Tài liệu Biến đổi quan hệ dân tộc ở Việt Nam thời kỳ đổi mới và định hướng hoàn thiện chính sách dân tộc hiện nay - Trương Minh Dục: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
3Ngày nhận bài: 14/7/2017; Ngày phản biện: 15/8/2017; Ngày duyệt đăng: 25/8/2017(1) Học viện Chính trị khu vực III; e-mail: minhduc1952@yahoo.com.vn
1.Quan hệ tộc người nảy sinh từ cách
thức cư trú, địa bàn cư trú, di cư của các tộc
người ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới ở vùng miền núi
và vùng dân tộc thiểu số (DTTS) của nước ta đã
diễn ra quá trình di dân và tái định cư rầm rộ nhất
trong lịch sử.
Trước hết, là di dân, tái định cư để xây dựng
các công trình trọng điểm, các khu công nghiệp
do yêu cầu phát triển kinh tế. Chẳng hạn, để thực
hiện Dự án thủy điện Sơn La, một cuộc di dân,
tái định cư lớn đại quy mô được thực hiện cho
20.340 hộ, 92.301 nhân khẩu (chủ yếu là đồng bào
các dân tộc Thái, Mông, Dao). Trong đó, tỉnh Sơn
La 12.584 hộ, 58.337 khẩu; tỉnh Điện Biên 4.459
hộ, 17.010 khẩu; tỉnh Lai Châu 3.297 hộ, 16.954
khẩu. Theo Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư
đã được Thủ tư...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 518 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi quan hệ dân tộc ở Việt Nam thời kỳ đổi mới và định hướng hoàn thiện chính sách dân tộc hiện nay - Trương Minh Dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
3Ngày nhận bài: 14/7/2017; Ngày phản biện: 15/8/2017; Ngày duyệt đăng: 25/8/2017(1) Học viện Chính trị khu vực III; e-mail: minhduc1952@yahoo.com.vn
1.Quan hệ tộc người nảy sinh từ cách
thức cư trú, địa bàn cư trú, di cư của các tộc
người ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới ở vùng miền núi
và vùng dân tộc thiểu số (DTTS) của nước ta đã
diễn ra quá trình di dân và tái định cư rầm rộ nhất
trong lịch sử.
Trước hết, là di dân, tái định cư để xây dựng
các công trình trọng điểm, các khu công nghiệp
do yêu cầu phát triển kinh tế. Chẳng hạn, để thực
hiện Dự án thủy điện Sơn La, một cuộc di dân,
tái định cư lớn đại quy mô được thực hiện cho
20.340 hộ, 92.301 nhân khẩu (chủ yếu là đồng bào
các dân tộc Thái, Mông, Dao). Trong đó, tỉnh Sơn
La 12.584 hộ, 58.337 khẩu; tỉnh Điện Biên 4.459
hộ, 17.010 khẩu; tỉnh Lai Châu 3.297 hộ, 16.954
khẩu. Theo Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cần phải
xây dựng 78 khu, 285 điểm, tái định cư xen ghép
vào 38 bản thuộc 17 xã và tái định cư tự nguyện;
bố trí tái định cư cho 20.477 hộ (gồm số dân di
chuyển thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện
Sơn La và Dự án đường tránh ngập đường Mường
Lay- Nậm Nhùn, giai đoạn 1)1. Tuy nhiên, quá
1. Theo Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ, cập nhật ngày
12-5-2015, 08:00 GMT+7
trình thực hiện công tác tái định cư chưa chú trọng
đến phong tục và tập quán canh tác giữa nơi ở cũ
và nơi ở mới dẫn đến việc ổn định đời sống của bà
con gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ hai, sau giải phóng (1975), một lực
lao động lớn từ miền bắc và vùng duyên hải
miền trung được chuyển đến để khai thác tiềm
năng kinh tế vùng Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ. Cùng với quá trình di dân theo kế hoạch là
những đợt di dân tự do của cư dân các tộc người
ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào vùng này, tạo
nên hình thái cư trú đan xen giữa cư dân các tộc
người mới đến với các tộc người tại chỗ. Trong
vòng gần 40 năm, các tỉnh Tây Nguyên tiếp nhận
một số lượng lớn dân cư với hơn 3 triệu người từ
nơi khác đến2 đã làm cho bức tranh quan hệ tộc
2. Theo số liệu thống kê, năm 1976, dân số Tây Nguyên là
1.225.000 người, gồm 18 tộc người, trong đó đồng bào các
DTTS là 853.820 người (chiếm 69,7% dân số); đến thời
điểm ngày 1 - 4 – 2009, dân số Tây Nguyên (gồm năm tỉnh)
là 5.107.437 người, so với năm 1976 đã tăng 3,17 lần, chủ
yếu là tăng cơ học, trong đó người Kinh 3.309.836 người,
chiếm 64,7%; các tộc người tại chỗ: 1.363.005 người, chiếm
26,7%, các tộc người mới di cư đến: 393.415 người, chiếm
8,6%. Đến năm 2011, tổng dân số của năm tỉnh Tây Nguyên
là khoảng 5.282.000 người. Nguồn: Trương Minh Dục (Chủ
nhiệm đề tài): Quan hệ tộc người ở Tây Nguyên trong thời kỳ
đổi mới (từ 1986 đến 2010), mã số IV5.2 – 2011.26.
BIẾN ĐỔI QUAN HỆ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC HIỆN NAY *
Trương Minh Dục(1)
Quan hệ dân tộc/tộc người là quan hệ trong nội bộ từng dân tộc; quan hệ giữa các dân tộc anh em với nhau; quan hệ dân tộc xuyên quốc gia; quan hệ giữa dân tộc
đa số với các dân tộc thiểu số; Quan hệ giữa các dân tộc với cộng đồng dân tộc/quốc gia thể
hiện trên toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội,
tôn giáo - tín ngưỡng, v.v.
Nghiên cứu này đánh giá thực trạng xu hướng biến đổi quan hệ dân tộc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), từ đó, đề xuất giải
pháp định hướng hoàn thiện chính sách dân tộc nhằm bảo đảm quyền bình đẳng, cơ hội phát
triển của các dân tộc và xây dựng quan hệ dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Từ khóa: Mối quan hệ dân tộc; dân tộc thiểu số; định hướng hoàn thiện chính sách dân
tộc; biến đổi quan hệ dân tộc
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
4 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
người giữa các cộng đồng tại chỗ với các cộng
đồng mới di cư đến trở nên đa dạng và phức tạp;
nạn phá rừng, tranh chấp đất đai đang là những
vấn đề nổi cộm ở một số địa phương trong vùng3.
Đến nay, ở hầu hết các địa phương miền
núi Việt Nam trở thành địa bàn cư trú xen kẽ của
nhiều tộc người. Một số tỉnh như Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, đã có
gần 40 tộc người cùng sinh sống; ở Tây Nguyên
hiện có cư dân của hầu hết các tộc người trong cả
nước; thậm chí nhiều bản/làng đơn dân tộc ngày
xưa nay đã trở thành bản/làng của vài ba dân tộc4.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các tộc người ngày
càng tăng làm đậm thêm tính chất thống nhất hữu
cơ của các tộc người trên mọi mặt của đời sống xã
hội. Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các tộc người,
một mặt tạo điều kiện tăng cường hiểu biết nhau,
hòa hợp và xích lại gần nhau, nhưng mặt khác,
trong nhiều trường hợp do chênh lệch về trình độ
phát triển, khác nhau về phong tục tập quán,
nên đã xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp trong một
số lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế (trong phối hợp
chia sẻ, sử dụng các nguồn lực tự nhiên - xã hội)
dẫn đến sự va chạm giữa cư dân thuộc các tộc
người cùng sống trên một địa bàn.
2.Quan hệ tộc người trong lĩnh vực
kinh tế
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước
đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi phát
3. Do thiếu đất đai sản xuất cộng với những thiếu sót trong
việc giải quyết đất đai ở vùng đồng bào các tộc người tại chỗ
nên tình trạng phá rừng, tranh chấp đất đai, gây mất ổn định
xã hội chưa được giải quyết dứt điểm. Theo thống kê về tình
hình an ninh nông thôn trong 10 năm (2001 - 2010) ở Tây
Nguyên có 4.000 vụ khiếu kiện, trong đó có 2.000 vụ, chiếm
50%, có liên quan đến đồng bào các tộc người tại chỗ và
1.000 vụ liên quan đến tranh chấp đất đai, vi phạm lâm luật,
do các cơ quan, đơn vị giao đất, cho thuê đất giải quyết chưa
có hiệu quả chiếm nhiều nhất. (Tổng hợp từ báo cáo của Ban
Chỉ đạo Tây Nguyên (2011): Báo cáo tổng kết Nghị quyết
10-NQ/TW ngày 18 - 1 - 2002 của Bộ Chính trị “Về phát
triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Tây
Nguyên thời kỳ 2001 - 2010”, và các báo cáo về tình hình an
ninh nông thôn vùng Tây Nguyên hàng năm).
4. Theo số liệu của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, các tỉnh Tây
Nguyên có 722 đơn vị hành chính cấp xã (77 phường, 47 thị
trấn, 598 xã), với 7.768 điểm dân cư (thôn, buôn, làng, bon,
tổ dân phố), trong đó có 2.764 thôn, buôn, bon, làng có đông
đồng bào các tộc người tại chỗ đang sinh sống.
triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng DTTS5.
Thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia,
cơ sở vật chất và hạ tầng vùng miền núi đã có
bước phát triển, tạo điều kiện cho kinh tế - xã
hội vùng núi ngày càng phát triển; đồng bào các
tộc người từng bước chuyển sang sản xuất hàng
hóa. Nhờ đó, nhiều hộ thoát nghèo, vươn lên làm
giàu, đời sống vật chất, tinh thần của người dân
có bước cải thiện.
Quá trình phát kinh tế theo cơ chế thị
trường và sự tác động của quy luật phát triển
không đều đã làm dãn cách thêm sự chênh lệch
về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các
tộc người. Mặc dù đã tập trung nhiều nguồn lực
để phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS nhưng
do tài nguyên thiên nhiên nhiều vùng đã bị khai
thác cạn kiệt, do vốn đầu tư hạn hẹp, dân số tăng
nhanh, kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn nhân
lực thấp kém, năng lực của chính quyền cơ sở
còn rất non yếu, đồng b́̀ào DTTS thiếu kiến thức
sản xuất, kinh doanh trong kinh tế thị trường, v.v..
nên kinh tế - xã hội chậm phát triển, đời sống mọi
mặt của đồng bào các DTTS ở vùng sâu, vùng
xa, vùng căn cứ cách mạng chậm được cải thiện
so với miền xuôi, vùng đồng bằng, đô thị, vùng
gần các trục giao thông. Ở nhiều vùng của các
tộc người thiểu số, đời sống của đồng bào gặp
nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao, chênh lệch
mức sống vật chất giữa các tộc người thiểu số với
5. Cụ thể như: Nghị quyết số 22 NQ/TW ngày 20 - 11 - 1989
của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về một
số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền
núi”. Quyết định số 72/HĐBT ngày 13-3-1990 của Hội đồng
Bộ trưởng “Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát
triển kinh tế - xã hội miền núi”; các nghị quyết của Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển kinh tế
xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên; Chỉ riêng 10 năm từ 2003 đến 2013, Quốc hội đã
ban hành 38 luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các
DTTS; Chính phủ đã xây dựng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc,
đã ban hành 160 văn bản quy phạm pháp luật gồm: 14 nghị
định của Chính phủ, 40 quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, 27 văn bản phê duyệt đề án; các bộ, ngành ban hành 51
văn bản và 26 thông tư liên tịch nhằm phát triển toàn diện
kinh tế - xã hội vùng đồng bào các DTTS, xây dựng quan
hệ dân tộc “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ. Nguồn: Ủy ban Dân tộc: “Báo cáo đánh giá
và triển khai chính sách vùng dân tộc”, năm 2013. Dẫn lại:
Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết
Thông: Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30
năm đổi mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 495,496.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
5Số 19 - Tháng 9 năm 2017
dân tộc Kinh và Hoa tăng nhanh. Mặc dù, tỷ lệ
hộ nghèo toàn vùng Tây Bắc từ 34,41% vào thời
điểm cuối năm 2009, giảm xuống còn 18,26%
vào cuối năm 2014, bình quân giảm 3,91%/năm,
cao gần gấp đôi so với mức giảm tỉ lệ hộ nghèo
chung toàn quốc trong cùng giai đoạn, tuy nhiên,
tỉ lệ hộ nghèo vùng Tây Bắc vẫn cao gấp 2,7 lần
bình quân cả nước và có nguy cơ khoảng cách
này ngày càng gia tăng. Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo
tại Hà Giang là 23,21%, Cao Bằng: 20,55%,
Yên Bái: 20,57%, Sơn La: 23,94%, Điện Biên:
32,57% và Lai Châu: 23,48% 6.
Ở vùng Tây Nguyên, chỉ tính từ năm 2011
đến 2014, GDP bình quân đầu người/năm tăng từ
22,76 triệu đồng năm 2010 lên 32,2 triệu đồng
năm 2014; tỷ lệ đói nghèo ở Tây Nguyên giảm
đáng kể: năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo 8,92%, đến
năm 2014 còn 11,22%; vùng đồng bào các DTTS
giảm từ 47,8% xuống 19,9% và cơ bản giải quyết
được tình trạng thiếu đói7, nhưng sự phân hoá
giàu nghèo cũng rất phức tạp: số hộ nghèo vùng
Tây Nguyên đến thời điểm năm 2010 là 262.880
hộ, chiếm tỷ lệ 22,48%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo
trong đồng bào các DTTS là 45%, tỷ lệ cận nghèo
7,51%8.
3.Quan hệ tộc người trong lĩnh vực
văn hóa
Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống
nhất trong đa dạng, trong đó, mỗi dân tộc có một
nền văn hóa mang những giá trị và bản sắc riêng
từ lâu đời, phản ánh lịch sử truyền thống của từng
dân tộc. Sự phát triển đa dạng bản sắc văn hoá
của từng dân tộc càng làm phong phú thêm nền
văn hoá chung của cả cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Quá trình đổi mới cũng chính là quá trình
xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam đáp ứng
các nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng đa dạng,
phong phú, cao về cấp độ, rộng về biên độ,...
cũng như đáp ứng các nhu cầu phát triển văn hóa
của từng dân tộc anh em. Vì vậy, có thể nói rằng
chưa bao giờ đời sống văn hóa các dân tộc Việt
Nam lại “trăm hoa khoe sắc” đa dạng, phong phú
như ngày nay.
6. Báo Lao động, số 291, thứ Tư, ngày 16-12-2015.
7. Dân trí, cập nhật thứ Năm, ngày 17-12-2015, 7:20
8. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên: Báo cáo tổng kết Nghị quyết
10- NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội
và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ
2001 – 2010, Tlđd, tr.15.
Bên cạnh sự khởi sắc, thành công trong
xây dựng đời sống văn hóa các dân tộc, trong
quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường
trong sự phát triển văn hóa các dân tộc xuất hiện
một số vấn đề trong quan hệ văn hóa, giao lưu,
tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc.
Trước hết là xu hướng “Kinh hóa” trong
giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc thiểu
số và dân tộc Kinh, nhất là trong bối cảnh các dân
tộc thiểu số và dân tộc Kinh cư trú ngày càng đan
xen và nền kinh tế thị trường đang thống nhất
dần cách sản xuất cũng như cách tiêu dùng hàng
hóa giữa các dân tộc. Ngày càng có nhiều người
DTTS nhất là lớp trẻ, ăn mặc, ở, tiêu dùng,...,
sống theo lối sống của người Kinh và lẽ đương
nhiên, tâm thức, ý thức tộc người của họ cũng có
thể không còn sâu đậm như trước đây.
Hai là, một số dân tộc thiểu số có thể quan
sát được sự mai một của nhiều giá trị văn hóa dân
tộc như một số phong tục, tập quán, lễ hội, kiến
trúc, trang phục, một số thiết chế văn hóa truyền
thống, ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ, tiếng nói là một tiêu chí quan
trọng để xác định thành phần tộc người và đồng
thời là một thành tố cơ bản của văn hóa, nhưng
hiện nay là nhiều tộc người có nguy cơ bị mất
tiếng mẹ đẻ (đồng bào dân tộc Bố Y ở Lào Cai
hầu như không còn nhớ tiếng mẹ đẻ, đã chuyển
sang nói tiếng Quan hỏa, còn người Bố Y ở Hà
Giang lại chủ yếu nói tiếng Giáy và tiếng Tày;
hay người Phù Lá không nói được tiếng mẹ đẻ
và cũng chuyển sang sử dụng tiếng Quan hỏa;
tương tự như vậy, người Cờ Lao đỏ ở Hà Giang
cũng không còn nói được tiếng mẹ đẻ; các dân
tộc Kháng, La Ha, Xinh Mun ở vùng Tây Bắc
chủ yếu sử dụng ngôn ngữ Thái trong giao dịch;
ngôn ngữ mẹ đẻ của dân tộc La Ha chỉ còn một
số từ vựng cơ bản trong các bài cúng cổ; ngay các
bài hát dân ca của người Kháng, người Xinh Mun
hiện nay cũng có tới 70 - 80% là tiếng Thái,...).
Các thành tố văn hóa khác như trang phục,
kiến trúc, phong tục tập quán, lễ hội của các
tộc người cũng mai một nghiêm trọng. Ở vùng
Tây Bắc hiện nay rất khó phân biệt kiến trúc, lễ
hội, nghi lễ tín ngưỡng của người Kháng, người
La Ha, người Xinh Mun với người Thái,v.v. Sự
biến đổi của văn hóa các tộc đã làm cho một số
tộc người mất dần bản sắc văn hóa của mình.
Ba là, cùng với sự mai một của các giá trị
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
6 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
văn hóa dân tộc, tâm lý tiêu dùng và tâm lý tự ti
dân tộc đang có chiều hướng gia tăng trong bối
cảnh tác động mạnh của kinh tế thị trường và quá
trình giao lưu văn hóa.
Các DTTS ở nước ta, trừ người Hoa, đều
đang ở trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp
nên một bộ phận đã hoài nghi, thậm chí là tự ti về
truyền thống của tộc người mình.
Kinh tế thị trường là miếng đất dung dưỡng
cho tâm lý tiêu dùng vật chất dẫn tới thái độ chối
bỏ những giá trị truyền thống. Người dân các tộc
thiểu số (nhất là giới trẻ) tỏ ra thích nghi nhanh
với đời sống vật chất tiện nghi, ăn ngon, mặc đẹp
hơn, ở tốt hơn (theo như người Kinh), bỏ xa dần
trang phục và nhà ở truyền thống.
Văn hóa của phần lớn các DTTS Việt Nam
thường gắn với không gian rừng. Rừng không
chỉ thích hợp cho tính huyền thoại của văn hóa
truyền thống các DTTS mà còn là nguồn sống,
nguồn cung cấp cho họ nguyên liệu để dựng nhà
ở, nhà sàn, nhà rông, nhà dài, nhưng “không
gian rừng” này đã bị hủy hoại, tàn phá nghiêm
trọng, thậm chí là không còn ở một số vùng
DTTS. Trong khi đó, thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng, đồng bào các DTTS, nhất
là giới trẻ, đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với nhiều
loại hình văn hóa, nghệ thuật, văn minh, hiện đại
từ bên ngoài và trong đó không chỉ toàn những
cái tích cực. Một số trong đó đã bị cuốn theo trào
lưu hiện đại hóa và xa dần gốc rễ của mình. Hiện
tượng các DTTS không hiểu và không yêu các
nhạc cụ dân tộc truyền thống, trường ca, sử thi,...
có xu hướng ngày càng tăng.
Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các DTTS từ chủ trương chính sách cho đến thực
hiện vẫn còn nhiều khoảng cách mà nguyên nhân
là chưa có sự đồng thuận giữa những chủ thể văn
hóa, trong đó chủ yếu sự “vênh” giữa nhu cầu
thực tế của người dân với sự sáng suốt trong các
quyết định của những người lãnh đạo và giá trị
khoa học trong các khuyến nghị của các chuyên
gia văn hóa.
4.Quan hệ tộc người trên các lĩnh vực
xã hội
- Về giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực.
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước
đã có nhiều chính sách hỗ trợ ở vùng dân tộc và
miền núi nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo. Nhờ đó đến nay, 100%
số xã đặc biệt khó khăn có trường tiểu học, nhà
mẫu giáo; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường
cao9.
Tuy nhiên, cho đến nay chất lượng giáo
dục - đào tạo ở các vùng miền núi rất thấp. Ở
vùng DTTS tỷ lệ trẻ em đến trường ở bậc tiểu
học chỉ đạt khoảng 80% và bậc trung học cơ sở
là 77%. Tỷ lệ học sinh bỏ học ở các vùng miền
núi đặc biệt khó khăn cũng cao hơn so với các
vùng đồng bằng và các đô thị (ở đồng bằng sông
Hồng, tỷ lệ học sinh bỏ học tính chung là 2,96%,
trong khi tỷ lệ tương ứng ở khu vực Tây Bắc là
6,91%, Tây Nguyên là 7,16%, đồng bằng sông
Cửu Long là 12,64%). Bên cạnh đó, số trẻ em gái
trong độ tuổi được đi học ở các vùng này cũng
còn rất thấp. Đặc biệt ở các vùng núi cao nơi một
số dân tộc thiểu số sinh sống chỉ có từ 10 - 15%
số em gái được đến trường. Theo nhóm dân tộc
thì số trẻ em gái mù chữ người Mông là 90%, Hà
Nhì 89%, Gia Rai 83%, Ba Na 82%,...
Ở cấp đào tạo chuyên môn nghề nghiệp ở
vùng miền núi rất thấp. Chẳng hạn, một nghiên
cứu gần đây cho thấy, dân tộc Kinh với 86% dân
số, nhưng chiếm tới 96,74% số lượng trí thức khoa
học xã hội và nhân văn cả nước, các DTTS với
14% dân số nhưng chỉ chiếm 3,26%10. Điều này
nêu lên thực trạng chung về sự phát triển chênh
lệch giữa dân tộc Kinh và các DTTS. Chẳng
hạn, đến nay, trong 5.400 trí thức tỉnh Đắk Nông,
9. Cụ thể như: Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà
công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008 – 2012; Đề án củng
cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú
giai đoạn 2011-2015; Đề án tăng cường đầu tư xây dựng ở
mỗi tỉnh có ít nhất 1 trường phổ thông dân tộc nội trú cấp
tỉnh và một số trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện,
trường phổ thông dân tộc bán trú nhằm thu hút được tất cả
trẻ trong độ tuổi đến trường; Quyết định ban hành một số
chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân
tộc bán trú, các chính sách ưu tiên cho phát triển giáo dục
dân tộc; Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của
Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói,
chữ viết của DTTS trong các cơ sở giáo dục phổ thông và
trung tâm giáo dục thường xuyên; Quyết định số 2123/QĐ-
TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai
đoạn 2010-2015; Thực hiện công bằng trong xã hội và một
số chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi
học, v.v.
10. Trần Thị Nhẹn, Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục
và đào tạo ở nước ta hiện nay, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Hà Nội, 2009.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
7Số 19 - Tháng 9 năm 2017
chiếm 2,6% trên tổng số lao động trong độ tuổi lao
động toàn tỉnh, người DTTS chỉ chiếm 2,7%.
Nguồn nhân lực lao động người DTTS rất
thiếu và yếu. Trình độ chuyên môn của lực lượng
lao động trong độ tuổi ở một số vùng DT&MN
rất thấp, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chưa
được đào tạo ở các vùng các DTTS: Tây Nguyên
và vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ lao
động trong độ tuổi chưa qua đào tạo cao nhất
trong cả nước (trên 90%), Tỷ trọng dân số đã qua
đào tạo của các nhóm DTTS ở các bậc sơ cấp,
trung cấp, cao đẳng và đại học thấp, trong đó tốt
nghiệp cao đẳng, đại học rất thấp: Thái - 1,6%;
Mường 2,0%, Khmer 1,0%; Mông - 0,3%, các
DTTS khác cũng chỉ đạt 1,5%11.
Như vậy, mặc dù đã có nhiều chính sách
ưu tiên phát triển nhưng đến nay so với dân tộc
Kinh, chất lượng nguồn nhân lực các DTTS vừa
phân bố không đều, lại vừa rất thiếu về lượng,
yếu về chất chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh
phát triển hiện nay.
- Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe
nhân dân. Việc khám, chữa bệnh cho đồng bào
các tộc người vùng sâu, vùng xa được Đảng và
Nhà nước quan tâm hơn: Đến nay, gần 100% số
xã có cán bộ y tế trực; 93,5% số xã có trạm y tế;
hơn 95% trẻ em được tiêm chủng theo Chương
trình tiêm chủng mở rộng,... các loại bệnh dịch cơ
bản được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi,... Các
chính sách về công tác y tế thôn, bản, công tác
chăm sóc sức khỏe ban đầu, chính sách bảo hiểm
y tế miễn phí cho người nghèo và người dân tộc
thiểu số, đầu tư phát triển mạng lưới y tế cơ sở,
phát triển đội ngũ y, bác sỹ công tác ở các cơ sở
vùng miền núi, vùng DTTS,v.v... được quan tâm.
Tuy nhiên, hệ thống y tế và chăm sóc sức
khỏe cùng với đội ngũ cán bộ y tế vùng miền núi,
vùng DTTS còn thiếu và yếu nhiều mặt, chưa đảm
bảo về quy mô cũng như khả năng khám chữa
bệnh, nhất là những loại bệnh khó. Tỷ lệ trạm y tế
cơ sở (xã, phường) có bác sĩ ở các vùng miền núi
11. Ủy ban Dân tộc – UNDP, Trần Thị Hạnh, Phạm Văn
Hùng, Nguyễn Cao Thịnh, Hà Quang Khuê, Lò Giàng Páo,
Đặng Văn Thuận, Trần Trung Hiếu: “Nghiên cứu thực trạng
nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và đề xuất các giải
pháp phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN” thuộc Dự
án VIE02/001 – SEDEMA & EMPCD: “Tăng cường năng
lực cho Ủy ban Dân tộc xây dựng thực hiện và giám sát
chính sách dân tộc”. Hà Nội, tháng 11/2010.
đặc biệt thấp: vùng Tây Bắc mới đạt 37,4%, Tây
Nguyên 46,3%; tại 61 huyện nghèo nhất nước, tỷ
lệ trạm y tế cơ sở có bác sĩ mới đạt 34,5% (trên
toàn quốc tính chung mới đạt 65,9%)12.
Nhiều DTTS đang gặp các vấn đề liên
quan đến sức khỏe do hệ thống y tế cơ sở không
bảo đảm, tỉ lệ tử vong cao; nguy cơ suy thoái
giống nòi do quan hệ cận huyết13, dẫn đến chất
lượng dân số thấp, sức khỏe yếu, bệnh tật nhiều
đang đe dọa sự phát triển một cách bền vững...
Ở các vùng dân tộc miền núi tỷ lệ tử vong mẹ
thường cao hơn rất nhiều so với khu vực đô thị
- đồng bằng. Chẳng hạn, một nghiên cứu ở vùng
Tây Nguyên cho thấy tỷ lệ phụ nữ đi khám thai
là 70% nhưng chỉ có 42% là khám đủ 3 lần theo
như khuyến nghị của Bộ Y tế; 19% số phụ nữ
cho rằng khám thai là không cần thiết và 16%
không biết gì về khám thai; 64% bà mẹ sinh con
tại nhà.14 Suy dinh dưỡng trẻ em còn khá phổ biến
ở vùng đồng bào DTTS - đang là vấn đề bức xúc
của Việt Nam.
Nhu cầu khám chữa bệnh của người DTTS
rất lớn nhưng khả năng tiếp cận và sử dụng các
dịch vụ y tế của họ còn rất hạn chế nên tình trạng
khá nhiều địa phương miền núi không sử dụng
hết kinh phí khám chữa bệnh cho người nghèo
các DTTS. Thông thường các dịch vụ y tế ở vùng
dân tộc - miền núi có chất lượng thấp hơn: nhiều
tỉnh, huyện miền núi không có hoặc không sử
12. Lê Duy Sớm, Thực trạng mạng lưới y tế về chăm sóc sức
khỏe sinh sản ở Việt Nam, https://www.dangcongsan.vn, cập
nhật ngày 9/11/2011
13. Hôn nhân cận huyết thống của các DTTS ở Việt Nam
bao gồm: Hôn nhân anh chị em họ chéo (tức hôn nhân con
cô con cậu): Con cô con cậu lấy nhau, có thể là con gái cô
lấy con trai cậu, hoặc con gái cậu lấy con trai cô; Hôn nhân
anh chị em họ song song tức hôn nhân con gì - con già và
(hôn nhân con chú - con bác). Một biểu hiện rõ nét của hôn
nhân cận huyết thống ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
là hôn nhân con cô con cậu. Đây là hình thức hôn nhân giữa
con của anh hoặc em trai với con của chị hoặc em gái. Hiện
tượng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống còn phổ biến ở
nhiều dân tộc, đặc biệt là một số dân tộc vùng cao, vùng sâu
như Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt, Ê đê, Chu Ru. Đặc biệt là
các dân tộc Si La (Điện Biên, Lai Châu), Lô Lô, Pu Péo (Hà
Giang), Rơ Mâm, Brâu (Kon Tum) là những dân tộc dưới
1.000 dân đang có nguy cơ suy giảm do tình trạng hôn nhân
cận huyết (Xem:“Hôn nhân cận huyết thống: Nguyên nhân
làm suy giảm sức khỏe”, https://www.benhvienleloi.com.vn/,
cập nhật ngày 25/03/2010).
14. Nguyễn Thị Phương Hòa, Sử dụng dịch vụ chăm sóc trước
sinh của phụ nữ dân tộc ở Tây Nguyên, Tạp chí Thông tin Y
Dược, số tháng 7/2008
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
8 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
dụng được các thiết bị chẩn đoán, điều trị hiện đại
cũng như không thực hiện được các phẫu thuật
phức tạp, chi phí cao, v.v... Rõ ràng, chất lượng
các dịch vụ y tế do hệ thống y tế vùng dân tộc
miền núi cung cấp, nhất là tuyến xã, là còn thấp,
năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ y tế
ở đây còn nhiều hạn chế,... là những thách thức
không nhỏ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho
đồng bào các DTTS.
5.Quan hệ tộc người trong lĩnh vực tôn
giáo, tín ngưỡng
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng và
tôn giáo. Các tộc người đều có những hình thức
tín ngưỡng truyền thống của mình và có một bộ
phận đồng bào các DTTS theo các loại tôn giáo
khác nhau. Đồng bào các tộc người có truyền
thống tín ngưỡng nguyên thủy đa thần với quan
niệm vạn vật hữu linh hoặc thờ cúng tổ tiên. Khi
các tôn giáo bên ngoài thâm nhập vào đồng bào
các dân tộc hình thành nên các cộng đồng tôn
giáo, như: cộng đồng dân tộc Khmer theo Phật
giáo Nam tông với trên 1 triệu tín đồ và 433 ngôi
chùa Khmer; cộng đồng người Chăm với khoảng
gần 100 nghìn người theo Hồi giáo (trong đó số
người theo Hồi giáo chính thống - là 25.703 tín
đồ, Hồi giáo không chính thống là 39.228 tín đồ,
30 nghìn người theo đạo Bàlamôn); cộng đồng
các DTTS ở Tây Nguyên theo Công giáo với gần
300 nghìn người và gần 400 nghìn người theo
đạo Tin lành; cộng đồng DTTS ở Tây Bắc theo
Công giáo có khoảng 38 nghìn người; khoảng
20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người
Mông theo Tin lành (dưới tên gọi Vàng Chứ) và
hơn 10 nghìn người Dao theo Tin lành (dưới tên
gọi Thìn Hùng),... Đa số người dân Việt Nam tuy
không phải là tín đồ đúng nghĩa nhưng họ cũng
thường đi đến các địa điểm tôn giáo - tín ngưỡng
vài lần trong một năm để tham gia vào các hoạt
động lễ hội có tính chất tôn giáo - tín ngưỡng15.
Chính sách nhất quán, xuyên suốt của
Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc trên
tinh thần đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Điều
này thể hiện bằng một hệ thống chính sách và
hoạt động quản lý phù hợp. Tự do tín ngưỡng, tôn
15. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo; các
tôn giáo - tín ngưỡng Việt Nam thường được chú trọng ở mặt
thờ cúng, còn mặt giáo lý, tinh thần thì lại ít được quan tâm.
giáo được đề cập trong Hiến pháp, trong Bộ luật
Dân sự, được bảo vệ bằng hệ thống pháp luật với
mức độ ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn. Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18/6/2004 tiếp
tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và được
thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
Bên cạnh những thành công tích cực, quá
trình thực thi chính sách tôn giáo và tín ngưỡng
thời gian qua cũng đối mặt với những vấn đề khá
phức tạp, những nhược điểm ít nhiều tác động
tiêu cực đến quan hệ dân tộc trong bối cảnh kinh
tế thị trường, nhất là khi vấn đề tôn giáo - dân tộc
đã bị các thế lực thù địch lợi dụng nhằm những
mục tiêu chống phá Đảng và Nhà nước ta. Sự
phát triển của Tin lành “Đềga”, Tin lành “Vàng
Chứ”, Tin lành “Thìn Hùng” dẫn đến những bất
ổn chính trị - xã hội ở Tây Bắc, Tây Nguyên cho
thấy sự yếu kém hệ thống chính trị cơ sở trong
vùng các DTTS.
Vấn đề dân tộc/tộc người thường gắn với
vấn đề tôn giáo vì mặt bằng dân trí, trình độ nhận
thức của người dân, của cán bộ, đảng viên còn
nhiều bất cập, hạn chế. Bằng nhiều thủ đoạn, trực
tiếp và gián tiếp, lừa bịp và mị dân, xuyên tạc và
bịa đặt, cưỡng ép và đe dọa, bằng sự mê hoặc
của giáo lý, ở một số vùng DTTS kẻ địch đã lợi
dụng tôn giáo để lôi kéo, chia rẽ giữa đồng bào
với nhau, giữa người Kinh và các tộc người thiểu
số, làm tha hóa một số cán bộ, đảng viên, thậm
chí gây chia rẽ, phân hóa ngay trong gia đình, họ
hàng và trong cộng đồng một dân tộc, giữa các
dân tộc, giữa người theo đạo và không theo đạo.
Các thế lực thù địch thường lợi dụng tôn giáo và
sự hiểu biết hạn chế của đồng bào các DTTS để
xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo, quản lý, điều
hành của cấp ủy, chính quyền ở cơ sở. Trên địa
bàn có đông người Mông sinh sống, chúng lấy lý
do “Người Mông không có Tổ quốc” xúi giục, lôi
kéo người Mông di cư, có lúc ồ ạt trong nội bộ
các tỉnh biên giới, đi Tây Nguyên, sang Lào,
làm cho tình hình an ninh chính trị trên địa bàn
có lúc diễn biến phức tạp. Chúng lợi dụng vấn đề
dân tộc - tôn giáo kích động, lôi kéo những người
nhẹ dạ, cả tin, tụ tập, gây rối an ninh trật tự tại
một số địa phương miền núi, dựng lên cái gọi là
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
9Số 19 - Tháng 9 năm 2017
“nhà nước Đềga”, “vương quốc Mông”.
6.Quan hệ tộc người trong đời sống
chính trị
Là một quốc gia có nhiều tộc người, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến quyền chính trị
của các tộc người, nhất là tộc người thiểu số và đã
có nhiều chính sách đảm bảo điều này. Đó là các
chính sách bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử; quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền tự do
ngôn luận, báo chí và thông tin; quyền tự do hội
họp, lập hội; quyền tự do tín ngưỡng; quyền bình
đẳng nam nữ, v.v... Việt Nam đang xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN - một nhà nước mà ở
đó các quyền con người nói chung, quyền chính
trị của các DTTS nói riêng, được tôn trọng và
bảo vệ. Điều 10 Luật Bầu cử Việt Nam quy định:
“Số đại biểu Quốc hội là người DTTS do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội dự kiến theo đề nghị của Hội
đồng dân tộc của Quốc hội, bảo đảm để các thành
phần DTTS có số đại biểu thích đáng”. Thực hiện
quy định này trong nhiều nhiệm kỳ qua, tỷ lệ đại
biểu thuộc DTTS luôn luôn cao hơn tỷ lệ dân số.
Nhiệm kỳ khóa XI, số đại biểu là người DTTS,
chiếm 17,2%; nhiệm kỳ khóa XII, chiếm 17,6%;
nhiệm kỳ khóa XIII, chiếm 15,60%, trong khi đó,
tỷ lệ 53 DTTS chỉ chiếm 13% dân số Việt Nam.
Hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc và
miền núi bước đầu được tăng cường và củng cố,
trong hệ thống chính trị này đội ngũ cán bộ DTTS
được quan tâm xây dựng, đã có bước trưởng thành
với tỷ lệ cán bộ DTTS trong hệ thống chính trị
các cấp ngày càng cao. Hàng vạn sinh viên DTTS
được đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp (theo chế độ cử tuyển hoặc các chế độ đào
tạo khác) đã tạo nguồn cán bộ DTTS ngày càng
dồi dào để tham gia vào hệ thống chính trị vùng
dân tộc và miền núi khi có điều kiện. Hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú16, các trường dự
bị đại học dân tộc, các lớp mở riêng cho con em
dân tộc ít người, các trường đại học, trung học
chuyên nghiệp ở Việt Bắc, Tây Nguyên, Nam
Bộ đã là nguồn đào tạo cán bộ rất quan trọng
cho các vùng dân tộc và miền núi.
Tuy nhiên, sự tham gia của người dân vào
16. Hiện có 50 trường nội trú cấp tỉnh, gần 300 trường nội trú
cấp huyện với hàng vạn con em đồng bào DTTS được Nhà
nước nuôi, dạy hoàn toàn miễn phí. Đây là một cố gắng lớn
đối với một quốc gia còn nghèo, là một chính sách hiếm có
trên thế giới.
các hoạt động chính trị, các sinh hoạt chính trị
vùng dân tộc, miền núi vẫn mang nhiều tính hình
thức do nhận thức chính trị của đồng bào các tộc
người thiểu số chưa cao và hệ thống chính trị
vùng dân tộc miền núi, nhất là ở cơ sở hoạt động
chưa hiệu quả. Trình độ, năng lực của đội ngũ
cán bộ các DTTS còn yếu về nhiều mặt. Trong
khi đó, ở nhiều vùng, nguồn cán bộ dân tộc thiểu
số tại chỗ thiếu hụt trong một thời gian dài. Đây
là nguyên nhân chủ yếu làm nảy sinh nhiều hiện
tượng tiêu cực trong đời sống như truyền bá mê
tín dị đoan, lôi kéo đồng bào tham gia các hoạt
động tôn giáo bất hợp pháp, kích động các hoạt
động chống đối chính quyền, gieo giắc các định
kiến và tâm lý thù hằn giữa các dân tộc.
Như vậy, dưới tác động của chính sách đổi
mới nói chung và chính sách dân tộc nói riêng,
các DTTS tuy có sự phát triển về mọi mặt, nhưng
so với vùng đồng bằng và vùng đã phát triển
tương đối khá thì miền núi và vùng các DTTS
còn là vùng khó khăn nhất. Tỷ lệ nghèo ở vùng
DTTS còn cao so với mặt bằng chung cả nước.
Trình độ dân trí còn thấp, số người mù chữ còn
nhiều, mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào ở
một số vùng DTTS còn thấp. Việc chăm sóc sức
khoẻ cho đồng bào vùng DTTS còn hạn chế.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội trong vùng đồng bào các DTTS còn tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn nhiều
kẽ hở cho các thế lực thù địch dễ lợi dụng vấn đề
dân tộc để “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật
đổ chống phá cách mạng Việt Nam.
Thực trạng tình hình quan hệ dân tộc như
trên, do các nguyên nhân sau:
- Về phía chủ quan, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước, bên cạnh ưu điểm, tích cực,
còn bộc lộ những khiếm khuyết, chưa phù hợp
với thực tiễn, ảnh hưởng đến quan hệ tộc người.
Chính sách di dân xây dựng vùng kinh tế
mới, chính sách xử lý vấn đề di dân tự do còn
nhiều chậm trễ, bất cập. Chủ trương phát triển
các nông, lâm trường quốc doanh trong thập niên
1980; khai thác tài nguyên khoáng sản; di dân tái
định cư để xây dựng các đập thủy điện do không
tính đến yếu tố tâm lý, văn hóa, lịch sử truyền
thống, quan hệ xã hội, kinh tế của đồng bào các
tộc người tại chỗ (như sở hữu đất rừng, quản lý
xã hội bằng luật tục, hay tập quán pháp) nên đã
để lại hậu quả nghiêm trọng trong quan hệ tộc
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
10 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
người mà cho đến nay không dễ khắc phục một
sớm, một chiều.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, các
chính sách thật sự phù hợp với từng dân tộc và
vùng miền. Chẳng hạn, chính sách đào tạo và sử
dụng cán bộ cho các DTTS theo chế độ cử tuyển
sẽ không thể nào tạo được một đội ngũ trí thức
người DTTS xứng tầm vì chất lượng đào tạo hạn
chế, nhiều học sinh, sinh viên các DTTS được
đào tạo về không được tiếp nhận làm việc, gây
lãng phí tiền của Nhà nước và nhân dân.
Hệ thống chính sách ban hành rất nhiều,
nhưng nguồn lực thiếu, đầu tư dàn trải, phân
tán, trùng lắp về nội dung, nhiều đầu mối quản
lý; thiếu đồng bộ từ khâu xây dựng đến tổ chức
thực hiện chính sách, nội dung chính sách không
còn phù hợp với tình hình hiện nay, nhưng chậm
nghiên cứu bổ sung, sửa đổi. Hệ thống chính
sách ban hành khá nhiều và tập trung cho vùng
dân tộc và miền núi trên các lĩnh vực (về kinh
tế, xã hội...), nhưng sự lồng ghép các chính sách
để tập trung thực hiện trên cùng địa bàn còn hạn
chế, chưa phát huy được hiệu quả tổng thể của
chính sách; chưa đủ mạnh để tạo động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương cũng
như vùng các DTTS và miền núi. Nội dung hệ
thống chính sách chồng chéo, trùng lắp, chưa
phát huy hết tiềm năng, lợi thế và phù hợp với
đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc17. Ngoài
ra, một số chính sách thực hiện trong thời gian
dài, có những chính sách mang tính bao cấp cho
không, không còn phù hợp nhưng chậm tổng kết
đánh giá, sửa đổi bổ sung đã không phát huy hiệu
quả và nội lực của chính sách, ý thức tự giác của
một bộ phận đồng bào DTTS giảm sút.
Một số chính sách ban hành không gắn với
việc quy hoạch tổng thể của các địa phương mà
chỉ có tính chất giải quyết tình thế, áp đặt chủ
quan chưa gắn vấn đề phát triển kinh tế với việc
giải quyết các vấn đề xã hội, hạn chế hiệu quả
chính sách (di dân tái định cư, quy hoạch sắp xếp
dân cư, các dự án về phát triển bảo tồn một số tộc
người có số dân ít). Mặt khác, một số chính
17. Ví dụ, chính sách định canh, định cư theo các Quyết định
193/2006/QĐ-TTg và Quyết định 33/2007/QĐ-TTg, mục
tiêu đưa ra lớn, nhưng nguồn lực đầu tư thiếu, chính sách
đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách quản lý, bảo vệ rừng và giao
rừng thí điểm theo Quyết định 304/2005/QĐ-TTg, chính
sách hưởng lợi từ rừng không rõ ràng, khó thực hiện, diện
tích rừng ngày càng suy giảm.
sách khi xây dựng và ban hành chưa dựa trên đặc
thù kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng DTTS và
miền núi, thiếu sự tham gia của cộng đồng; không
tính đến khả năng duy trì hiệu quả của chính sách
sau khi kết thúc. Vì vậy, khi cụ thể hóa chính sách
vào điều kiện cho từng vùng, từng DTTS thì hiệu
quả không cao (chính sách định canh, định cư,
chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng).
Việc nghiên cứu, tổ chức xây dựng và ban
hành chính sách có tính chiến lược và đặc thù cho
vùng các tộc người và miền núi thường rất chậm;
một số văn bản hướng dẫn thực hiện các chủ
trương, chính sách chưa kịp thời, một số nội dung
chính sách có lúc còn chưa phù hợp với thực tế
địa phương; sự phối hợp để tham mưu xây dựng
chính sách, chỉ đạo triển khai chính sách, kiểm tra
giám sát việc thực hiện chính sách còn hạn chế;
chất lượng chính sách chưa cao.
Chính sách ban hành nhiều, mang tính
nhiệm kỳ, còn chồng chéo về nội dung, quản lý
thực hiện, đối tượng và địa bàn thụ hưởng; các
chính sách hầu hết mang tính hỗ trợ, chưa có
chính sách đầu tư trọng điểm, dài hạn, nên chính
sách chưa bền vững và hiệu quả chưa cao. Nhiều
chính sách đề ra mục tiêu kỳ vọng lớn, song
nguồn lực về vốn không đáp ứng, nên kéo dài
thời gian thực hiện, hiệu quả thấp, thậm chí gây
lãng phí. Công tác phối hợp còn hạn chế; công
tác quản lý có mặt còn chồng chéo; công tác phối
hợp, lồng ghép các nguồn vốn còn bất cập; việc
kiểm tra, giám sát, rà soát đánh giá việc thực hiện
chính sách chưa kịp thời, không thường xuyên...
- Về quản lý nhà nước, các văn bản quy
phạm pháp luật này nhìn chung còn rời rạc, chồng
chéo, độ ổn định chưa cao, nhiều cấp độ pháp lý
khác nhau và ít nhiều đều chứa đựng những điểm
“vênh” với đời sống thực tế. Đến nay ở nước ta
vẫn chưa có một văn bản ở tầm một Bộ luật về
dân tộc thiểu số, mà ở đó qui định một cách bao
quát, đồng bộ, tạo hành lang pháp lý ổn định lâu
dài làm cơ sở pháp luật thống nhất cho việc triển
khai thực hiện chính sách đối với các dân tộc
thiểu số của Đảng và Nhà nước.
- Một số DTTS chưa tranh thủ những cơ
hội thuận lợi mà Đảng và Nhà nước dành cho họ.
Tâm lý thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ giúp đỡ
của Nhà nước và từ bên ngoài còn nặng ở một
số DTTS. Do hạn chế nhiều mặt nên học sinh,
sinh viên người DTTS thường đạt kết quả học
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
11Số 19 - Tháng 9 năm 2017
tập thấp hơn nên khó được tuyển vào các cấp học
cao. Nhiều học sinh, sinh viên DTTS cử tuyển
không có việc làm sau khi ra trường đã tác động
xấu đến tâm lý học tập ở trong người DTTS.
7.Một số giải pháp
Từ thực trạng quan hệ dân tộc ở nước ta
qua 30 năm đổi mới, để bảo đảm quyền bình
đẳng, cơ hội phát triển của các dân tộc và xây
dựng quan hệ dân tộc, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc phù hợp với bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, dưới góc độ
chính sách cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Chính sách dân tộc của Đảng phải có
tính hệ thống, từ các chính sách chung phát triển
tổng thể các DTTS, vùng DTTS cần phải xây
dựng chính sách cụ thể phù hợp với từng dân tộc
riêng lẻ nhằm hai mục tiêu: Một là, phát triển
toàn diện kinh tế - xã hội từng tộc người và cả
cộng đồng các DTTS; Hai là, xây dựng quan hệ
dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp
nhau cùng phát triển.
- Có chính sách cụ thể chăm lo phát triển
con người các DTTS từ phát triển thể chất (phát
triển nòi giống và sức khỏe cộng đồng) đến phát
triển trí lực, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và đời sống văn hóa tinh thần, tạo môi
trường để phát triển con người toàn diện.
- Cần xây dựng Bộ luật phát triển DTTS
hoặc nếu chưa đủ điều kiện thì xây dựng Nghị
quyết của Quốc hội về chính sách với các DTTS.
Có như vậy, các cơ quan liên quan mới thấy được
trách nhiệm của mình, cũng như tạo thuận lợi cho
các cơ quan của Quốc hội trong quá trình giám
sát việc áp dụng chính sách, pháp luật về DTTS.
- Tăng cường tuyên truyền giáo dục cho
nhân dân các dân tộc ý thức về sự thống nhất của
cộng đồng quốc gia/dân tộc; ý thức về quyền lợi
và trách nhiệm của mỗi dân tộc đối với sự thống
nhất bền vững của quốc gia/dân tộc. Cùng với
việc giáo dục nâng cao ý thức vươn lên trong quá
trình phát triển, tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp
nhau cùng tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống
các tư tưởng kỳ thị cũng như tự ti dân tộc, đấu
tranh chống lại âm mưu, hành động chí rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
- Để xây dựng quan hệ dân tộc, củng cố
khối đoàn kết dân tộc, định hướng hoàn thiện
chính sách dân tộc phù hợp với điều kiên mới,
cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu những vấn
đề về tộc người như: phương thức sinh hoạt kinh
tế của tộc người (Ethnic) và của dân tộc (Nation);
tâm lý dân tộc/tộc người, v.v; tính thống nhất và
sự đa dạng của ngôn ngữ, văn hóa dân tộc/tộc
người, cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về vấn
đề dân tộc/tộc người như: vấn đề quan hệ vận
mệnh dân tộc - quốc gia (Nation) và dân tộc/tộc
người (Ethnic), làm rõ những đặc trưng và mối
quan hệ giữa tộc người và dân tộc; quan hệ phát
triển dân tộc/tộc người và chính sách dân tộc; các
quá trình tộc người trong thời đại ngày nay, xu
hướng phân ly và liên kết các dân tộc; các vấn
đề phát triển dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị
trường: tác động của kinh tế thị trường đối với
sự phát triển của các DTTS; tác động của toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đối với các dân tộc;
quan hệ và giao lưu văn hoá giữa các dân tộc/tộc
người và vấn đề bảo tồn và phát triển các giá trị
văn hoá của các DTTS; kế thừa, phát huy các giá
trị trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên
của các dân tộc.
Sự biến đổi đa chiều và phức tạp của quan
hệ dân tộc trong thời kỳ đổi mới cho thấy rằng, để
xây dựng quan hệ dân tộc dựa trên nguyên tắc bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến
bộ, xây dựng vùng miền núi và dân tộc thành một
khu vực giàu về kinh tế, vững về chính trị, phát triển
nhanh về văn hóa, xã hội, mạnh về quốc phòng, an
ninh đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ xu hướng biến
đổi quan hệ dân tộc với những vấn đề đặt ra, từ
đó giúp chúng ta có chủ trương, giải pháp định
hướng hoàn thiện chính sách dân tộc nhằm bảo
đảm quyền bình đẳng, cơ hội phát triển của các
tộc người và tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài
cấp quốc gia:“Xu hướng biến đổi quan hệ dân
tộc: Những vấn đề đặt ra và định hướng chính
sách”, mã số KX.04.21/16-20.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chỉ đạo Tây Nguyên: Báo cáo tổng
kết Nghị quyết 10- NQ/TW của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010, Buôn Mê
Thuột, 2011;
[2] Báo Lao động, số 291, thứ Tư, ngày
16-12-2015. Các website: www.chinhphu.vn cập
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
12 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
nhật ngày 12-5-2015, 08:00 GMT+7;
dantri.com.vn, cập nhật thứ Năm, ngày 17-12-
2015, 7:20;
[3] Quốc Cảnh, Điện Biên đẩy nhanh tiến
độ di dân tái định cư Thủy điện Sơn La, Báo Nhân
Dân, số 21987, ngày 8-12-2015;
[4] Trương Minh Dục (Chủ nhiệm đề tài):
Quan hệ tộc người ở Tây Nguyên trong thời
kỳ đổi mới (từ 1986 đến 2010), mã số IV5.2 –
2011.26;
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết
số 22-NQ/BCT của Bộ Chính trị “Về một số chủ
trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội
miền núi”. Hà Nội, 1989;
[6] Trần Thị Hạnh- Phạm Văn Hùng
- Nguyễn Cao Thịnh - Hà Quang Khuê - Lò
Giàng Páo - Đặng Văn Thuận - Trần Trung Hiếu:
“Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng
dân tộc thiểu số và đề xuất các giải pháp phát
triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi”
thuộc Dự án VIE02/001 – SEDEMA & EMPCD:
“Tăng cường năng lực cho Ủy ban Dân tộc xây
dựng thực hiện và giám sát chính sách dân tộc”.
Hà Nội, tháng 11/2010;
[7] Nguyễn Thị Phương Hòa, Sử dụng dịch
vụ chăm sóc trước sinh của phụ nữ dân tộc ở Tây
Nguyên, Tạp chí Thông tin Y Dược, số 7/2008;
[8] Hôn nhân cận huyết thống: Nguyên
nhân làm suy giảm sức khỏe,
com.vn, cập nhật ngày 25- 3- 2010;
[9] Trần Thị Nhẹn, Bình đẳng dân tộc trên
lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội, 2009;
[10] Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ
Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông: Một số vấn đề lý
luận-thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm
đổi mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.
495, 496;
[11] Lê Duy Sớm, Thực trạng mạng lưới
y tế về chăm sóc sức khỏe sinh sản ở Việt Nam,
website: www.dangcongsan.vn, cập nhật ngày
9/11/2011.
THE CHANGES IN VIETNAM IN THE PERIOD OF THE INNOVATION
AND THE ORIENTATION TOWARDS ETHNIC POLICY
Abstract: Ethnic / ethnic relations are relations within each ethnic group; the relationship
between the peoples of the brothers; transnational relations; relations between the majority and
ethnic minorities; Relations between peoples and ethnic / national communities are reflected
in all aspects of social life from economics, politics to culture, society, religion and belief,
etc. This assessment focuses on the current state of change in ethnic relations in all areas
of social life during the renovation period (from 1986 to present), thus suggesting a policy
oriented solution to ensure equal rights, develop opportunities of ethnic groups and build
national relations, strengthen the national unity bloc in line with the context of globalization
and international integration today.
Key words: Ethnic relations; the ethnic minorities; ethnic policy; change the ethnic
relations.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 185_798_1_pb_3612_2151985.pdf