Tài liệu Biến chứng tụ dịch bạch huyết (lymphocele) sau ghép thận: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
67
BIẾN CHỨNG TỤ DỊCH BẠCH HUYẾT (LYMPHOCELE)
SAU GHÉP THẬN
Trương Hoàng Minh*, Trần Thanh Phong*, Trần Lê Duy Anh*, Trần Hải Phong*, Đỗ Anh Đức*,
Lê Hoàng Thịnh*, Lê Thị Nghĩa*, Nguyễn Phước Hải**, Trang Thị Cẩm Nguyên**, Phan Văn Báu***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tụ dịch bạch huyết (Lymphocele) là biến chứng ngoại khoa thường gặp ở bệnh nhân ghép thận.
Chúng tôi trình bày 2 trường hợp bị biến chứng Lymphocele xảy ra sau ghép thận với mục tiêu: Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng, cận lâm sàng của biến chứng Lymphocele hình thành sau ghép thận, chỉ định điều trị và biện pháp
phòng ngừa biến chứng.
Bệnh nhân và phương pháp: Hồi cứu mô tả 2 trường hợp lâm sàng từ tháng 2/2010 đến tháng 2/2018 tại
Bệnh viện Nhân Dân 115.
Kết quả: Bệnh nhân nam 46 tuổi (BN số 1), ghép thận lần 2 (lần đầu thải ghép thể dịch, lấy bỏ thận ghép) và
bệnh nhân nữ 34 tuổi (BN số 2) ghép thận lần đầu. Thời điểm xuất hiện biến chứng ...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng tụ dịch bạch huyết (lymphocele) sau ghép thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
67
BIẾN CHỨNG TỤ DỊCH BẠCH HUYẾT (LYMPHOCELE)
SAU GHÉP THẬN
Trương Hoàng Minh*, Trần Thanh Phong*, Trần Lê Duy Anh*, Trần Hải Phong*, Đỗ Anh Đức*,
Lê Hoàng Thịnh*, Lê Thị Nghĩa*, Nguyễn Phước Hải**, Trang Thị Cẩm Nguyên**, Phan Văn Báu***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tụ dịch bạch huyết (Lymphocele) là biến chứng ngoại khoa thường gặp ở bệnh nhân ghép thận.
Chúng tôi trình bày 2 trường hợp bị biến chứng Lymphocele xảy ra sau ghép thận với mục tiêu: Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng, cận lâm sàng của biến chứng Lymphocele hình thành sau ghép thận, chỉ định điều trị và biện pháp
phòng ngừa biến chứng.
Bệnh nhân và phương pháp: Hồi cứu mô tả 2 trường hợp lâm sàng từ tháng 2/2010 đến tháng 2/2018 tại
Bệnh viện Nhân Dân 115.
Kết quả: Bệnh nhân nam 46 tuổi (BN số 1), ghép thận lần 2 (lần đầu thải ghép thể dịch, lấy bỏ thận ghép) và
bệnh nhân nữ 34 tuổi (BN số 2) ghép thận lần đầu. Thời điểm xuất hiện biến chứng 1,5 tháng (BN số 1) và 2
tháng (BN số 2) sau ghép. Khối u vùng thận ghép ở cả 2 BN, ảnh hưởng chức năng thận (BN số 2). Tụ dịch trên
siêu âm và CT-Scan, chẩn đoán Lymphocele nhờ xét nghiệm dịch khi mổ. Điều trị mổ mở tạo cửa sổ vào khoang
sau phúc mạc. Kiểm tra 3 tháng sau mổ không ghi nhận tái phát.
Kết luận: Lymphocele hình thành sau ghép thận xẩy ra trong 2 tháng đầu sau ghép, phát hiện sớm nhờ siêu
âm và CT-Scan. Có 1 trường hợp thận ứ nước và niệu quản giãn, tăng mức Creatinin/huyết thanh. Điều trị mổ
mở dẫn lưu mở cửa sổ vào khoang phúc mạc là lựa chọn an toàn, ít tái phát.
Từ khóa: Lymphocele, ghép thận.
ABSTRACT
LYMPHOCELE FOLLOWING RENAL TRANSPLANTATION
Truong Hoang Minh, Tran Thanh Phong, Tran Le Duy Anh, Tran Hai Phong, Đo Anh Đuc,
Le Hoang Thinh, Lê Thi Nghia, Nguyen Phuoc Hai, Trang Thi Cam Nguyen, Phan Van Bau.
* Ho Chi Minh City Journal Of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 67 - 71
Objectives: Lymphocele is a common surgical complication of kidney transplant patients. We reported two
cases of Lymphocele complications occurring after kidney transplantation with the objective: To research the
clinical and subclinical features of Lymphocele complications formation after renal transplantation, indications for
treatment and prevention of complications.
Materials and Methods: Retrospective description of two clinical cases.
Results: The 46-year-old man (Patient No.1), the second kidney transplant (nephrectomy of first graff), and
the 34-year-old woman (Patient No.2). The occurrence time: 1.5-2 months after transplant. Mass at the pelvis
where the transplanted kidney in both patients, increase level creatinine/serum (patient No.2). Detection of fluid
on ultrasonography and CT-Scan, diagnosis of Lymphocele by testing fluid. Surgical treatment with the
marsupialization into the peritoneal cavity by open surgery. No recurrence after three months of surgery.
* Khoa ngoại niệu-ghép thận BVND 115. *** Giám đốc Bệnh viện Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: Trương Hoàng Minh ĐT: 0903982107 Email: hoangminhbv115@yahoo.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
68
Conclusions: Lymphoceles formed after kidney transplantation occurred in the first 2 months after
transplantation, early detection by ultrasonography and CT-Scan. There was one case of hydronephrosis and
dilatation of ureter, elevated serum creatinine / serum. Surgical treatment with the marsupialization into the
peritoneal cavity is a safe option, less recurrence.
Key words: Lymphocele, kidney transplantation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến chứng tụ dịch bạch huyết (Lymphocele)
hình thành ở bệnh nhân sau ghép thận là một
trong những biến chứng ngoại khoa thường gặp,
có tỉ lệ từ 0,6- 49% tùy theo từng trung tâm(2,3,4).
Thường Lymphocele không có triệu chứng,
nhưng có thể là nguyên nhân chèn ép vào thận
ghép, niệu quản, bàng quang, mạch máu thận
ghép gây suy giảm chức năng thận ghép, phù
chi dưới và đặc biệt làm thuyên tắc tĩnh mạch
chậu ngoài(1).
Có nhiều phương pháp điều trị dẫn lưu ổ
Lymphocele, chúng tôi trình bày 2 trường hợp
lâm sàng với mục tiêu: Nghiêncứu đặc điểm lâm
sàng, cận lâm sàng của biến chứng Lymphocele
hình thành sau ghép thận, chỉ định điều trị và
biện pháp phòng ngừa biến chứng.
BỆNH NHÂN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu mô tả các trường hợp lâm sàng từ
tháng 2/2010 đến tháng 2/2018 tại Bệnh viện
Nhân Dân 115. Có 2 bệnh nhân được chẩn đoán
Lymphocele.
Ghi nhận tiền sử bệnh, triệu chứng lâm sàng,
cận lâm sàng, kết quả điều trị và theo dõi sau 3
tháng điều trị.
KẾT QUẢ
Qua 2 trường hợp nhập khoa Ngoại niệu –
ghép thận, chúng tôi thu nhận kết quả sau:
Bảng 1. Lý do nhập viện và triệu chứng của bệnh nhân
Thông tin Bệnhnhânsố 1 Bệnhnhânsố 2
Họtên NguyễnVăn M Neak-S
Tuổi 46 tuổi 34 tuổi
Giới Nam Nữ
Tiền sử Tăng huyết áp Tăng huyết áp
Nơighépthận Việt Nam Campuchia
Vị trí đặt thận ghép Hố chậu trái (ghép lần 2) Hố chậu phải
Thời điểm xuất hiện 1,5 tháng 2 tháng
Ống JJ Đã rút Đã rút
Lâm sàng Không đau
Khối u hố chậu trái
Đi tiểu bình thường
Không đau
Khối u hố chậu phải
Đi tiểu lắt nhắt, thiểu niệu
Cận lâm sàng Urê/HT: 51,9 mg/dl
Creatinin/huyết thanh: 1,4 mg/dl
CRP: 1,06 mg/dl
Siêu âm: Tụ dịch cực dưới, sau thận ghép.
CT-Scan: Tụ dịch mặt sau, cực dưới thận ghép.
Urê/HT: 69 mg/dl
Creatinin/huyết thanh: 2,9 mg/dl
CRP: 1,05 mg/dl
Siêu âm: Tụ dịch cực dưới thận ghép lượng lớn.
CT-Scan: Tụ dịch quanh thận ghép.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
69
A B C
Hình1: A và B: Hình ảnh CT-Scan (lát cắt ngang, dọc thận ghép), C: Hình ảnh siêu âm vùng thận ghép.
A B C
Hình 2: A và B: Hình ảnh bệnh nhân trước mổ. C: Hình ảnh vết mổ dẫn lưu ổ Lymphocele.
Bảng 2. Kết quả điều trị
Thông tin Bệnh nhân số 1 Bệnh nhân số 2
Thời gian phẫu thuật 1g45 phút 1g 15 phút
Phương pháp mổ Mổ mở thăm dò, dẫn lưu + mở cửa sổ vào khoang
ổ bụng
Mổ mở thăm dò, dẫn lưu + mở cửa sổ vào khoang
ổ bụng
Lượng máu mất 50 ml 100 ml
Tổn thương cơ quan
lân cận
Không không
Sau mổ Thuốc sau mổ: Rocephin 2g/ngày, Perfalgan 1g x 3
/ngày
Dẫn lưu khô sau 1 ngày, rút ngày thứ 3 sau mổ
Cắt chỉ ngày 8 sau mổ
Ra viện: chức năng thận bình thường
Thuốc sau mổ: Rocephin 2g/ngày, Perfalgan 1g x 3
/ngày
Dẫn lưu khô sau 3 ngày rút, ngày thứ 5 sau mổ.
Creatinin/HT về bình thường ngày 3 sau mổ.
Cắt chỉ ngày 8 sau mổ
Ra viện: chức năng thận bình thường
Biến chứng Không Không
Tái khám 3 tháng Bình thường cả lâm sàng và siêu âm Bình thường cả lâm sàng và siêu âm
BÀN LUẬN
Lymphocele được định nghĩa là hiện tượng
tụ dịch bạch huyết ở khoang ngoài phúc mạc
không có lớp biểu mô lát tầng lót quanh
khoang(3). Tụ dịch quanh thận ghép thường xuất
hiện sớm sau ghép, thường xuất hiện từ 2 tuần
cho tới 6 tháng đầu sau ghép(3). Lượng dịch
Lymphocele ít thường không có triệu chứng và
không cần điều trị. Nếu lượng dịch nhiều, có
triệu chứng, ảnh hưởng đến chức năng thận
ghép hoặc chèn ép vào cơ quan lân cận thì phải
điều trị(2). Cả 2 TH biến chứng Lymphocele kể
trên xuất hiện 1,5 đến 2 tháng sau ghép. Tuy
nhiên, tác giả Zietek Z ghi nhận tỉ lệ biến chứng
Lymphocele là 12% và thời gian trung bình xuất
hiện biến chứng là 34 tuần(5).
Yếu tố thuận lợi làm gia tăng nguy cơ
Lymphocele là bệnh nhân có tiền căn tiểu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
70
đường, béo phì, bất thường về đông máu, sử
dụng liều cao thuốc lợi tiểu, chậm hồi phục chức
năng thận ghép, thải ghép, quá trình bóc tách
quá mức ở rốn thận khi lấy thận để ghép và bóc
tách mạch máu chậu để ghép(3). Ngoài ra, ảnh
hưởng của việc sử dụng thuốc ức chế mTOR còn
nhiều bàn cãi(3). Chúng tôi ghi nhận bệnh nhân
nam có tiền sử thải ghép thể dịch trước khi ghép
lần 2. Tác giả Zietek Z cũng cho rằng sau khi lấy
bỏ thận ghép là yếu tố nguy cơ làm gia tăng biến
chứng Lymphocele(5). Vấn đề phẫu tích ở rốn
thận ghép trong quá trình lấy thận và ghép thì
chúng tôi không khai thác được.
Về chẩn đoán dễ dàng nhận thấy trên siêu
âm, CT-Scan bụng có tiêm thuốc cản quang. Tuy
nhiên, siêu âm khó khăn loại trừ rò nước tiểu từ
trong hệ niệu. Chụp CT-Scan có lợi chẩn đoán
phân biệt rò từ đường niệu. Nếu rò tại vị trí cắm
lại niệu quản vào bàng quang, chụp bàng quang
thì rặn tiểu sẽ chẩn đoán dễ dàng với thuốc cản
quang thoát ra ngoài bàng quang. Xạ hình thận
là phương tiện tốt để chẩn đoán rò từ đường
niệu. Chọc hút dịch làm xét nghiệm ghi nhận
Ure và Creatinin/ dịch tương đương với nồng độ
trong huyết thanh là xét nghiệm chẩn đoán
dương tính. Cả 2 trường hợp của chúng tôi chụp
CT-Scan không ghi nhận thuốc cản quang thoát
ra ngoài đường niệu. Chúng tôi không chọc dò
vì ổ tụ dịch ở mặt sau thận ghép, vùng hố chậu
nên sợ làm tổn thương thận ghép và mạch máu
vùng chậu nên chủ động mổ thăm dò, lấy dịch
làm xét nghiệm xác định dịch Lymphocele.
Theo y văn, có nhiều phương pháp điều trị
Lymphocele, mổ mở hay mổ nội soi ổ bụng để
mở cửa sổ dẫn lưu dịch Lympho vào khoang ổ
bụng. Dần dần tổ chức bạch huyết quanh thận
ghép sẽ xơ hóa dần và hết tiết dịch. Chúng tôi
chủ động mổ mở nhằm kiểm tra xem có rò
đường niệu hay không, đồng thời tạo cửa sổ
thông ổ tụ dịch với khoang phúc mạc. Mặt khác
ổ tụ dịch ở sau thận ghép, thấy còn khá xa tới
khoang phúc mạc trên hình ảnh CT-Scan nên
không chỉ định mổ nội soi.
Sau khi kiểm tra chắc chắn không có tổn
thương hệ tiết niệu, chúng tôi dùng bột cầm máu
phun lên những vị trí nghi ngờ tiết dịch
lymphocele, đồng thời vừa dẫn lưu ổ mổ ra
ngoài vừa dẫn lưu vào khoang phúc mạc. Một số
tác giả cho rằng chỉ cần dẫn lưu vào khoang
phúc mạc là đủ và thực hiện qua nội soi ổ bụng
là lựa chọn ưu tiên(4).
Mổ lại theo đường mổ ghép thận cũ gặp
nhiều khó khăn như dính, chảy máu. Do vậy nếu
tiếp cận được qua nội soi ổ bụng là lý tưởng. Do
đây là những ca đầu nên chúng tôi không thực
hiện. Tuy nhiên, phải khẳng định tụ dịch là
Lymphocele mới thực hiện nội soi mở cửa sổ vì
nếu rò từ đường niệu sẽ gây viêm phúc mạc do
nước tiểu. Tác giả Marcelo Lopes de Lima ghi
nhận có 8% biến chứng tổn thương niệu quản
phải mổ lại(2).
Tùy theo kích thước cửa sổ vào ổ phúc mạc
và sử trí đốt những vị trí nghi ngờ tiết Lympho
mà có thể tái phát Lymphocele sau mổ, tác giả
Marcelo Lopes de Lima cũng ghi nhận tỉ lệ tái
phát là 4% sau 45 ngày điều trị(2). Theo Zietek Z,
tỉ lệ tái phát nếu chỉ chọc hút qua da là 100%, dẫn
lưu qua da dưới hướng dẫn siêu âm là 50%, mổ
nội soi qua ổ bụng tạo cửa sổ là 75%, mổ mở có
kết tốt nhất(5).
Chúng tôi theo dõi 3 tháng chưa ghi nhận tái
phát. Việc phòng ngừa biến chứng lymphocele
phải thực hiện từ tiến trình lấy thận và tiến trình
ghép thận. Kinh nghiệm của chúng tôi là cột mỡ
quanh rốn thận khi tiến hành lấy thận ở người
cho, đồng thời cột các tổ chức quanh mạch máu
vùng chậu ở người nhận khi bóc tách mạch máu
để khâu nối với mạch máu thận ghép, tránh
dùng dao đốt. Điều này có thể chứng minh qua
gần 200 trường hợp ghép thận tại BVND 115
nhưng chưa ghi nhận trường hợp nào bị
Lymphocele. Cả 2 trường hợp chúng tôi trình
bầy ở trên là ghép ở nơi khác chuyển tới.
KẾT LUẬN
Qua 2 trường hợp biến chứng Lymphocele
hình thành sau ghép thận xẩy ra trong 2 tháng
đầu sau ghép, phát hiện sớm nhờ siêu âm. Có 1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
71
trường hợp ổ tụ dịch chèn ép vào đường niệu
gây thận ứ nước độ 1, tăng mức Creatinin/huyết
thanh. Chẩn đoán xác định nhờ CT-Scan và xét
nghiệm dịch. Điều trị mổ mở dẫn lưu mở cửa sổ vào
khoang phúc mạc là lựa chọn an toàn, ít tái phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bzoma B, Kostro J, Debska-Slizien A et al (2016), “Treatment of
the Lymphocele after kidney transplantation: A single-center
experience”, Transplant Proc; 48(5), p. 1637-40.
2. de Lima ML, Moro JC et al (2012), “Laparoscopic treatment of
lymphoceles after renal transplantation”, Int. Braz JUrol; 38(2),
ISSN: 1677-6119, p; 1-7.
3. Ranghino A, Segoloni GP, Lasaponara F et al (2015), “Lymphatic
disorders after renal transplantation: new insights for an old
complication”, Clin Kidney J; 8(5), p. 615-22.
4. Shaver TR, Swanson SJ, Carlos FB et al (1993), “The optimal
treatment of lymphoceles following renal transplantation”,
Transplant Int; 6(2), p.108-110.
5. Zietek Z, Sulikowski T, Tejchman K et al (2007), “Lymphocele
after kidney transplantation”, Transplant Proc; 39(9), p. 2744-7.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_chung_tu_dich_bach_huyet_lymphocele_sau_ghep_than.pdf