vì ấu trùng khá lớn sẽ có trọng lượng nặng và lắng nhanh bên dưới. Tiết kiệm được hệ thống bình lắng. Như thế có thể tiến hành được nhiều mẫu hơn do các thao tác được đơn giản hóa. Về yêu cầu kích thước các phần mô thịt và gan sau thủy phân: kích thước các phần mô này không cần thiết quá nhuyễn hoặc quá bé vì kích thước ấu trùng Gnathostoma có chiều dài 1 – 3 mm là lớn hơn nhiều lần so với ấu trùng giun xoắn, các phần tử sau thủy phân không nhất thiết sẽ quá mịn, điều này chỉ ra cho chúng tôi mạnh dạn loại bỏ khâu lọc qua rây lọc với kích thước 180 µm. Bên cạnh đó, mật độ mô gan về lý thuyết sẽ không chặt bằng thịt lươn, vì thế chúng tôi tiến hành giảm nồng độ pepsin xuống 1 đơn vị so với quy trình trước đây. Biểu đồ 1 cho thấy hiệu quả thủy phân thịt theo mô hình nghiên cứu này đạt tỷ lệ 96,67%. Với mô gan lươn, kết quả đã cho thấy tỷ lệ thủy phân tốt ở 2 nồng độ 5 và 6 FIP – U/ml là 93,33 và 100%. Như vậy, việc cần thiết lặp lại thủy phân trong quy trình kỹ thuật tại bước 2 là không đáng kể và khâu cải tiến tại bước 2 của mô hình đã đạt được mong đợi. Đánh giá kết quả thành công của bước 3 và bước 4 trong kỹ thuật cần dựa trên sự phát hiện ấu trùng sau gạn lọc. Bảng 3 cho thấy với cả mẫu thịt và mẫu gan sử dụng 2 nồng độ đều phát hiện ra các mẫu dương với sự hiện diện của ấu trùng Gnathostoma sp. trong nang, tự do hoặc đứt gãy. Sự đứt gẫy có thể rơi vào bước 1 do máy xay đứt hoặc có thể do phối hợp cả với nồng độ thủy phân trong bước 2, ấu trùng chưa xuất nang có thể gây khó cho người phát hiện tuy nhiên vẫn không đáng kể đối với những người kỹ thuật có trình độ và được đào tạo. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho rằng sự xuất nang vẫn chủ yếu do nồng độ pepsin thủy phân chưa đủ hoặc không đủ thời gian ủ phản ứng cũng như do thao tác khuấy(5). Bảng 4 chỉ ra với mẫu thịt xay 100% thu được ấu trùng tốt, tuy nhiên trong thực nghiệm này chúng tôi chỉ có được 1 mẫu dương tính duy nhất với số lượng ấu trùng (AT) là 2. Do vậy, để kết luận là quy trình thành công thì kết quả đã chỉ được nhưng để hoàn chỉnh cần nghiên cứu với số mẫu thịt nhiều hơn. Bảng 4 cũng chỉ ra với mô gan sử dụng 2 nồng độ thủy phân 5 và 6 FIP – U, tỷ lệ ấu trùng khó chẩn đoán gần giống nhau 10,45% (7AT) và 11,77% (8AT). Điều này chỉ ra sự tương đồng là khá cao dù sử dụng 2 nồng độ. Như vậy, nhiều khả năng ấu trùng khó chẩn đoán do đứt gẫy rơi vào bước 1 khi xay. Liệu với mô gan không chặt so với mô thịt, mẫu có cần xay đủ 3 phút như mô thịt hay không?. Để trả lời câu hỏi này thiết nghĩ cần thực hiện lại một nghiên cứu với mô hình có lặp và thử xay ở những khoảng thời gian, tốc độ xay cũng như thiết bị xay của các hãng khác nhau . Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. Trong 10 cá thể lươn khảo sát nhiễm Gnathostoma sp. trong cơ, số mẫu (+) là 1/10 = 10%. Tỷ lệ này cao hơn các nghiên cứu trước đây tại các chợ của Tp.HCM là 3,25 và 4,64%(1,12). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 28 Tỷ lệ này cũng cao hơn nghiên cứu tại Thái Lan. Tuy nhiên theo chúng tôi sự khác biệt này là do cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi rất nhỏ, chúng tôi có ứng dụng kết quả điều tra tìm thấy tỷ lệ nhiễm cao rơi vào các tháng 11 – đến tháng 1 hàng năm của các tác giả trước đây để chọn thời điểm tiến hành nghiên cứu thực nghiệm này. Trong nghiên cứu, chúng tôi cũng chọn lươn có kích thước và trọng lượng lớn để có thể có xác xuất nhiễm cao, qua đó sử dụng làm chuẩn vàng để đánh giá kết quả mô hình mà kỹ thuật này áp dụng. Như vậy, dù kết quả nhiễm của chúng tôi tìm thấy có thể chưa phản ánh đúng thực trạng ô nhiễm mầm bệnh trên lươn, nhưng với mô hình kỹ thuật được xây dựng thành công sẽ góp phần điều tra chính xác hơn thực trang của công đồng và môi trường khi tiến hành diện rộng với cỡ mẫu lớn.(6,7,8) Bảng 1 cho thấy trường hợp tìm thấy ấu trùng trong thịt lươn rơi vào đoạn giữa thân của 1 cá thể lươn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rojekittikhun W và cộng sự (2004) đã cho thấy phần thịt giữa thân có tỷ lệ phát hiện ấu trùng cao hơn 51,7% so với 29,7 và 18,6% ờ phần đầu và đuôi của lươn.(7) Với trường hợp các mẫu gan, do trọng lượng tối thiểu trong mô hình là 50g cho một mẫu, tương ứng với khoảng 2 – 7 gan lươn, như vậy tỷ lệ nhiễm 46,67% trong bảng 2 chỉ ra sẽ không thể hiện được tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. ở lươn của cộng đồng. Đó là một điểm yếu trong nghiên cứu này, nhưng chính tỷ lệ quá cao của kết quả mà chưa thể hiện được đầy đủ tình hình nhiễm này sẽ định hướng cho việc khảo sát từng cá thể lươn trong các nghiên cứu tiếp theo khi quy trình kỹ thuật đã được ổn định trên tất cả các loại mô khác nhau không chỉ có thịt cơ và gan của lươn. KẾT LUẬN Chúng tôi đã bước đầu xây dựng thành công mô hình thủy phân – tiêu cơ cải tiến để chẩn đoán nhiễm Gnathostoma sp. ở lươn dựa trên cơ sở mô hình chẩn đoán phức tạp của nhiễm giun xoắn. Với mô thịt, nồng độ pepsin xác định là 6 FIP – U. Với mô gan, nồng độ pepsin xác định là 5FIP – U. Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. ở lươn là 10% nhưng chưa thể hiện chính xác vì cỡ mẫu thực nghiệm chưa đủ lớn. KIẾN NGHỊ Áp dụng kỹ thuật tiêu cơ cải tiến tìm ấu trùng Gnathostoma sp. trên lươn và các thuỷ sản khác tại các chợ trên địa bàn thành phố và cả nước. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật với cỡ mẫu lớn có so sánh đối chiếu, tiến tới hình thành quy trình chuẩn. Nghiên cứu phát triển việc sử dụng các nguyên vật liệu rẻ tiền và thích hợp khác, áp dụng trên các mô khác nhau của ký chủ trung gian phù hợp với điều kiện sống và tập quán sinh hoạt của người dân tại cộng đồng Thực hiện các chương trình kiểm soát và ngăn ngừa nguồn bệnh Gnathostoma sp. đang tồn tại trong môi trường. Tăng cường thông tin, khuyến cáo người dân không sử dụng món ăn tái hoặc chế biến chưa chín từ thuỷ sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Đức Vinh và c.s (2013). Khảo sát tình hình nhiễm Gnathostoma spp trên gan lươn (Monopterus albus) tại chợ N. quận 10, Tp.HCM từ tháng 3/2010- 2/2011. Tạp chí y học Tp.HCM. (3):121 – 126 2. Lê Thị Xuân, Phạm Thị Lệ Hoa, Trần Thị Huệ Vân và CS (2003). Bệnh nhiễm Gnathostoma ở người tại TP. Hồ Chí Minh.Tạp chí Y học thực hành, số 477, tr 117-119. 3. Lê Thị Xuân, Trần Vinh Hiển, Lê Xuân Tú (2001). Một trường hợp nhiễm của Gnathostoma spinigerum ngoài da tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 2001,tr 103-105. 4. Nguyễn Hữu Hoàn, Phạm Như Ý, Trương Văn Luyện(2001). Nhân 4 trường hợp viêm não tủy do giun Gnathostoma sp. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tr 106 -110. 5. Nguyễn tiến Dũng và c.s (2013). Nghiên cứu xây dựng phương pháp phát hiện ký sinh trùng Trichinella bằng kỹ thuật tiêu cơ. Tạp chí y học Tp.HCM. (17), 2013:121 - 126 6. Rojekittikhun W, Chaiyasith T, Nuamtanong S, Komalamisra C.(2004): Gnathostoma infection in fish caught for local consumption in Nakhon Nayok Province, Thailand I. Prevalence and fish species. Southeast Asian J Trop Med Public Health. 2004 Sep;35(3):523-30. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 29 7. Rojekittikhun W1, Chaiyasith T, Butraporn P. (2004): Gnathostoma infection in fish caught for local consumption in Nakhon Nayok Province, Thailand. II. Deasonal variation in swamp eels. Southeast Asian J Trop Med Public Health. 2004 Dec;35(4):786-91. 8. Saksirisampant W, Nuchprayoon S, Wiwanitkit V, Kraivichian K, Suwansaksri J.(2002): Prevalence and intensity of third stage Gnathostoma spinigerum larvae in swamp eels sold in three large markets in Bangkok, Thailand. Southeast Asian J Trop Med Public Health. 2002;33 Suppl 3:60-2. 9. Sieu TP, Dung TT, Nga NT, Hien TV, Dalsgaard A, Waikagul J, Murrell KD.(2009): Prevalence of Gnathostoma spinigerum infection in wild and cultured swamp eels in Vietnam. J Parasitol. 2009Feb;95(1):246-8. 10. Trần Thanh Dương (2014). Quy trình phát hiện và thu thập sán lá bằng phương pháp tiêu cơ. Trần Thanh Dương (Eds) Quy trình xét nghiệm chuẩn. 107 – 109, Nhà xuất bản Y học. 11. Trần Thị Hồng (2013). Gnathostoma sp. In: Trần thị Hồng (Eds) Ký sinh trùng y học. 1st edition, 126 – 128, Nhà xuất bản Y học, TP. Hồ Chí Minh. 12. Trần Thị Hồng và c.s (2014). Khảo sát tình hình nhiễm Gnathostoma spp trên gan lươn (Monopterus albus) tại chợ P. quận 10, Tp.HCM từ tháng 3/2012- 1/2013. Tạp chí PCSR và các bệnh KST, (chuyên đề HNKH ĐT CN KST toàn quốc lần thứ 41):85 – 92 13. Wilai Saksirisampant W, Thanomsub BW (2012): Positivity and Intensity of Gnathostoma spinigerum Infective Larvae in farmed and wild-caught swamp eels in Thailand. Korean J Parasitol. 2012; 50(2): 113–118. Ngày nhận bài báo: 02/02/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 13/02/2017 Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf022_2_8899_2168688.pdf
Tài liệu liên quan