Tài liệu Bước đầu đánh giá bệnh lý nhiễm trùng cột sống điều trị tại khoa ngoại thần kinh – BV Nguyễn Tri Phương: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 92
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ BỆNH LÝ NHIỄM TRÙNG CỘT SỐNG
ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA NGOẠI THẦN KINH – BV NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Võ Thành Nghĩa*, Nguyễn Minh Đức**, Trần Dạ Vương**, Lê Thái Bình Khang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm trùng cột sống là bệnh lý ít gặp nhưng là bệnh cảnh lâm sàng quan trọng, cần được điều
trị tích cực. Những yếu tố nguy cơ đã được biết đến như lớn tuổi, đái tháo đường, suy giảm miễn dịch, tiền căn
phẫu thuật cột sống. Vị trí tổn thương thường gặp nhất là cột sống thắt lưng, kế đến là cột sống cổ, cột sống ngực
và cột sống cùng. Tổn thương ở cột sống ngực thường gây ra các triệu chứng thần kinh.
Mục tiêu: Phân tích bệnh cảnh lâm sàng, vi khuẩn học, hình ảnh học và điều trị của bệnh lý nhiễm
trùng cột sống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 41 trường hợp nhiễm trùng cột sống được
điều trị tại khoa Ngoại Thần...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá bệnh lý nhiễm trùng cột sống điều trị tại khoa ngoại thần kinh – BV Nguyễn Tri Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 92
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ BỆNH LÝ NHIỄM TRÙNG CỘT SỐNG
ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA NGOẠI THẦN KINH – BV NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Võ Thành Nghĩa*, Nguyễn Minh Đức**, Trần Dạ Vương**, Lê Thái Bình Khang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm trùng cột sống là bệnh lý ít gặp nhưng là bệnh cảnh lâm sàng quan trọng, cần được điều
trị tích cực. Những yếu tố nguy cơ đã được biết đến như lớn tuổi, đái tháo đường, suy giảm miễn dịch, tiền căn
phẫu thuật cột sống. Vị trí tổn thương thường gặp nhất là cột sống thắt lưng, kế đến là cột sống cổ, cột sống ngực
và cột sống cùng. Tổn thương ở cột sống ngực thường gây ra các triệu chứng thần kinh.
Mục tiêu: Phân tích bệnh cảnh lâm sàng, vi khuẩn học, hình ảnh học và điều trị của bệnh lý nhiễm
trùng cột sống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 41 trường hợp nhiễm trùng cột sống được
điều trị tại khoa Ngoại Thần Kinh, bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 3/2011 đến tháng 12/2015.
Kết quả: Có 32 (78,05%) trường hợp nhiễm trùng cột sống do vi trùng sinh mủ, 9 (21,95%) trường hợp lao
cột sống. Đau lưng và sốt là những triệu chứng thường gặp, chiếm 56,1%. 7 (17,07%) trường hợp được phẫu
thuật. Vi khuẩn định danh được thường gặp là Staphylococcus aureus. Ceftazidim và vancomycin là những
kháng sinh được lựa chọn hàng đầu. Thời gian sử dụng kháng sinh đường tĩnh mạch trung bình là 28,7 ngày.
Kết luận: Điều trị nhiễm trùng cột sống đòi hỏi thời gian sử dụng và kháng sinh thích hợp. Staphylococcus
aureus là vi khuẩn thường gặp. Hầu hết các trường hợp có thể điều trị nội khoa. Chỉ định phẫu thuật khi cần giải
áp ống sống và thất bại điều trị nội.
Từ khóa: nhiễm trùng cột sống.
ABSTRACT
EARLY RESULTS OF SPINAL INFECTION TREATMENT AT NEUROSURGERY DEPARTMENT –
NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL
Vo Thanh Nghia, Nguyen Minh Duc, Tran Da Vuong, Le Thai Binh Khang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 92 - 97
Background: Spinal infections are rare pathology but are an important clinical problem that often require
aggressive medical therapy, and sometimes even surgery. Known risk factors are advanced age, diabetes mellitus,
immunosuppression, previous surgical procedures involving or adjacent to the intervertebral disc space. The most
common level of involvement is at the lumbar spine, followed by the thoracic, cervical and sacral levels: lesions at
the thoracic spine tend to lead more frequently to neurological symptoms.
Objectives: To analyze the bacteriology, clinical manifestations, management and images of spinal
infections.
Methods: Retrospective review of 41 patients who had spinal infections and were managed medically and
surgically from Mar. 2011 - Dec. 2015.
Results: Back pain and fever are dominant symptoms 56.1%. There were 32 cases of pyogenic infections and
9 cases of tuberculosis. We had carried out operated 7 cases and medical treatments of 34 cases. The most common
bacterium isolated was Staphylococcus aureus (S. aureus). The first choice of antibiotics was ceftazidim and
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS CKII Lê Thái Bình Khang ĐT: 0913 192 256 Email: phuongkhang2007@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 93
vancomycin. The mean duration of antibiotic perfusions was 28.7 days.
Conclusion: Antibiotic therapy is required effectively and appropriate durations. Staphylo. aureus is
common bacterium isolated. Most cases were managed medically. Some cases were operated with indications of
spinal decompression or failed medical treatments.
Key words: spinal infection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng cột sống là bệnh lý ít gặp trong
thực hành hàng ngày. Tỷ lệ nhiễm trùng cột
sống là 1/100.000 - 1/250.000 dân, nhưng là một
bệnh lý nguy hiểm có thể dẫn tới những biến
chứng nguy hiểm: nhiễm trùng huyết, áp xe
trong ống sống gây chèn ép tuỷ gây liệt chi,(1)
Bệnh cảnh của nhiễm trùng cột sống có thể là
nguyên phát hay thứ phát sau một phẫu thuật
cột sống.
Ngày nay, mặc dù có nhiều sự tiến bộ
trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý nhiễm
trùng cột sống, từ chụp cộng hưởng từ, PCR,
xét nghiệm sinh hóa, cấy – định danh vi trùng
cho đến sự ra đời của các loại kháng sinh mới.
Nhưng dự hậu của bệnh nhân vẫn chưa được
khả quan vì nếu việc chẩn đoán trễ hay chỉ
định phẩu thuật không kịp thời sẽ dẫn tới các
biến chứng nặng hay di chứng(6), vì vấn đề
chẩn đoán và điều trị bệnh lý nhiễm trùng cột
sống còn nhiều bàn luận như các yếu tố nguy
cơ, triệu chứng lâm sàng, hiệu quả của các
phương pháp chẩn đoán và điều trị.
Nhằm có cái nhìn cụ thể bệnh cảnh nhiễm
trùng cột sống như là bệnh cảnh lâm sàng, hình
ảnh học, yếu tố vi khuẩn, điều trị nội, chỉ định
điều trị phẩu thuật chúng tôi thực hiện nghiên
cứu đề tài “Bước đầu đánh giá kết quả điều trị
nhiễm trùng cột sống tại Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương”, nhằm rút ra những nhận xét cho phục
vụ thực hành lâm sàng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu cắt ngang mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
41 bệnh nhân được điều trị bệnh lý nhiễm
trùng cột sống tại khoa Ngoại Thần Kinh – BV
Nguyễn Tri Phương, từ tháng 06/2011 đến
tháng 12/2015.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Hồi cứu trên hồ sơ bệnh án theo mẫu được
thiết kế sẵn. Số liệu được xử lý bằng phần mềm
SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Từ tháng 06/2011 đến tháng 12/2015, chúng
tôi tiến hành hồi cứu trên 41 bệnh nhân, ghi
nhận được kết quả như sau:
Tuổi, giới
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 50,2 ±
16,78 (19 – 87). 21 (51%) bệnh nhân nam, 20
(49%) bệnh nhân nữ.
Lý do nhập viện và tiền căn phẫu thuật
cột sống
Lý do nhập viện thường gặp nhất là đau
lưng (56,1%), kế đến là rỉ dịch vết mổ (21,9%), sốt
(17,0%), và 5,0% do các nguyên nhân khác.
Trong đó, có 17 (41,5%) bệnh nhân có tiền căn
phẫu thuật cột sống.
Vị trí tổn thương và triệu chứng lâm sàng
32 (78,0%) trường hợp nhiễm trùng cột sống
thắt lưng, 5 (12,2%) nhiễm trùng cột sống ngực,
và 4 (9,8%) bệnh nhân nhiễm trùng cột sống cổ.
Trong đó, 37 (90,2%) bệnh nhân có triệu chứng
đau cột sống và 27 (58,5%) bệnh nhân có triệu
chứng đau theo rễ thần kinh.
Cận lâm sàng và hình ảnh học
Bảng 1: Cận lâm sàng và hình ảnh học
Yếu tố cận lâm sàng Kết quả
MRI
cột sống
Áp xe trong ống sống 24 bn (68,5%)
Có dịch
trong
đĩa
đệm
Áp xe cạnh cột sống 18 bn(51,4%)
Tổn thương endplate 25 bn(71,9%)
Bất thường đĩa đệm 15 bn (42,7%)
Huỷ thân sống 10 bn (28,5%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 94
Vi khuẩn được định danh
12 (29,3) trường hợp cấy được tác nhân gây
bệnh là: Staphylococcus (14,6%), E.coli (2,4%),
Enterobacter cloacae (2,4%), Enterococcus
Faceallis(2,4%), Klebseilla Pneumoniae (2,4%),
Proteus Mirabilis, Pseudomonas (2,4%). Ngoài
ra, có 2 trường hợp có xét nghiệm PCR lao
dương tính.
Kháng sinh đã dùng
31 (75,6%) sử dụng Ceftazidim, 25 (70,0%)
Vancomycin, 12 (29,3%) Linezolide, 6 (14,6%)
Meropenem, 6 (14,6%) Rifampicin.
Kết quả điều trị
Chúng tôi ghi nhận 32 (78,0%) trường hợp
nhiễm trùng cột sống do vi khuẩn sinh mủ và 9
(22,0%) trường hợp lao cột sống. Có 5 trường
hợp phải phẫu thuật vì điều trị nội thất bại và 2
trường hợp phẫu thuật giải áp cấp cứu do có áp
xe ngoài màng tuỷ. Thời gian điều trị trung bình
là 28,7 ± 17,30 ngày.
BÀN LUẬN
Lâm sàng
Các nghiên cứu trên thế giới(1) cho thấy độ
tuổi thường gặp của nhiễm trùng cột sống là từ
49 – 63 tuổi. Trong nghiên cứu chúng tôi, độ tuổi
trung bình là 50,2 ± 16,78 (19 – 87), tương tự các
nghiên cứu khác.
Chúng tôi ghi nhận triệu chứng đau lưng là
lý do nhập viện thường gặp nhất ở bệnh nhân 23
ca (56,1%), và khi khám lâm sàng thì triệu chứng
đau cột sống tại nơi tổn thương chiếm 37ca
(90,2%). Các nghiên cứu về viêm thân sống, đĩa
đệm(6,1,14) đều ghi nhận đau cột sống gặp ở 90 -
100%. Tuy nhiên Gouliouris(10), Bhavan(3) trong
nghiên cứu của mình có ghi nhận khoảng 15%
bệnh nhân không than đau cột sống, có thể gặp ở
những bệnh nhân bị liệt 2 chân.
Các nghiên cứu đều cho thấy khi có triệu
chứng sốt thì ít gặp triệu chứng đau lưng tại chổ.
Theo Gouliouris(10) sốt được ghi nhận < 50% bệnh
nhân. Theo Mann(14) là 38%, nhưng ngược lại
theo Govender(4) sốt được ghi nhận 60 - 70% BN
nhiễm trùng cột sống sau mổ. Trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ ghi nhận có 5ca (12,2%) và
trong nhóm 9 bệnh nhân được chẩn đoán lao thì
chỉ có 1 trường hợp (11,1%). Các triệu chứng
toàn thân (ớn lạnh, chán ăn, sụt cân) thường rõ
ràng trong bệnh cảnh lao tiến triển.
Các triệu chứng thần kinh là do biến chứng
của ổ áp xe chèn ép trong tuỷ sống. Theo
Mann(14) tỷ lệ triệu chứng này rất thay đổi tại thời
điểm nhập viện, nhưng trong nhiều nghiên cứu
có thể tăng lên đến 60%. Trong nghiên cứu của
mình, chúng tôi ghi nhận triệu chứng đau theo
rễ hiện diện ở 24 (58,2%) trường hợp, yếu chân 9
(22%) trường hợp và 1 ca được ghi nhận có hội
chứng chùm đuôi ngựa.
Hình ảnh học
Hiện nay, hình ảnh MRI cột sống được các
nghiên cứu cho là công cụ chính trong chẩn
đoán nhiễm trùng cột sống và được xem là tiêu
chuẩn vàng trong chẩn đoán, với độ nhạy 96%,
độ chuyên biệt 92% và độ chính xác là 94% (9,6,14).
Theo Skaf(9) vai trò của MRI giúp chẩn đoán
đúng đối với các bệnh nhân có thời gian bệnh
trước 2 tuần là 55% và sau 2 tuần là 76% các ca
được chẩn đoán viêm thân sống đĩa đệm do vi
khuẩn. Các tổn thương trên MRI được ghi nhận
là viêm đĩa đệm thân sống, áp xe trong ống sống,
áp xe cạnh ống sống. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi đã ghi nhận hình ảnh tổn thương đĩa
tận endplate, áp xe cạnh sống và trong ống sống
chiếm tỷ lệ cao.
Trong mẫu nghiên cứu có 9 trường hợp
lao,đều ghi nhận hình ảnh áp xe lớn trong mô
mền cạnh thân sống. Theo tác giả Joseffer(13),
những dấu hiệu hướng đến lao cột sống như là
tổn thương rất ít đĩa đệm, lan rộng dưới dây
chằng và tạo áp xe lớn cạnh sống có hóa vôi bên
trong với vỏ bao bắt thuốc dạng viền. Và đó là
những dấu hiệu hữu ích để hướng đến chẩn
đoán bệnh lý không thường gặp này.
Qua hồi cứu các hồ sơ chúng tôi nhận thấy
thực tế ở khoa, việc chẩn đoán lao cột sống phần
lớn dựa vào đặc điểm hình ảnh học và diễn tiến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 95
bệnh sử (thường không tiền căn mổ cột sống
trước đó) hay tiền căn BN có lao, chúng tôi cũng
có phẫu thuật làm sạch và giải ép, lấy bệnh
phẩm làm vi sinh, PCR lao thi ghi nhận được kết
quả 2/41 ca PCR lao + (4,8%), có 1 ca thực hiện
sinh thiết qua chân cung nhưng kết quả âm tính.
Nói chung, về mặt hình ảnh học các tác giả
đều dựa vào đặc điểm tổn thương ở 3 vị trí: thân
sống, đĩa đệm đặc biệt vị trí địa tận (endplate)
giàu mạch máu và mô mền cạnh thân sống. Đối
với bệnh lý nhiễm trùng vi khuẩn sinh mủ thì
giai đoạn sớm: giảm tín hiệu trên T1, tăng trên
T2 (do viêm phù tuỷ xương) và bắt thuốc mạnh
ở vùng đĩa đệm, ổ absces cạnh thân sống thường
nhỏ thành dày. Còn trong tổn thương lao thì do
tổn thương lan theo dưới dây chằng dọc trước,
sau kéo dài qua nhiều tầng đốt sống, ổ absces
cạnh sống thường to, thành bắt thuốc mỏng và
do vi khuẩn lao không có men tiêu nhân đệm,
nên vùng đĩa tận bắt thuốc mạnh nhăm nhở,
thân sống bị huỷ mà hình ảnh đĩa đệm vẫn còn
nguyên trên T2(8,7).
Vi sinh
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thực
hiện tìm tác nhân vi sinh qua 30 ca bằng cấy
dịch, làm PCR lao dịch vết mổ bị nhiễm trùng
hay dịch lấy được trong quá trình mổ làm sạch
tầng cột sống bệnh lý. Tuy nhiên kết quả vi sinh
chỉ đạt được ở 12ca (40%) và Staphylococcus
chiếm 50% trong 12 ca cấy dương tính. Còn trực
khuẩn lao trong bệnh phẩm cấy vi sinh, chúng
tôi không có được kết quả trực tiếp mà chỉ có kết
quả trung gian là PCR lao dương tính với kết
quả 2 mẫu dương tính trong 30 mẩu làm PCR lao
và vi sinh. Theo y văn, kết quả cấy âm tính
thường là 29 - 50% các trường hợp, tụ cầu
Staphylococcus chiếm tỷ lệ cao nhất 50% - 80%(8),
vi khuẩn Gram(-) thường gặp nhất là E. coli
25%(8). Tuy nhiên, trong mẫu nghiên cứu của
chúng tôi chưa ghi nhân được trường hợp nhiễm
vi nấm.
Kết quả điều trị
Điều trị nhiễm trùng cột sống, hiện nay đều
nêu hai chọn lựa là: điều trị nội khoa và điều trị
phẩu thuật(10). Nguyên tắc của điều trị là: diệt
sạch ổ nhiễm trùng, bảo tồn – phục hồi các cấu
trúc, chức năng, bảo đảm độ vững đoạn cột sống
bệnh và bệnh nhân phải hết đau.
Trong nghiên cứu, có 34 (83%) trường hợp
được điều trị nội khoa với phác đồ phối hợp
kháng sinh theo kháng sinh đồ, theo các bảng
hướng dẫn đều qua đường tiêm và thời gian
điều trị trung bình là 28,7 ngày. Trong khi chờ
kết quả vi khuẩn học, chúng tôi thường chọn
lựa phối hợp các kháng sinh phổ rộng, đặc
biệt là phải hiệu quả với tụ cầu, thường là
Ceftazidim 6g/ngày + Vancomycin 2g/ngày
qua đường tĩnh mạch.
Sau khi có được kết quả vi sinh, chúng tôi sẽ
đổi lại kháng sinh theo kháng sinh đồ với thời
gian trung bình là 28,7 ngày. Theo dõi các triệu
chứng đau, sốt, dấu hiệu thần kinh và yếu tố VS,
CRP, số lượng bạch cầu để đánh giá hiệu quả
của điều trị kháng sinh. Chúng tôi cũng theo dõi
các yếu tố bệnh nền (tiểu đường, cushing, bệnh
thận mạn,) để điều trị tích cực. Chức năng
thận luôn được lưu tâm vì thường sử dụng
Vancomycin kéo dài. Chúng tôi có 4 ca có biểu
hiện dị ứng với Vancomycin và 1 ca ghi nhận sốt
âm ỉ kéo dài, mà khi ngưng sử dụng
Vancomycin và đổi sang Linezolide 0,6g 2v/ngày
thì các triệu chứng này cải thiện.
Tác giả Alberto Di Martino và cộng sự(1) đã
thực hiện một nghiên cứu tổng kết 300 nghiên
cứu ghi nhận.
Thời gian điều trị kháng sinh được khuyến
cáo qua các nghiên cứu là 4 - 6 tuần và theo
dõi đến hết 3 tháng. Nếu thời gian điều trị
kháng sinh hiệu quả trung bình 28 - 32 ngày
thì tỉ lệ lành bệnh sau 6 tháng theo dõi là 90% -
91%, tỷ lệ sống không bị tái phát sau 1 năm là
88%. Khi thực hiện phân tích meta –analysis
22 ca, tác giả thấy tỷ lệ hết bệnh tại thời điểm 1
năm là 79% (p = 0,05).
Nếu nhiễm trùng trên bệnh nhân có đặt
dụng cụ thì việc phối hợp với Rifamycin thấy có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 96
hiệu quả hơn.
Có 7 nghiên cứu so sánh mù đôi về
quinolon đường uống và đường truyền thấy
không có sự khác biệt và là lựa chọn ban đầu
khi vi khuẩn là Gram(-).
Khi tác nhân là Brecella spp., thời gian điều
gian điều trị kháng sinh là từ 6 - 24 tuần.
Có 7ca (17%) được phẫu thuật.Chúng tôi đã
thực hiện đặt dụng cụ lối sau cho 2 ca mổ lao cột
sống sau 2 tháng điều trị bệnh lao với chỉ định
mất vững cột sống. Kết quả theo dõi hậu phẩu
tốt, bệnh nhân được cải thiện triệu chứng đau rất
nhiều. Vấn đề quan trọng ở đây là thời điểm can
thiệp phẩu thuật, điểm lại các y văn cho thấy
thời điểm can thiệp phẩu thuật, mổ ở giai đoạn
nào và phương cách phẩu thuật, đặc biệt có đặt
dụng cụ ngay không?, là những điểm còn nhiều
bàn cải. Hầu hết các tác giả không đề cập một
thời điểm nào cụ thể mà chỉ nhấn mạnh trong
quá trình điều trị mà thấy tình trạng bệnh nhân
có phù hợp với chỉ định phẩu thuật mổ là tiến
hành phẩu thuật(4,10,12,1,11,2), với các phương cách
tiếp cận:mổ lối trước/lối sau, đặt dụng cụ?, đặt
ngay ở lần mổ đầu hay ở thì sau. Do chưa có một
hướng dẫn chinh thức nào, nên để quyết định
điều này các nghiên cứu cho thấy phẫu thuật
viện thường dựa vào các yếu tố: tình trạng bệnh,
tầng cột sống bị nhiễm trùng, tính trạng sức
khỏe tổng quát của bệnh nhân và kinh nghiệm
phẫu thuật của mình(11).
Trong lô nghiên cứu chúng tôi không có ca
nào tử vong trong lúc nằm viện, 32 bệnh nhân
nhiễm vi khuẩn đều đỡ giảm. Tuy nhiên chúng
tôi đã có khuyết điểm là không theo dõi toàn bộ
bệnh nhân sau 3 tháng – 1năm để đánh giá được
là khỏi bệnh hoàn toàn chưa ? hay chức năng cột
sống sau 3-6-12 tháng. Theo Irene S Kourbeti(10),
tỷ lệ tử vong đối với nhiễm trùng cột sống là từ
2-20%, và 5% đối với các trường hợp nặng có áp
xe ngoài màng cứng. Với thời gian theo dõi
trung bình sau 5,4 năm, tác giả ghi nhận có 33%
bệnh nhân bị giảm chưc năng cột sống. Yếu tố
dấu hiệu thần kinh kéo dài trên 8 tuần là một
dấu hiệu dự đoán tỷ lệ hồi phục kém.
KẾT LUẬN
Nhiễm trùng cột sống, đặc biệt nhiễm trùng
thân sống đĩa đệm là một bệnh cảnh ít gặp
nhưng sẽ diễn tiến nặng đe doạ tính mạng cũng
như chức năng thần kinh bệnh nhân nếu điều trị
không kịp thời. Do đó việc chẩn đoán và điều trị
đòi hỏi phải kịp thời bài bản. Các triệu chứng
lâm sàng cơ bản đau, sốt và dấu hiệu thần kinh
phải xem xét kỹ nhất là trên các bệnh nhân có
yếu tố nguy cơ.Tác nhân vi khuẩn thường gặp
nhất là tụ cầu. Điều trị nội khoa chiếm đa số với
thời gian kháng sinh đường tĩnh mạch là 4 - 6
tuần đối với vi khuẩn. Điều trị phẫu thuật thì ít
hơn nhưng phải có chỉ định phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di Martino A, Papapietro N, Lanotte A, Russo F, Vadalà G,
Denaro V.. (2012): Spondylodiscitis: standards of current
treatment, Current Medical Research & Opinion Vol. 28, No. 5:
689–699
2. Emery SE, (2011): Spinal Infection/Osteomyelitis in Textbook
of Spinal Surgery, 3rd Edition, Vol.2: 1553-1559, by
LIPPINCOTT WILLIAMS & WILKINS
3. Gouliouris T, Aliyu SH, Brown NM. (2010): Spondylodiscitis:
update on diagnosis and management J Antimicrob Chemother; 65
Suppl 3: 11–24
4. Govender S., (2005): Spinal infections, Review Article J Bone
Joint Surg [Br],87-B:1454-8.
5. Greenberg SM (2010). Spine infections, in: Greenberg SM.
Handbook of Neurosurgery, 7th edition, pp: 376-393, Thieme,
New York.
6. Greenberg SM (2016). Spine infections, in: Greenberg SM.
Handbook of Neurosurgery, 8th edition, pp: 349-351 Thieme,
New York.
7. Jay A., Wende N. Gibbs, (2016): Review Imaging spinal
infection, Radiology of Infectious Diseases 3: 84-91
8. Joseffer SS, and Cooper PR (2005): Modern imaging of spinal
tuberculosis, Journal of Neurosurgery: SpineFebruary / Vol. 2 /
No. 2: 145-150
9. Kavita P. B., Jonas M., Margaret A. O., Victoria J. F., Neill M.
W., (2010) The epidemiology of hematogenous vertebral
osteomyelitis: a cohort study in a tertiary care hospital, BMC
Infectious Diseases, 10:158
10. Mann S, Schütze M, Sola S, Piek J., (2004): Nonspecific
pyogenic spondylodiscitis: clinical manifestations, surgical
treatment, and outcome in 24 patients. Neurosurg Focus
17(6):E3,
11. Mavrogenis AF et al., (2015): When and how to operate on
spondylodiscitis: a report of 13patients, European Journal of
Orthopaedic Surgery & Traumatology July
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 97
12. Rui M., Duarte, Alexander R., Vaccaro, (Spinal infection: state
of the art and management algorithm, Eur Spine J, DOI
10.1007/s00586-013-2850-1
13. Skaf GS, Domloj NT, Fehlings MG, Bouclaous CH, Sabbagh
AS, Kanafani ZA, Kanj SS, (2010): Pyogenic spondylodiscitis:
An overview, Journal of Infection and Public Health 3: 5—16
14. Woertgen C, Rothoerl RD, Englert C, Neumann C. (2006):
Pyogenic spinal infections and outcome according to the 36-
Item Short Form Health Survey, J. Neurosurg: Spine 4(6):441-6.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/11/2016
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- buoc_dau_danh_gia_benh_ly_nhiem_trung_cot_song_dieu_tri_tai.pdf