Tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả giảm đường huyết sau ăn trên người bệnh đái tháo đường týp 2 của bài thuốc nam sưu tầm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 417
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐƯỜNG HUYẾT
SAU ĂN TRÊN NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
CỦA BÀI THUỐC NAM SƯU TẦM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SÓC TRĂNG
Nguyễn Văn Đàn*, Nguyễn Thị Nguyên Sinh*, Bùi Chí Bảo*, Trịnh Thị Diệu Thường*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 là một bệnh mạn tính không lây có tốc
độ phát triển rất nhanh ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh tăng glucose máu
sau ăn là một yếu tố nguy cơ cao đối với các biến chứng mạch máu lớn (như bệnh mạch vành, bệnh mạch máu
não, bệnh động mạch ngoại vi), biến chứng vi mạch (thận, võng mạc, thần kinh) cũng như góp phần khó kiểm soát
HbA1c đạt mục tiêu điều trị dù đường huyết đói kiểm soát được trong giới hạn bình thường. Sau khi thu thập
thực tế trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, các dược liệu của bài thuốc được k...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả giảm đường huyết sau ăn trên người bệnh đái tháo đường týp 2 của bài thuốc nam sưu tầm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 417
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐƯỜNG HUYẾT
SAU ĂN TRÊN NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
CỦA BÀI THUỐC NAM SƯU TẦM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SÓC TRĂNG
Nguyễn Văn Đàn*, Nguyễn Thị Nguyên Sinh*, Bùi Chí Bảo*, Trịnh Thị Diệu Thường*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 là một bệnh mạn tính không lây có tốc
độ phát triển rất nhanh ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh tăng glucose máu
sau ăn là một yếu tố nguy cơ cao đối với các biến chứng mạch máu lớn (như bệnh mạch vành, bệnh mạch máu
não, bệnh động mạch ngoại vi), biến chứng vi mạch (thận, võng mạc, thần kinh) cũng như góp phần khó kiểm soát
HbA1c đạt mục tiêu điều trị dù đường huyết đói kiểm soát được trong giới hạn bình thường. Sau khi thu thập
thực tế trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, các dược liệu của bài thuốc được kiểm tra lý, hóa tính, nghiên cứu độc tính
trên chuột, tế bào người. Kết quả cho thấy chưa có ghi nhận độc tính, đồng thời trong thử nghiệm tác dụng dược
lý, bài thuốc cho thấy hiệu quả hạ đường huyết tốt trên chuột. Từ đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục
tiêu bước đầu đánh giá hiệu quả kiểm soát glucose máu sau ăn tức thời trên người bệnh đái tháo đường týp 2 của
bài thuốc gồm lá cây Mật gấu (Vernonia amygdalina). Qua đề tài này giúp củng cố thêm các bằng chứng khoa học
cho việc triển khai các giai đoạn nghiên cứu tiếp theo khi sử dụng lâu dài bài thuốc trong hỗ trợ điều trị bệnh
ĐTĐ týp 2, giúp kiểm soát bệnh và các biến chứng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 41 người bệnh đái tháo đường týp 2 (13 nam, 28 nữ) thỏa tiêu
chuẩn chọn. Từng đối tượng được thực hiện khảo sát đường huyết sau ăn với bữa ăn định chuẩn trong hai ngày
liên tiếp, ngày chứng uống nước lọc và ngày uống cao thuốc. Lấy máu đầu ngón tay thử đường huyết sau ăn tại
các thời điểm 15, 30, 60, 90 và 120 phút. Sử dụng phép kiểm thống kê bắt cặp để so sánh đường huyết sau ăn giữa
các thời điểm trong hai ngày thử nghiệm. Giá trị tổng tích lũy của tăng lượng đường huyết sau ăn được ước tính
bằng cách tính diện tích dưới đường cong (AUC- area under curve).
Kết quả: So sánh đường huyết giữa các thời điểm, đường huyết sau ăn ngày uống thuốc ghi nhận đường
huyết giảm khác biệt có ý nghĩa thống kê từ sau 30 phút, và giữ được tác dụng giảm liên tục tại thời điểm 60
phút, 90 phút và 120 phút so với ngày chứng (p<0,05). Giá trị tổng tích lũy của tăng đường huyết sau ăn được
ước tính bằng cách tính diện tích dưới đường cong (AUC) trong toàn thời gian thử nghiệm 120 phút ngày thử
cao thuốc thấp hơn; 261,06 ± 90,29 so với 335,49 ± 103,23 (ngày chứng), giá trị giảm là 74,43±109,52.
Kết luận: Bước đầu đánh giá cao lỏng chiết nước từ lá cây mật gấu có tác dụng giảm đường huyết sau ăn
trên người bệnh đái tháo đường týp 2 nhưng không gây hạ đường huyết trầm trọng.
Từ khóa: lá cây mật gấu, đường huyết sau ăn, diện tích dưới đường cong (AUC).
ABSTRACT
THE EFFICACY OF LOWERING POSTPRANDIAL BLOOD GLUCOSE
ON TYPE 2 DIABETES PATIENTS BY EXTRACTED HERB FROM VERNONIA AMYGDALINA
AT SOC TRANG PROVINCE
Nguyen Van Dan, Nguyen Thi Nguyen Sinh, Bui Chi Bao, Trinh Thi Dieu Thuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 417 - 423
Background and objectives: Type 2 diabetes is a non-contagious chronic disease that develops rapidly in
* Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Trịnh Thị Diệu Thường ĐT: 0933000880 Email: thuong.ttd@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 418
many countries around the world. Additionally, postprandial hyperglycemia is also a high-risk factor for major
vascular complications, microvascular complications as well as contributes to the difficulty in controlling HbA1c
to achieve therapeutic targets despite the normal range of fasting blood glucose levels. Traditional herbal medicines
have been used for a long time to reduce the glucose level, and many controlled trials have been done to investigate
their efficacy. We conduct this study with the aim of initially evaluating the effect of Vernonia amygdalina
extracted method obtained from local Soc Trang province on immediate controlling postprandial blood glucose
level in patients with type 2 diabetes.
Methods: The quality of trials was evaluated using the parameters of randomization. 41 patients with
diabetes 2 (13 males, 28 females) met the inclusion criteria. Each invidual patient tested blood sugar levels after
assigned-meal for two days, one day for drinking water (control) and one for taking the drug (day of treatment).
The blood was collected at the range of time after eating (15, 30, 60, 90 and 120 minutes). The cumulative total
value was calculated to compare blood glucose levels after eating periods within two days of testing. The total
value of the increase of the blood level after having meal was estimated by calculating the area under the curve
(AUC).
Results : In comparison to the blood glucose levels on the control day, the postprandial blood glucose
concentration after a day of treatment decreased significantly after 30 minutes, and kept continuously decline at
60 minutes, 90 minutes and 120 minutes (p <0.05). The cumulative total value of postprandial hyperglycemia
which was estimated by calculating the AUC for the full 120 minutes of the day of taking drug was lower; 261.06
± 90.29 compared to 335.49 ± 103.23 (day of control), decreasing 74.43 ± 109.52.
Conclusion: The initial evaluation of intervention by leaves of Vernonia amygdalina significantly reduce
postprandial blood glucose in patients with type 2 diabetes but do not show any adverse effects from
hypoglycemia. Further study should be carefully interpreted by increasing sample size and high quality trials.
Keywords: Vernonia amygdalina, postprandial blood glucose concentration, area-under-curve (AUC)
values.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 là một bệnh
mạn tính không lây có tốc độ phát triển rất
nhanh ở nhiều nước trên thế giới, theo thống
kê vào năm 2015 do Bộ Y tế Việt Nam thực
hiện ở nhóm tuổi 18-69 cho thấy tỷ lệ bệnh
trên toàn quốc là 4,1%(2,10,4). Theo các khuyến
cáo điều trị bệnh đái tháo đường týp 2, ngoài
kiểm soát glucose máu đói và HbA1c thì
glucose máu sau ăn cũng được chú trọng(2,4).
Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh
tăng glucose máu sau ăn là một yếu tố có nguy
cơ cao đối với các biến chứng mạch máu lớn
(như bệnh mạch vành, bệnh mạch máu não,
bệnh động mạch ngoại vi), biến chứng vi
mạch (thận, võng mạc, thần kinh)(4) và góp
phần khó kiểm soát HbA1c đạt mục tiêu điều
trị dù đường huyết đói kiểm soát được trong
giới hạn bình thường. Bên cạnh các thuốc hóa
dược đang được sử dụng điều trị cho người
bệnh ĐTĐ, việc sử dụng thảo dược trên lâm
sàng hiện nay là một thực tế phổ biến được
chấp nhận trong điều trị đái tháo đường týp 2
ở nhiều quốc gia(4). Nhân dân cả nước nói
chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng có kinh
nghiệm sử dụng nhiều bài thuốc nam quý
trong việc chữa và phòng bệnh. Việc điều tra,
bảo tồn tài nguyên bài thuốc nam có tại Sóc
Trăng là việc làm rất cần thiết. Nhiều thảo
dược đơn lẻ và công thức phối hợp thảo dược
đã được nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết
đói(8,11,12), tuy nhiên các đề tài đánh giá tác
dụng giảm đường huyết sau ăn chưa được chú
trọng nhiều ở Việt Nam. Sau khi thu thập thực
tế trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Các dược liệu
của bài thuốc được kiểm tra lý, hóa tính,
nghiên cứu độc tính trên chuột, tế bào người.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 419
Kết quả cho thấy chưa có ghi nhận độc tính,
đồng thời trong thử nghiệm tác dụng dược lý,
bài thuốc cho thấy hiệu quả hạ đường huyết
tốt trên chuột. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này với mục tiêu bước đầu đánh giá hiệu quả
kiểm soát glucose máu sau ăn tức thời trên
người bệnh đái tháo đường týp 2 của bài
thuốc gồm lá cây Mật gấu (Vernonia
amygdalina). Qua đó, giúp củng cố thêm các
bằng chứng khoa học cho việc triển khai các
giai đoạn nghiên cứu tiếp theo khi sử dụng lâu
dài bài thuốc trong hỗ trợ điều trị bệnh ĐTĐ
týp 2, giúp kiểm soát bệnh và các biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, so sánh
trước – sau.
Phương pháp chọn mẫu
Mẫu được chọn theo phương pháp chọn
mẫu thuận tiện.
Cỡ mẫu
Theo tác giả Wolever đã tổng quan các
nghiên cứu và đưa ra kết luận: khi thử nghiệm
glucose máu sau ăn cần ít nhất 10 đối tượng
tham gia đã đủ độ mạnh, tuy nhiên cỡ mẫu càng
lớn độ mạnh và độ chính xác càng cao(14).
Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
- Cao lỏng chiết nước nóng 1000C bài thuốc,
được chuẩn bị tại khoa Dược, Cơ sở 3 bệnh viện
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
- 41 người bệnh đái tháo đường týp 2 đang
được theo dõi và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Sóc Trăng và Cơ sở 3 bệnh viện Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh thỏa tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn chọn(10)
- Người bệnh cả hai giới, tự nguyện tham gia
nghiên cứu, tuổi ≥ 30.
- Người bệnh đái tháo đường týp 2 đang
điều trị thuốc uống ổn định.
- BMI từ 18,5 - 25,0 kg/m2.
Tiêu chuẩn loại(10)
- Đái tháo đường týp 1.
- Đang điều trị biến nhiễm ceton, có các bệnh
cấp hoặc mạn tính khác ảnh hưởng đến việc
kiểm soát đường huyết như viêm gan cấp (AST,
ALT tăng gấp 3 lần giới hạn trên bình thường),
suy thận (creatinine máu >150μmol/l), có thai
hoặc đang cho con bú.
- Điếc, câm, rối loạn tâm thần, lú lẫn.
- Đối tượng phải dùng thuốc insulin, thuốc
ức chế α-glucosidase trong thời gian nghiên cứu.
Chuẩn bị và chiết xuất cao lỏng bài thuốc
Bài thuốc được bào chế từ nguồn dược liệu lá
cây mật gấu thu thập tại tỉnh Sóc Trăng đã được
kiểm nghiệm lý, hóa tính, dư lượng thuốc trừ
sâu, kim loại nặng. Bài thuốc gồm 15g lá khô cây
mật gấu được chiết với nước ở 1000C, đóng gói
vô khuẩn bao bì nhôm 3 lớp bằng máy chiết
công nghệ Hàn Quốc khi còn nóng, để nguội,
dán nhãn, thông tin sử dụng và bảo quản tại kho
thuốc (nhiệt độ 200C, độ ẩm 50%) tại Cơ sở 3-
Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Chuẩn bị bữa ăn định chuẩn
Chuẩn bị bữa ăn định chuẩn 250 kcal tương
tự như nghiên cứu trước đây thực hiện tại Viện
dinh dưỡng Việt Nam với thành phần của bữa
ăn bao gồm: 01 bát cháo (55 gam gạo tẻ), 01 thìa
thịt nạc rim băm nhỏ (35 gam thịt + 4 gam mỡ + 1
gam bột canh)(10).
Qui trình thực hiện
- Sàng lọc đối tượng phù hợp với tiêu chuẩn
chọn đưa vào nghiên cứu thông qua kiểm tra các
chỉ số nhân trắc, xét nghiệm glucose máu lúc đói.
- Thông báo người bệnh tham gia không
được ăn hoặc uống các thức ăn có năng lượng tối
thiểu 8 giờ đến 10 giờ trước nghiên cứu. Có thể
uống nước lọc khi khát, không được nhịn đói
quá 10 giờ tính đến thời điểm nghiên cứu.
- Không chơi thể thao, vận động mạnh 6 giờ
trước khi tham gia nghiên cứu.
- Thử nghiệm được thực hiện trong 2 ngày
kế tiếp, người bệnh không uống thuốc hạ đường
huyết buổi sáng:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 420
+ Ngày chứng: đối tượng được thử đường
huyết mao mạch lúc đói, ăn 1 suất ăn định chuẩn
và uống 1 ly nước lọc 200ml trong 10 phút. Lấy
máu đầu ngón tay thử đường huyết sau khi ăn
xong tại các thời điểm 15, 30, 60, 90 và 120 phút.
+ Ngày uống cao thuốc: đối tượng được thử
đường huyết mao mạch lúc đói, uống 1 túi
thuốc, 30 phút sau ăn 1 suất ăn định chuẩn và 1
ly nước lọc 200ml trong 10 phút. Lấy máu đầu
ngón tay thử đường huyết sau ăn tại các thời
điểm 15, 30, 60, 90 và 120 phút.
- Thu thập, xử lý số liệu
- Ghi nhận vào bảng theo dõi các tác dụng
không mong muốn gồm các triệu chứng cơ năng
như ngất, co giật, mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt,
đau nặng ngực, tê nặng chi, đau mỏi cơ, đau
bụng, buồn nôn, rối loạn đi cầu như tiêu chảy
hoặc táo bón, ngứa, dị ứng và các triệu chứng
khác trong thời gian thử nghiệm đường huyết
sau ăn và 24 giờ sau đó.
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm: SPSS
16.0, sử dụng phép kiểm phi tham số Wilcoxon
signed rank sum test để so sánh giữa các thời
điểm trong 2 ngày thử nghiệm. Giá trị tổng tích
lũy của tăng lượng đường huyết sau ăn được
ước tính bằng cách tính diện tích dưới đường
cong (AUC- area under curve). Giá trị đường
huyết dưới trị số cơ sở (đường huyết đói ban
đầu) được coi là bằng không. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê khi p<0,05.
Y đức trong nghiên cứu
- Đề tài đã được sự chấp thuận của Hội đồng
Y đức Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh, Sở Y tế
và Bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng.
- Các người bệnh hoàn toàn tự nguyện trong
nghiên cứu, được giải thích rõ về mục đích, nội
dung thực hiện và quyền lợi khi tham gia đề tài,
đồng thời họ sẽ ký giấy tình nguyện tham gia
trước khi tham gia.
- Nghiên cứu chỉ nhằm mục đích phục vụ
sức khoẻ của người bệnh, không nhằm mục
đích khác.
- Thành phần bài thuốc đã được kiểm
nghiệm lý, hóa tính, dư lượng thuốc trừ sâu, kim
loại nặng. Cao thuốc nghiên cứu đã được thử
độc tính cấp và bán trường diễn cho thấy không
xác định được LD50 và không có độc tính bán
trường diễn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của các ĐTNC trước nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng trước nghiên cứu (n=41)
Chỉ số Tổng số
Cơ sở 3 bệnh viện Đại học
Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Sóc Trăng
Giới
Nam 13 (31,71%) 6 (14,63%) 7 (17,08 %)
Nữ 28 (68,29 %) 24 (58,53%) 4 (9,76%)
Tuổi 60,68 ± 11,73 59,77±11,16 63,18 ± 13,42
Huyết áp tâm thu (mm Hg) 126,76 ± 14,79 123,53±13,05 135,55±16,31
Huyết áp tâm trương (mm Hg) 77,19 ± 8,70 77,47±9,20 76,45±7,51
Tần số tim 77,92 ± 9,77 80,1±6,82 72±13,91
Chỉ số BMI (kg/m) 23,35 ±3,48 23,36±3,67 23,33 ±3,02
Thời gian mắc bệnh trung bình (năm) 4,28 ±4,77 4,25±4,77 4,38±5,00
Nhận xét :
Các giá trị ban đầu của các ĐTNC gồm tần số
tim trung bình, huyết áp tâm thu trung bình,
huyết áp tâm trương trung bình, BMI đều trong
giới hạn bình thường.
Bảng 2. Giá trị trung bình đường huyết đói và sau ăn 120 phút tại các thời điểm trong 2 ngày nghiên cứu (nồng
độ trung bình mmol/L± SD), n = 30.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 421
Thời điểm Glucose máu đói (mmol/L) Glucose máu 120 phút sau ăn (mmol/L)
Ngày chứng (TB ± SD) 7,37 ±1,99 9,78 ±3,26
Ngày uống cao thuốc (TB ± SD) 7,12 ±1,93 8,98 ±2,49
Nhận xét :
- Đường huyết đói giữa 2 ngày thử nghiệm
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p >0,05) và
đều trên 7,0 mmol/L.
- Trong cả 2 ngày thử nghiệm, trị số đường
huyết tại thời điểm 120 phút sau ăn vẫn lớn hơn
có ý nghĩa thống kê so với đường huyết đói ban
đầu (p<0,05).
Bảng 3. Giá trị trung bình đường huyết sau ăn tại các thời điểm trong 2 ngày nghiên cứu (nồng độ trung bình
mmol/L± SD), n = 41.
Thời gian Ngày chứng (TB ± SD) Ngày uống cao thuốc (TB ± SD) p (Wilcoxon signed rank sum test)
Glucose
máu
(mmol/L)
Ban đầu 7,37 ±1,99 7,12 ±1,93 0,307
Sau 15 phút 10,95 ±2,04 10,85 ±2,15 0,922
Sau 30 phút 13,40±2,27 12,31 ±2,40 0,001
Sau 60 phút 14,74 ±2,82 12,61 ±2,68 0,000
Sau 90 phút 11,71±3,23 10,85 ±2,79 0,000
Sau 120 phút 9,78 ±3,26 8,98 ±2,49 0,045
AUC 0-120 phút 335,49 ± 103,23 261,06 ± 90,29 0,001
Nhận xét :
- Trong cả hai ngày thử nghiệm, đường
huyết sau ăn tăng theo sinh lý hấp thu glucose,
tăng cao nhất khoảng 60 phút sau khi ăn, sau đó
giảm dần.
- So sánh đường huyết các thời điểm giữa hai
ngày thử nghiệm, đường huyết sau ăn ngày thử
nghiệm (uống cao thuốc) ghi nhận đường huyết
giảm khác biệt có ý nghĩa thống kê từ sau 30
phút, và giữ được tác dụng giảm liên tục đến
thời điểm 60 phút, 90 phút và 120 phút (p<0,05).
- Giá trị tổng tích lũy của tăng lượng đường
huyết sau ăn được ước tính bằng cách tính diện
tích dưới đường cong trong toàn thời gian thử
nghiệm 120 phút ngày thử cao thuốc thấp hơn
ngày chứng, với khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05), 261,06 ± 90,29 so với 335,49 ± 103,23
(ngày chứng), giá trị giảm là 74,43 ± 109,52.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng khẩu
phần định chuẩn với tổng năng lượng là 250
Kcalo cho 1 bữa ăn thử nghiệm (dựa trên nghiên
cứu thử nghiệm glucose máu sau ăn của tác giả
Wolever)(14) và giống với nghiên cứu Phạm Thị
Lan Anh và cộng sự(10), không đưa quá nhiều
đường trong một bữa ăn, gần với thực tế ăn
uống hàng ngày của người bệnh(10). Các giá trị
đường huyết ban đầu và các thời điểm sau ăn
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn, có thể
do người bệnh chọn trong nhóm nghiên cứu
kiểm soát đường huyết tốt hơn, thời gian bệnh
ngắn hơn so với nghiên cứu của Phạm Thị Lan
Anh và cộng sự(10). Tuy nhiên, đường huyết đói
ban đầu trên 7 mmol/L, và tại thời điểm 120 phút
đều lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với thời điểm
ban đầu (lúc đói) (p<0,05), điều này phù hợp với
sinh lý bệnh rối loạn hấp thu đường huyết trên
người bệnh ĐTĐ týp 2, quá trình hấp thu đường
kéo dài, trong khoảng 30 phút sau ăn mức
glucose máu tăng vượt quá 8,0 mmol/l, đạt đỉnh
khoảng 60 phút, sau đó glucose máu giảm rất
chậm và chỉ trở lại bình thường sau 3-4 giờ hoặc
lâu hơn nữa(4).
Các thời điểm sau khi dùng cao chiết lá mật
gấu đều cho thấy tác dụng hạ đường huyết sau
ăn, tuy nhiên từ thời điểm 30 phút trở đi, sự khác
biệt mới có ý nghĩa thống kê so với ngày chứng
uống nước cất và kéo dài đến thời điểm 60, 90 và
120 phút, kéo dài hơn so với sản phẩm VOSCAP
chỉ dừng ở mức 15 phút và 30 phút(10). Tác dụng
này có thể được giải thích do lá mật gấu giàu
thành phần chất xơ hòa tan (non-starch
polysaccharides) giúp làm giảm hấp thụ đường
huyết sau ăn, tăng nhạy cảm insulin ngoại biên,
có vai trò tốt trong việc phòng ngừa và kiểm soát
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 422
bệnh ĐTĐ týp 2(13,16). Đặc biệt hàm lượng chất xơ
ở lá khô cao hơn lá tươi(3). Còn theo tác giả
Osinubi (2007) cho rằng hoạt chất lacton
sesquiterpene và chất đắng của lá cây mật gấu có
thể gây ra tăng kích thích và phóng thích insulin
từ các các tế bào beta của tiểu đảo tụy tạng(9).
Đồng thời, một số hợp chất flavonoid được xác
định trong lá mật gấu có tác dụng kháng oxy hóa
mạnh, bảo vệ tế bào trong cơ thể chống lại các
tác hại của các gốc tự do, giúp cải thiện tình
trạng stress oxy hóa thường gặp ở đái tháo
đường týp 2 cũng như nhiều bệnh lý khác (6,8,15).
Mặt khác, các hợp chất tanin, flavonoid
glycoside và phytosterol của lá cây mật gấu cũng
có thể có tác dụng như một chất ức chế alpha
glucosidase góp phần giúp giảm tăng đường
huyết sau ăn(7,5). Ngoài ra, tác dụng điều trị đái
tháo đường của lá mật gấu còn được giải thích
do đồng thời ức chế sự hình thành tân sinh
đường mới - gluconeogenesis và tăng cường oxy
hóa glucose qua con đường PPP - phosphate
pentose pathway, tăng biểu hiện gen glucose 6-
phosphate dehydrogenase (G6PDH) ở gan, giảm
đáng kể biểu hiện của gen G6PDH trong mô cơ
và mô mỡ. Ngoài ra, sao chép enzyme điều hòa
tăng trưởng tế bào, phosphatidylinositol 3-kinase
tăng trong gan, nhưng giảm ở mô cơ và mỡ.
Chiết xuất từ lá mật gấu cũng làm giảm sự biểu
hiện của các enzyme chính của quá trình ly giải
glucose (glycolysis) là hexokinase và
phosphofructokinase(5).
Tác dụng không mong muốn khi uống cao
thuốc
Các giá trị mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ
bình thường cũng như không ghi nhận các triệu
chứng cơ năng không mong muốn sau 120 phút
uống bài thuốc và 24 giờ sau đó. Kết quả này
phù hợp với những nghiên cứu độc tính của lá
mật gấu(1,15).
KẾT LUẬN
Đường huyết sau ăn ngày uống thuốc ghi
nhận đường huyết giảm khác biệt có ý nghĩa
thống kê từ sau 30 phút, và giữ được tác dụng
giảm liên tục tại thời điểm 60 phút, 90 phút và
120 phút so với ngày chứng. Trị số đường huyết
tại thời điểm sau 120 phút, thấp hơn ban đầu
(p<0,05) nhưng mức đường huyết không hạ dưới
3,9 mmol/L. Giá trị tổng tích lũy của tăng đường
huyết sau ăn được ước tính bằng cách tính diện
tích dưới đường cong (AUC) trong toàn thời
gian thử nghiệm 120 phút ngày thử thuốc thấp
hơn ngày chứng.
Bước đầu đánh giá bài thuốc sắc nước từ lá
cây mật gấu có tác dụng giảm đường huyết sau
ăn trên người bệnh ĐTĐ týp 2 nhưng không gây
ra hạ đường huyết trầm trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akah PA, Alemji JA, Salawu OA, Okoye TC, Offiah NV
(2009), “Effects of Vernonia amygdalina on Biochemical and
Hematological Parameters in Diabetic Rats”, Asian Journal of
Medical Sciences Vol.1(3),pp. 108-113.
2. Bộ Y Tế (2017), Quyết định về việc ban hành tài liệu chuyên môn
hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đái tháo đường típ 2.
3. Bonsi MLK, Osuji PO, Tuah AK, Umunna NN (1995),
“Vernonia amygdalina as a supplement to teff straw
(Eragrostis tef) fed to Ethiopian Menz sheep”, Agrofor. Syst.,
Vol.31, pp.229-241.
4. International Diabetes Federation (2011), Guideline for
Management of PostMeal Glucose in Diabetes.
5. Item JA, Khoo BY, Muhammad IU, et al (2014), “Vernonia
amygdalina simultaneously suppresses gluconeogenesis and
potentiates glucose oxidation via the pentose phosphate
pathway in streptozotocin-induced diabetic rats”, BMC
Complement Altern Med.,Vol.14, pp. 426.
6. Manach C, Scalbert A, Morand C, Remesy C, Jimenez H
(2004), “Polyphenols: food sources and bioavailability”, The
American Journal of Clinical Nutrition, Vol.79, pp. 727- 747.
7. Nwanjo HU (2005), “Efficacy of aqueous leaf extract of
vernonia amygdalina on plasma lipoprotein and oxidative
status in diabetic rat models”, Niger J Physiol Sci.,Vol.20(1-2),
pp.39-42
8. Okeke EC (1998), “The use and chemical content of some
indigenous Nigerian spices”, J. Herbs Spices Med. Plants, Vol.
5(4), pp.51-63.
9. Osinubi AAA (2007), “Effects of Vernonia amygdalina and
chlorpropamide on blood glucose”, Med.J. Islam. World Acad.
Sci., 16: 115-119.
10. Phạm Thị Lan Anh (2012), Hiệu quả kiểm soát glucose máu, cải
thiện một số chỉ tiêu hóa sinh của thực phẩm chức năng chiết xuất
từ lá vối- ổi – sen (VOSCAP) trên người bệnh đái tháo đường type 2
tại Hà Nội, Luận văn tiến sĩ chuyên ngành dinh dưỡng Đại học
Y Hà Nội.
11. Rahman A, Zaman K (1989), “Medical plants with
hypoglycemic activity”, The Journal of Ethnopharmacology, Vol.
26, pp.1-55.
12. Sabu M, Kuttan R (1982), “Antidiabetic activity of medicinal
plants and its relationship with their antioxidant property”,
The Journal of Ethnopharmacology, Vol.81, pp.155-160.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 423
13. Taiwo IA, Odeigah PGC, Ogunkanmi LA (2009), “The
glycaemic effects of Vernonia amygdalina and Vernonia
tenoreana with tolbutamide in rats and the implications for
the treatment of diabetes mellitus”, J. Sci. Res. Dev., Vol.11,pp.
122-130.
14. Wolever TMS (2004), "Effect of blood sampling schedule and
method calculating the area under the curve on validity and
precision of glycaemic index values", Br J Nutr, Vol. 91,
pp.295-300.
15. Yeap SK, Ho WY, Beh BK et al (2010), “Vernonia amygdalina,
an ethnoveterinary and ethnomedical used green vegetable
with multiple bioactivities” (Review), Journal of Medicinal
Plants Research Vol. 4(25), pp. 2787-2812.
16. Ylonen K, Saloranta C, Kronberg C, Leif G, Antti A, Suvi M,
Virtanean M (2003), “Associations of Dietary Fiber with
Glucose Metabolism in Non diabetic relatives of subjects with
Type 2 Diabetes”, Diabetes care Vol.26, pp.1979-1985.
Ngày nhận bài báo: 05/10/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/10/2017
Ngày bài được đăng: 20/04/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- buoc_dau_danh_gia_hieu_qua_giam_duong_huyet_sau_an_tren_nguo.pdf