Tài liệu Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong của người Chăm ở Nam Trung Bộ: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
130
Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong
của người Chăm ở Nam Trung Bộ
Symbols in the Rija Praong festival among Cham people in South Central Vietnam
ThS. Từ Thị Phi Điệp,
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
Tu Thi Phi Diep, M.A.,
Southern Institute of Social Sciences
Tóm tắt
Rija Praong là lễ hội múa lớn nằm trong hệ thống lễ hội dân gian của người Chăm do tộc họ tổ chức, có
ảnh hưởng của văn hóa Hồi giáo từ Malaysia. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong hệ thống
lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm mang tính ma thuật, nghiêng về phương thức trình diễn, múa hát,
kịch nghệ nhằm để chữa bệnh, cầu cúng tổ tiên và vị thần linh phù hộ độ trì dân chúng. Nhiều biểu
tượng nghi lễ, diễn xướng xuất hiện trong lễ hội này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc của lễ hội
và sự gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng của họ đến thần linh, gia đình, tộc họ, thông qua đó hiểu
được những giá trị của văn h...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 533 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong của người Chăm ở Nam Trung Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
130
Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong
của người Chăm ở Nam Trung Bộ
Symbols in the Rija Praong festival among Cham people in South Central Vietnam
ThS. Từ Thị Phi Điệp,
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
Tu Thi Phi Diep, M.A.,
Southern Institute of Social Sciences
Tóm tắt
Rija Praong là lễ hội múa lớn nằm trong hệ thống lễ hội dân gian của người Chăm do tộc họ tổ chức, có
ảnh hưởng của văn hóa Hồi giáo từ Malaysia. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong hệ thống
lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm mang tính ma thuật, nghiêng về phương thức trình diễn, múa hát,
kịch nghệ nhằm để chữa bệnh, cầu cúng tổ tiên và vị thần linh phù hộ độ trì dân chúng. Nhiều biểu
tượng nghi lễ, diễn xướng xuất hiện trong lễ hội này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc của lễ hội
và sự gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng của họ đến thần linh, gia đình, tộc họ, thông qua đó hiểu
được những giá trị của văn hóa Chăm trong sự giao lưu tiếp biến với văn hóa bên ngoài. Bài viết trình
bày một số biểu tượng và ý nghĩa của nó trong lễ hội Rija Praong của người Chăm vùng Nam Trung Bộ.
Từ khóa: biểu tượng, âm nhạc, múa, người Chăm, Rija Praong.
Abstract
Rija Praong is a big dancing festival in the set of folk festivals held by Cham families, due to the
influence of Islamic culture from Malaysia. It is one of the important religious rites of Cham people,
imbued with the witchcraft practice and inclined to the folk dancing, singing and dramatic performance
for the purpose of curing sick people, making worship to the ancestors and the deities, and asking for
blessing. Many ritual symbols and performing activities carried out in the festival provide us with
further understanding of the origin of the festival as well as the aspirations and desires that Cham people
would like to pray for and whereby we can realize the folk cultural values of Cham people in the
acculturation and exchange with the external cultures. The paper focuses on describing some symbols
and their meanings in the Rija Praong festival of Cham people in South Central Vietnam.
Keywords: symbol, music, dance, Cham people, Rija Praong.
1. Một vài quan niệm về biểu tượng
Về mặt thuật ngữ, biểu tượng (symbol
trong tiếng Anh) là một từ bắt nguồn từ
ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong
tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy
Lạp). Theo Từ điển biểu tượng (Dictionary
of Symbols) của C. G. Liungman thì
“những gì được gọi là biểu tượng khi nó
được một nhóm người đồng ý rằng nó có
nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho
chính bản thân nó”. Biểu tượng có tính đa
nghĩa nhưng chúng ta có thể chia làm hai
nghĩa chính là biểu hình (visible sign) và
biểu ý (idea). Ở giai đoạn ban đầu có lẽ
ngôn ngữ biểu tượng thường mang tính
đơn giản và ước lệ. Về sau, do sự phát triển
của xã hội loài người, ngôn ngữ biểu tượng
ngày càng được mở rộng đến mọi thành tố
TỪ THỊ PHI ĐI P
131
văn hóa và mọi mặt đời sống của con
người. Bên cạnh đó, ý nghĩa của các biểu
tượng cũng ngày càng rộng lớn hơn, trừu
tượng hơn và tính chất biểu đạt cũng không
còn ranh giới giữa biểu hình và biểu ý như
giai đoạn đầu mà thường là sự kết hợp của
cả hai [1].
Biểu tượng là cách dùng hình này để
tỏ nghĩa nọ, là mượn một cái gì đó để
tượng trưng cho một cái gì khác. Trên tinh
thần đó, có người coi biểu tượng là một cái
gì, ngoài ý nghĩa vốn có của nó, còn hàm
chứa một ý nghĩa khác, tức ngoài nghĩa
đen còn có nghĩa bóng.
Biểu tượng là một sản phẩm đặc biệt
trong đời sống của con người. Khi chưa có
biểu tượng, con người chỉ sống với thực tại
nhưng khi đã hình thành hệ thống biểu
tượng (tức là hệ thống của những sự vật,
hiện tượng được gán cho các ý nghĩa) thì
con người sống đồng thời với hai thế giới:
thế giới thực tại và thế giới của các biểu
tượng. Thật đúng như các tác giả của Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới đã nói:
“Chúng ta không chỉ sống trong một thế
giới biểu tượng, mà còn một thế giới biểu
tượng sống trong chúng ta” [2].
Nhân học biểu tượng còn được biết đến
với một cái tên khác là nhân học diễn giải
(interpretive anthropology) một bộ môn
khoa học nơi các nhà khoa học ủng hộ việc
giải thích văn hoá thông qua ý nghĩa của
các biểu tượng. Quan niệm của các nhà
nhân học theo trường phái này là tiếp cận
các “quan điểm bản địa” (native point of
view) để tìm hiểu tính chất trừu tượng và đa
nghĩa của các biểu tượng. Tại đây các biểu
tượng được sáng tạo và sử dụng trong cộng
đồng và trong quá trình giao tiếp của xã hội
loài người. Mỗi biểu tượng đặc trưng
thường đại diện cho một ý nghĩa văn hóa
riêng nhưng sự cộng hưởng của chúng lại
chính là sự định dạng của đời sống văn hóa
thông qua tính “động” đặc thù của văn hóa.
Quan điểm của Victor Turner và
Clifford Geertz về thuyết nhân học biểu
tượng như sau: “Biểu tượng là đơn vị nhỏ
nhất của nghi lễ, cái giữ lại những thuộc
tính cụ thể của hành vi nghi lễ, nó đơn vị
cơ bản của một cấu trúc cụ thể trong bối
cảnh nghi lễ”. “Nghi lễ là hành vi được quy
định có tính chất nghi thức dành cho những
dịp, không liên quan đến các công việc có
tính chất kỹ thuật hàng ngày, mà có quan
hệ với các niềm tin vào đấng tối cao hay
các sức mạnh thần bí” [3].
Ông quan tâm tới sự vận hành của biểu
tượng trong việc duy trì xã hội. Biểu tượng
vận hành trong tiến trình xã hội, khi gộp lại
với nhau theo một sắp xếp nào đó trong
một bối cảnh (đặc biệt là trong nghi lễ), sẽ
tạo nên một sự chuyển đổi xã hội căn bản.
Diễn giải về biểu tượng có thể được rút ra
từ ba cấp độ: 1) hình dạng bên ngoài và đặc
tính có thể quan sát, 2) diễn giải của chuyên
gia và thường dân trong xã hội, 3) suy luận
từ bối cảnh cụ thể của nhà nghiên cứu.
Clifford Geertz xem văn hóa là một
tập hợp có tổ chức các hệ thống biểu
tượng. Văn hoá không phải là một mô hình
trong đầu con người mà nằm trong biểu
tượng và hành động tập thể. Biểu tượng là
phương tiện chuyển tải ý nghĩa. Ông không
quan tâm tới việc biểu tượng thể hiện chức
năng văn hoá ra sao, mà xem xét biểu
tượng ảnh hưởng đến cách con người nghĩ
về thế giới của họ như thế nào.
Lý thuyết biểu tượng và diễn giải của
Victor Turner, Clifford Geertz giúp bài viết
phân tích và giải thích ý nghĩa những biểu
tượng xuất hiện trong diễn trình nghi lễ
trong lễ hội Rija Praong của người Chăm.
Trong lễ hội này, các biểu tượng luôn đi
thành cặp đôi như thầy Maduen gắn với bà
Raja, thầy Maduen gắn với trống baranưng,
Ciét atau và hai chiếc thuyền Đây cũng
BIỂU TƯỢNG TRONG LỄ H I RIJA PRAONG CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NAM TRUNG B
132
là những cặp biểu tượng mang yếu tố nhị
nguyên trong cấu trúc lễ. Những cặp biểu
tượng này phản ánh cốt lõi nội dung và ý
nghĩa của lễ. Đó là tục tôn thờ tổ tiên, tôn
thờ các vị thần Chăm và Mã Lai, cầu mong
con người thoát khỏi bệnh tật, sức khỏe dồi
dào, sinh sôi nảy nở, bình an.
2. Các hình thức biểu tượng chi phối
hoạt động trong Lễ hội Rija Praong
Lễ Rija Praong là một tín ngưỡng dân
gian của người Chăm mang tính ma thuật,
nghiêng về phương thức trình diễn, múa
hát, kịch nghệ nhằm để chữa bệnh, cầu
cúng tổ tiên và vị thần linh phù hộ độ trì
dân chúng. Đây là lễ nghi lớn nhất và quan
trọng nhất trong hệ thống lễ hội múa của
người Chăm. Theo Hải Liên, lễ Rija
Praong là lễ Trả nợ lời hứa. Khi gia tộc
làm ăn sa sút, dịch bệnh xảy ra cho người
và gia súc, tai họa đến với cháu con, lúc ấy
người tộc trưởng van vái bền trên phù hộ
cho gia tộc yên vui, làm ăn tấn tới, gia súc
đầy đàn Họ hứa sẽ tổ chức một lễ Rija
Praong để tạ ơn trên. Lời hứa đã nói thì
phải thực hiện, cho dù gia tộc ấy có nghèo
khổ đến đâu hoặc người hứa có thể đã chết,
nhưng cả gia tộc phải thực hiện, có khi sau
đó năm hoặc mười năm. Như vậy, việc
thực hiện lời hứa để trả nợ cho bề trên phù
hộ là mục đích và nguyên do sinh ra lễ Rija
Praong [4].
Trong suốt quá trình diễn ra lễ hội,
người Chăm dùng những hình ảnh, vật
dụng, đạo cụ, tranh vẽ để tượng trưng
cho từng sự việc mà thông qua đó họ muốn
gửi gắm những tâm tự, nguyện vọng đến
thần linh, gia đình, tộc họ.
2.1. Biểu tượng trong nghi lễ
Khai trầu lễ
Khai trầu lễ làm bằng gỗ có đế cao
khoảng 20cm, bên trên có cái mâm bằng
phẳng đường kính khoảng 30cm. Trên khai
trầu này người Chăm đan trầu thành ba
tầng cao khoảng 40cm. Đây là vật lễ chính,
đặt trang trọng ở chính giữa bàn tổ của nhà
lễ. Khai trầu là nơi trú ngụ của các vị thần
và cũng là biểu tượng cho linh hồn của các
vị thần được thờ cúng trong lễ Rija Praong.
Thon Hala có 3 tầng tượng trưng cho
cái tháp - tượng trưng cho Pô Bành Kìnà và
cũng là tượng trưng cho thân thể con người
(gồm đầu mình và tay chân) [5].
Tranh trang trí paning
Nhà lễ có một tranh trang trí duy nhất
gọi là paning. Tranh này được các nghệ
nhân Chăm vẽ trân vải, mô tả hình ảnh trần
gian và thiên đường theo từng mẫu chuyện
và sức tưởng tượng của người xưa. Một
paning thường được vẽ nhiều hình khác
nhau như hình rồng bay, voi, ngựa, nhà
vua, kiệu, binh lính, dân thường. Bên cạnh
đó còn có những hình vẽ mô tả những lễ
vật dâng cúng như mâm trầu, chuối, xôi,
con dê hoặc vẽ những nhạc cụ như trống
ghinăng. baranưng, kèn saranai Đặc biệt
tranh còn vẽ những hình người đánh trống
nhảy múa và cuối cùng là hình ảnh quan lại
tham dự, thưởng thức lễ Rija Praong.
Nội dung của tranh trang trí paning
thường có 3 phần: 1) Phần trên nói về Cõi
trên (các thần linh); 2) Phần giữa nói về
Quý tộc; 3) Phần dưới nói về Dân gian. Có
khi vẽ 12 con giáp, có khi vẽ các vị thần,
mượn hình ảnh các vị thần trong trường ca
Ramayana, cũng có ảnh hưởng của Trung
Quốc, vẽ mái nhà có 3 cửa (tôn giáo
Bàlamôn vẽ xe trâu, cảnh đi lễ, thích gì
vẽ nấy nhưng không xa rời những nội dung
trên. Sau này họ vẽ thêm các huyền thoại
(từ trường ca Arya, Ramayana) nhưng
vẫn bảo đảm 3 nội dung trên. Mỗi tộc họ
có thể vẽ khác nhau, làng này vẽ khác làng
kia, vùng này vẽ khác vùng kia [6].
Có thể nói, những hình vẽ trên paning
thể hiện cấu trúc xã hội người Chăm - một
xã hội có giai cấp và chuyên làm nghề
TỪ THỊ PHI ĐI P
133
nông, đi biển, làm rừng
Ciét Atau/Ciét Praok
Ciét Atau - là một loại giỏ đan bằng
tre, hình hộp vuông có nắp đậy dùng để
đựng trang phục và vật lễ của tổ tiên.
Trong Ciét Atau thường có ít nhất ba bộ
trang phục, trong đó một bộ áo đỏ váy
trắng, khăn chụp (thay mão) dùng để múa
mừng vua chúa, một bộ áo váy nữ màu
trắng có khăn của nữ, dùng để múa mừng
Patri và một bộ áo váy nam, khăn nam
dùng để múa mừng Patra. Vật lễ này chỉ
duy nhất được bà Raja sử dụng, mặc trong
những dịp cúng lễ của tộc họ, đặc biệt
trong lễ Rija Praong để thờ cúng linh hồn
của hai vị thần Patri và Patra có nguốn gốc
người Mã Lai. Còn Ciét Praok được dùng
để đựng trang phục lễ của người trong họ
chết thiêng, linh hồn bất tử có khả năng
phù hộ độ trì con cháu. Từ đó tộc họ tôn
lên thành vị thần của tộc họ. Cả hai Ciét
Atau và Ciét Praok thường được người
Chăm thờ đôi với nhau, được xem là biểu
tượng của linh hồn tổ tiên.
2.2. Biểu tượng trong âm nhạc
Trống kinăng với hình dáng thuôn dài,
đường kính đầu nhỏ 15cm - 20cm, đường
kính đầu to khoảng 25cm - 30cm, chiều dài
khoảng 70cm - 80cm, khi sử dụng thường
để chéo nhau, rất giống đôi chân của một
người ngồi vắt chéo. Tang trống là một
thân gỗ khoét rỗng giữa, phía ngoài chằng
dây mây tạo nét thẩm mỹ và tránh khỏi vỡ.
Từ khi bắt đầu vào rừng đi tìm những
khúc gỗ thích hợp là phải có lễ cúng. Những
khúc gỗ đã tìm thấy phải được giữ nguyên,
khoét rỗng ruột và phơi cho đến khi thật khô
tránh sự biến dạng do tác động của thời tiết,
da bịt vào mặt trống cũng phải tính và chọn
rất kỹ, đến những dây mây để ràng kéo mặt
trống khi căng khi chùng như lên dây theo ý
muốn cũng phải vào rừng chọn thận trọng,
khi bắt đầu làm trống phải coi ngày giờ tốt
làm lễ cúng mới tiến hành. Trống ghinăng
bao giờ cũng gọi là đôi trống bởi vì nó có
hai chiếc, một chiếc âm một chiếc dương;
hoặc một chiếc cái một chiếc đực; hoặc một
chiếc trống một chiếc mái. Bản thân mỗi
chiếc trống có đầu âm là đầu dùng tay vỗ và
đầu dương là dùng dùi đánh, dùi trống cũng
phải dùng loại gỗ tốt vừa có độ dai mềm và
phải chắc. Tính năng của trống ghinăng,
một chiếc giữ nhịp chính theo quy định của
mỗi bài bản đã có sẵn, một chiếc vừa điểm
những nhịp phụ, gây ấn tượng rộng ràng
độc đáo. Những người có trình độ đánh
trống giỏi thường là điều khiển dàn nhạc
hoặc là người đứng đầu dàn nhạc Theo tập
quán tín ngưỡng, muốn học trống phải cúng
một con gà, một chai rượu, một nải chuối.
Khi tập đánh trống, không được tập trong
nhà mà phải đưa nhau ra ngoài vườn hoặc
khi rừng xa nhà.
Trống baranưng là loại trống tròn bịt
da một mặt, đường kính khoảng 0,45m.
Mặt trống bịt da dê, thân trống bằng gỗ,
xung quanh thân trống có đục 12 lỗ, mỗi lỗ
được giữ chặt bằng mỗi con nem và có
quấn dây mây xung quanh. Đây là bộ phận
tăng giảm âm thanh và nốt nhạc của trống.
Trống này được người Chăm xem là biểu
tượng cho lống ngực (tim, phổi, ngũ tạng),
là biểu hiện cái tâm con người. Trống
baranưng là nhạc cụ, được xem là vật tổ
của thầy Maduen, vỗ trống trong tư thế
ngồi, đặt trống vào đùi, ôm sát vào ngực và
vỗ hai tay vào trống.
Mặt trống Baranưng vẽ hình 8 lá
(giống lá bồ đề) tượng trưng cho 8 hướng, ở
giữa có biểu tượng âm dương tượng trưng
cho mặt trăng, mặt trời. Ngoài ra phần dưới
của Baranưng có 12 cái chốt gọi là chốt
tăng tượng trưng cho 12 con giáp [7].
Kèn saranai là chiếc kèn làm bằng hai
mảnh tre mỏng ghép lại, dài chừng 40cm -
45cm, thân kèn dài chừng 20cm, khoét 7 lỗ
BIỂU TƯỢNG TRONG LỄ H I RIJA PRAONG CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NAM TRUNG B
134
bấm nhỏ. Loa kèn dài tới 10cm - 12cm,
đường kính 4cm - 4,5cm, làm bằng sừng
hoặc ngà. Âm thanh của kèn Saranai khỏe,
vang, đanh, đôi khi có tiếng rè. Kèn saranai
có 5 nốt âm thanh tương đương với 5 nốt
nhạc đồ fa sol la rê và cũng là tượng trưng
cho 5 ngũ quan của con người.
Người Chăm thường dùng một hình
ảnh ví von để để giải thích về cấu trúc dàn
nhạc truyền thống của mình như sau:
(1) Cặp trống kinăng được coi là đôi
chân (vì hình dáng giống đôi chân, vị trí
thường để trên mặt đất, theo chiều đứng).
(2) Chiếc trống baranưng được coi là
chiếc bụng (vì hình dáng tròn, dẹt), vị trí
thường đeo trước bụng).
(3) Kèn saranai được coi là cái miệng.
Người Chăm thường triết lý về âm
nhạc của mình như sau: đôi chân phải chắc
(ý nói tiết tấu phải rành mạch, rõ ràng, chắc
chắn), cái bụng phải tốt (ý nói những tiết
tấu bổ sung của baranưng phải phong phú,
phù hợp với tiết tấu của kinăng, âm sắc
phải chuẩn xác), thì cái miệng mới nói
được những lời hay (ý nói kèn saranai mới
phát huy được hết khả năng diễn tấu). Như
vậy, thông qua một cách ví von dân gian,
người Chăm đã ý thức được vai trò quan
trọng của tiết tấu trong âm nhạc truyền
thống Chăm.
Ceng (Chiêng) là loại nhạc cụ gõ bằng
đồng có đường kính 0,3m. Chiêng có 2 loại:
chiêng mặt bằng và chiêng có núm. Chiêng
thường dùng dùi gỗ ở đầu dùi quấn vải mềm
để gõ, sử dụng trong các lễ hội Chăm như lễ
múa Rija, tế lễ thần linh Puis, payak, ngoài
ra còn được sử dụng trong đám tang. Bên
cạnh chiêng còn có Mã la nhưng nhạc cụ
này do người Raglai biểu diễn nhân ngày
hội cúng lễ ở đền tháp” [8].
2.3. Biểu tượng trong múa
Quạt là đạo cụ múa có mặt trong nhiều
điệu múa dân gian, được làm bằng giấy
hoặc bằng vải, trang trí kim sa hoặc chất
bắt sáng, có nơi thêm tua ở đầu quạt với
các sắc màu hồng, xanh, trắng rất đẹp.
Cũng là múa quạt, nhưng các điệu múa lại
rất nhiều như biyen - múa công; kamang -
múa gà lôi; Tiong - múa chim nhồng;
marai - múa chim trĩ Các động tác múa
đa dạng, mô phỏng các động tác của loài
chim, có khi là những cánh chim công
(biyen) xòe ra làm đẹp cho đời; những con
bướm giữa mùa hè bay lượn; con gà tây
(tiong) trong vườn nhà reo lên khi đón
khách. Quạt còn có thể tượng trưng cho sự
cao sang quý phái (chalija), quạt có thể
diễn tả hoàng tử giàu sang (patra). Không
chỉ vậy, quạt còn là vật linh thiêng đặt trên
bàn thờ thần để cúng cầu mong những điều
tốt đẹp cho dân tộc. Quạt trên tay bà Raja
đầy bí ẩn, người con trai đạp lửa đầy sức
mạnh đánh đuổi tà ma quỷ quái. Quạt liên
kết xoay vòng nối tiếp nhau biểu hiện vũ
trụ nơi con người đang sống, hay làn sóng
nhấp nhô thay nhau vỗ vào bờ
Khăn là đạo cụ quan trọng trong điệu
múa khăn, được người Chăm chính tay dệt,
chiều dài khoảng 1,8m - 2m, chiều ngang
khoảng 0,4m - 0,6m có viền hai đầu bằng
sợi rua trắng. Khăn này chính là chiếc khăn
đội đầu thường ngày của phụ nữ Chăm.
Chiếc khăn cũng biểu hiện tiếng nói tâm
tình của các cô gái Chăm, nó như những
cánh hoa tượng trưng cho tấm lòng trong
trắng, tinh khiết, đáng yêu của các cô gái.
Chính vì ý nghĩa đó nên chiếc khăn luôn
luôn có màu trắng. Khi biểu diễn, người
nghệ sĩ cầm khăn, dùng cổ tay hất khăn
lên, lúc khoan thai, nhẹ nhàng, khi mạnh
mẽ, dứt khoát theo nhịp của nhạc.
3. Kết luận
Lễ hội Chăm là một bức tranh văn hóa
dân gian sống động, đầy màu sắc, trong đó
diễn xướng dân gian là một nét văn hóa
nghệ thuật liên quan đến phong tục, đời
TỪ THỊ PHI ĐI P
135
sống tín ngưỡng, có nhiều phần nghiêng về
phương thức trình diễn. Trong đó, Rija
Praong được xem là một lễ hội diễn xướng
dân gian tổng hợp với đầy đủ yếu tố trình
diễn như văn chương, sự tích, trò chuyện
(tuồng); nghệ thuật ca múa nhạc; và sân
khấu như là đền tháp, nhà lễ Nghệ thuật
biểu diễn ấy không chỉ dừng lại bằng
những động tác tượng trưng, trong một một
khung cảnh ước lệ, mà nó là một nghệ
thuật biểu diễn dân gian vừa mang tính ước
lệ, vừa mang tính cụ thể, sinh động. Lễ hội
Rija Praong có nhiều yếu tố hợp thành,
trong đó biểu tượng đóng vai trò quan
trọng thể hiện các cam kết tôn giáo, sự phô
diễn của nghi lễ, sự tham gia vào các cuộc
tranh tài, hoặc sự thể hiện những kỹ năng
đặc biệt như đánh trống, thổi kèn, múa hát
và kể truyện Các biểu tượng trong lễ hội
Rija Praong chính là công cụ biểu hiện văn
hóa của họ thông qua nhân sinh quan và
thế giới quan. Việc tìm hiểu các biểu tượng
trong lễ hội này giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về những gì đã diễn ra trong đời sống của
người Chăm và đó chính là những nét văn
hóa đặc sắc mà người Chăm còn lưu truyền
đến ngày nay.
Chú thích:
1. Đinh Hồng Hải (2010), Nghiên cứu văn hóa
bằng phương pháp luận Nhân học biểu tượng,
Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam,
(truy cập 11/12/2013)
2. Mai Văn Hai - Mai Kiệm (2011), Xã hội học
văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.149.
3. Victor Turner (2006), "Biểu tượng trong nghi
lễ của người Ndembu", trong Những vấn đề
nhân học tôn giáo - Nxb Đà Nẵng, Tạp chí
Xưa & Nay, tr.242.
4. Hải Liên (1999), Vai trò âm nhạc trong lễ hội
dân gian của tộc người Chăm ở Ninh Thuận,
Nxb. Âm nhạc, Hà Nội, tr.110.
5. Trần Phương Nguyên - Từ Thị Phi Điệp
(2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận,
phỏng vấn sâu Maduen Thiên Sanh Thềm,
ngày 16/8/2014, tại làng Hữu Đức.
6. Trần Phương Nguyên - Từ Thị Phi Điệp
(2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận,
phỏng vấn sâu Đàng Năng Thọ, 19/8/2014, tại
làng Bàu Trúc.
7. Trần Phương Nguyên - Từ Thị Phi Điệp
(2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận,
phỏng vấn sâu Maduen Thiên Sanh Thềm,
16/8/2014, tại làng Hữu Đức.
8. Sakaya (2003), Lễ hội của người Chăm, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.189.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải (1995), Nghệ
thuật biểu diễn truyền thống Chăm, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Đinh Hồng Hải (2010), Nghiên cứu văn hóa
bằng phương pháp luận Nhân học biểu tượng,
Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam,
(truy cập 11/12/2013).
3. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2011), Xã hội học
văn hóa - Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.
4. Hải Liên (1999), Vai trò âm nhạc trong lễ hội
dân gian của tộc người Chăm ở Ninh Thuận,
Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
5. Trương Văn Món (2012), Mối quan hệ giữa
văn hóa Chăm và văn hóa Mã Lai thông qua
lễ Rija Praong và Mak Yong, Luận án Tiến sĩ
Lịch sử - TP.HCM: Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn.
6. Trần Phương Nguyên, Từ Thị Phi Điệp
(2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận.
7. Victor W. Tuner (2006), "Biểu tượng trong
nghi lễ của người Ndembu", trong Những vấn
đề nhân học tôn giáo - Nxb Đà Nẵng, Tạp chí
Xưa & Nay.
Ngày nhận bài: 26/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34_2337_2215086.pdf