Tài liệu Biến chứng thường gặp nhất và các yếu tố nguy cơ ở trẻ nhũ nhi nhập viện vì viêm tiểu phế quản nặng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 56
BIẾN CHỨNG THƯỜNG GẶP NHẤT VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
Ở TRẺ NHŨ NHI NHẬP VIỆN VÌ VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN NẶNG
Nguyễn Thị Hương*, Tăng Chí Thượng**
TÓM TẮT
Tổng quan: Viêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh lí viêm nhiễm cấp tính do siêu vi của các phế quản cỡ nhỏ
và trung bình, thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi. Đây là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ nhũ nhi phải nhập viện.
Đặc biệt, biến chứng của bệnh dễ xảy ra nếu trẻ mắc VTPQ nặng hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ, làm tăng nguy
cơ tử vong ở các trẻ này.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ hiện mắc của biến chứng thường gặp nhất và khảo sát mối tương quan giữa biến
chứng này với một số yếu tố nguy cơ ở trẻ mắc VTPQ nặng < 12 tháng tuổi.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, cắt dọc mô tả, thu thập số liệu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên đơn giản trên 210 trẻ VTPQ nặng dưới 12 tháng tuổi thỏa tiêu ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng thường gặp nhất và các yếu tố nguy cơ ở trẻ nhũ nhi nhập viện vì viêm tiểu phế quản nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 56
BIẾN CHỨNG THƯỜNG GẶP NHẤT VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
Ở TRẺ NHŨ NHI NHẬP VIỆN VÌ VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN NẶNG
Nguyễn Thị Hương*, Tăng Chí Thượng**
TÓM TẮT
Tổng quan: Viêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh lí viêm nhiễm cấp tính do siêu vi của các phế quản cỡ nhỏ
và trung bình, thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi. Đây là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ nhũ nhi phải nhập viện.
Đặc biệt, biến chứng của bệnh dễ xảy ra nếu trẻ mắc VTPQ nặng hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ, làm tăng nguy
cơ tử vong ở các trẻ này.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ hiện mắc của biến chứng thường gặp nhất và khảo sát mối tương quan giữa biến
chứng này với một số yếu tố nguy cơ ở trẻ mắc VTPQ nặng < 12 tháng tuổi.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, cắt dọc mô tả, thu thập số liệu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên đơn giản trên 210 trẻ VTPQ nặng dưới 12 tháng tuổi thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và nhập phòng cấp cứu
khoa Hô hấp bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 01/2014 đến 08/2014.
Kết quả: Tỉ suất hiện mắc chung của các biến chứng là 65,2 %. Đa số trẻ mắc ít nhất 1 biến chứng
(42,68%). Số trẻ mắc 2 biến chứng (17,14%) giảm hẳn. Số trẻ mắc 3 biến chứng trở lên (5,24%) chiếm tỉ lệ
không đáng kể.Tỉ suất hiện mắc từng biến chứng ở trẻ VTPQ nặng: viêm phổi (46,1%), hạ Na máu (22,38%),
xẹp phổi (9,52%), nhiễm trùng huyết (8,57%), suy hô hấp (4,28%), cơn ngưng thở (3,33%), tràn khí màng phổi
(0,47%). Không có trẻ nào tử vong. Các bé trai có nguy cơ viêm phổi cao hơn các bé gái 2,05 lần (OR = 2,05, p =
0,018). Trẻ sanh non dưới 34 tuần có nguy cơ viêm phổi cao gấp 3.83 lần so với trẻ đủ tháng (OR = 3,83,
p=0,030).
Kết luận: Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất ở trẻ mắc VTPQ nặng dưới 12 tháng tuổi. Các yếu tố
nguy cơ có tương quan với viêm phổi là giới tính nam và tiền căn sanh non dưới 34 tuần.
Từ khóa: viêm tiểu phế quản, nhũ nhi, biến chứng.
ABSTRACT
THE MOST FREQUENT COMPLICATION AND ITS RISK FACTORS IN INFANTS HOSPITALIZED
FOR SEVERE BRONCHIOLITIS
Nguyen Thi Huong, Tang Chi Thuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 56 - 63
Background: Bronchiolitis is a disorder commonly caused by viral lower respiratory tract infection in
small airways of children under two years old. It is the most common cause of hospitalization among infants
during the first 12 months of life. Complications are more frequent in infants with severe bronchiolitis or risk
factors. When occurring, complications are associated with an increasing proportion of deaths.
Objective: To identify the incidence and risk factors of the most frequent complication in infants
hospitalized for severe bronchiolitis.
Methods: We enrolled 210 infants, hospitalized with severe bronchiolitis at Respiratory department of
Childrenhospital number 1, from the January to August 2004.
Results: Most infants had one or more complications (65.2 %). 42.68% had one complication, 17.14% had
*Khoa Hô hấp, Bệnh viện Nhi Đồng 1 ** Sở Y Tế Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc : BS. Nguyễn Thị Hương ĐT: 0838683007 E-mail: nguyenthihuong.ntnhi@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 57
two complications, and the minority of infants had three or more complications (5.24%). Pneumonia
complication was most frequent (46.1%). The others complications were hyponatraemia (22.38%), atelectasis
(9.52%), bacteremia (8.57%), respiratory failure (4.28%), apneic episodes (3.33%), pneumothorax (0.47%). No
infant died. Male infants had the high risk to suffer from pneumonia complication more than female infants
(OR=2.05, p=0.018). For preterm infants (< 34 weeks gestation), pneumonia complication rate was 3.83 times
higher than term infants.
Conclusions: Pneumonia was the most frequent complication in infants admitted to hospital for severe
bronchiolitis. The significant factors were male gender and preterm infants (<34 weeks gestation.
Keywords: bronchiolitis, infant, complication.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh lí viêm
nhiễm cấp tính do siêu vi của các phế quản cỡ
nhỏ và trung bình, thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi,
đặc trưng bởi hội chứng lâm sàng bao gồm ho,
khò khè, thở nhanh, có thể kèm co lõm ngực (19).
Virus hợp bào hô hấp (RSV- Respiratory
syncytial virus) là tác nhân hàng đầu gây ra
bệnh và cũng là nguyên nhân phổ biến dẫn đến
các nhiễm khuẩn hô hấp thường gặp ở trẻ em(22).
Thật vậy, ước tính có tới 90% trẻ em từng
nhiễm RSV trong 2 năm đầu đời, 40% số này sẽ
bị nhiễm khuẩn hô hấp dưới(6,9). Vì miễn dịch
của cơ thể với RSV không lâu dài nên một trẻ
vẫn có thể tái nhiễm RSV nhiều lần trong đời.
Tại Mỹ, VTPQ là nguyên nhân hàng đầu khiến
trẻ nhũ nhi phải nhập viện, với gần 150.000
trường hợp hàng năm(11). Tỷ lệ nhập viện do
VTPQ ở trẻ nhũ nhi cũng đã tăng gấp đôi từ
1980 đến 1996(3). Với số lượng bệnh nhân lớn
như vậy, phí tổn dành cho điều trị VTPQ ở trẻ
nhũ nhi ước tính trên 700 triệu đô la Mỹ mỗi
năm(17). Con số này thậm chí đã vượt quá 1 tỷ đô
la Mỹ vào 2006(3). Ở Việt Nam, chưa có nghiên
cứu thống kê nào khảo sát qui mô chung của
bệnh VTPQ. Nhưng chỉ riêng tại khoa Hô hấp
bệnh viện Nhi Đồng I hàng năm tỷ lệ trẻ cần
nhập viện điều trị VTPQ khá cao, chiếm khoảng
35-37% tổng số trẻ nằm viện, cho thấy mức độ
ảnh hưởng của bệnh cũng tương tự như các
nước trên thế giới(14).
Mặc dù VTPQ là bệnh có diễn tiến lành tính,
đa phần bệnh sẽ thoái lui sau 7 ngày, tuy nhiên
biến chứng của bệnh vẫn rất thường gặp ở những ca
phải nhập viện, đặc biệt là các trẻ mắc VTPQ nặng
cần cung cấp oxy hoặc các trẻ có kèm yếu tố nguy cơ
như tuổi dưới 3 tháng, sanh non, nhẹ cân hoặc
có bệnh nền sẵn như tim bẩm sinh, loạn sản
phổi, suy dinh dưỡng, suy giảm miễn dịch. Một
khi biến chứng xảy ra, nguy cơ tử vong của trẻ cũng
tăng lên.
Tại Mỹ, tử vong do RSV ước tính vào
khoảng 450 trường hợp mỗi năm, và đặc biệt
tăng trong nhóm trẻ có nhiều yếu tố nguy cơ
hoặc bị biến chứng(20). Đáng lưu ý là tỷ lệ tử
vong do VTPQ không thay đổi nhiều trong khi
tử vong do các bệnh hô hấp khác đã giảm(16). Rõ
ràng, VTPQ không chỉ đơn thuần là một bệnh
hô hấp thông thường và tự giới hạn, mà thực sự
bệnh có lâm sàng khá đa dạng và phức tạp, nếu
người thầy thuốc không lưu tâm đến các biến
chứng có thể gặp của bệnh thì tử vong do VTPQ
là hoàn toàn có thể xảy ra.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu khảo
sát tỷ suất hiện mắc và các yếu tố nguy cơ của
từng biến chứng gây ra do VTPQ. Nhưng tại
Việt Nam, mới chỉ có công trình nghiên cứu của
Phạm Thị Minh Hồng tìm hiểu khái quát về vấn
đề này (12). Trẻ nhập viện vì VTPQ, đặc biệt là
VTPQ nặng có thể mắc những biến chứng nào?
Cụ thể hơn, biến chứng nào thường gặp nhất và
những yếu tố nguy cơ của biến chứng này là gì?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi quyết định cần
phải thực hiện một nghiên cứu khảo sát “tỷ suất
hiện mắc và các yếu tố nguy cơ của biến chứng
thường gặp nhất ở trẻ mắc VTPQ nặng” nhằm đưa
tới cho nhà lâm sàng một cái nhìn toàn cảnh về
bệnh, đồng thời góp phần vào tìm kiếm chiến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 58
lược hiệu quả trong phòng ngừa biến chứng
này. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chú trọng
đến đối tượng trẻ dưới 12 tháng tuổi là độ tuổi
nhập viện chủ yếu của VTPQ (trẻ nhũ nhi
chiếm tới 90% tổng số trẻ nhập viện vì VTPQ(4)),
đồng thời là độ tuổi mà các biến chứng thường
xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ hiện mắc của từng biến chứng
Đánh giá mối tương quan giữa biến chứng
thường gặp nhất với các YTNC.
PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, cắt dọc mô tả
Dân số đích
Tất cả trẻ < 12 tháng tuổi mắc VTPQ nặng tại
khoa Hô hấp BV.NĐ1 TP. HCM trong thời gian
từ tháng 01/2014 08/2014.
Dân số chọn mẫu
Trẻ < 12 tháng tuổi, nhập phòng cấp cứu
khoa Hô hấp BV.NĐ1 TP. HCM vì VTPQ nặng
thoả tiêu chuẩn chọn mẫu
Cỡ mẫu
210 bệnh nhi
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu
nhiên đơn giản
Tiêu chuẩn lựa chọn
Trẻ nhũ nhi (1 < 12 tháng tuổi)
Mắc VTPQ nặng
Khò khè lần đầu
Được làm đầy đủ xét nghiệm cần thiết cho
nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Trẻ bị thay đổi chẩn đoán xác định bệnh
trong quá trình điều trị (ví dụ suyễn nhũ nhi)
Trẻ có biểu hiện đông đặc phổi trên XQ
ngay tại thời điểm nhập viện.
Trẻ được chuyển đến khoa khác điều trị tiếp
và không được làm đầy đủ xét nghiệm cần thiết
cho nghiên cứu.
Trẻ xin xuất viện sớm trong quá trình điều
trị.
Thu thập số liệu
Theo bệnh án mẫu.
Quy trình thu thập số liệu
Các trẻ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được
hỏi bệnh sử, tiền căn, khám thực thể.
Đề nghị xét nghiệm tầm soát biến chứng:
huyết đồ, ion đồ máu, CRP, Glucose máu,
KMĐM, XQ phổi (lúc nhập viện, 48h và 96h sau
nhập viện, hoặc ngay khi trẻ sốt cao lên hoặc có
dấu hiệu hô hấp xấu đi), SA tim, ECG, TPTNT,
cấy nước tiểu, cấy máu, cấy đàm.
Kết quả XQ được đọc bởi các bác sĩ khoa
Chẩn đoán hình ảnh.
Trong quá trình nằm viện, trẻ sẽ được theo
dõi sát để ghi nhận các biến chứng mới xuất
hiện cho đến khi xuất viện.
Biến số
Dịch tễ học lâm sàng: tuổi, giới, tình trạng
dinh dưỡng, tiền căn.
Biến chứng: về hô hấp, bội nhiễm, tim
mạch, rối loạn điện giải và tử vong.
Một số tiêu chuẩn :
Viêm tiểu phế quản(1,15,19): dựa theo AAP
2014 và NICE 2015:
Tuổi dưới 24 tháng, đặc biệt là dưới 12
tháng
Tiền triệu nhiễm siêu vi hô hấp trên kéo dài
1-3 ngày, sau đó ho, khò khè, thở nhanh, rút
lõm ngực, bú kém xảy ra nhanh vào ngày 3-4
của bệnh
Sốt thường dưới 390C
Khó thở thì thở ra với ran rít, ran ngáy lan
tỏa 2 phế trường
Khò khè thường là đợt đầu tiên trong đời
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 59
Viêm tiểu phế quản nặng: 1 trong các dấu
hiệu sau:
Rối loạn tri giác
Bỏ bú
Thở nhanh > 70 lần/phút
Thở không đều, có cơn ngừng thở
Tím
Co lõm ngực nặng
SpO2< 92% với khí trời
Suy hô hấp: mức độ suy hô hấp được coi
như biến chứng của VTPQ khi suy hô hấp độ
III. Nghĩa là không đáp ứng với oxy ở ngưỡng
FiO2> 60% hoặc PaO2< 40 mmHg.
Cơn ngưng thở: tình trạng ngưng thở không
giải thích được kéo dài > 20s hoặc ngắn hơn nếu
làm tím, chậm nhịp tim, giảm trương lực cơ.
Xẹp phổi: hình mờ tương đối đồng nhất
chiếm 1 thùy hoặc phân thùy phổi mà không có
khí ảnh nội phế quản bên trong.
Tràn khí màng phổi: tình trạng tích tụ khí
trong khoang màng phổi, biểu thị bằng khoảng
tăng sáng vô mạch nằm ngoài màng phổi tạng
trên XQ.
Viêm phổi: thâm nhiễm trên XQ kèm theo
biểu hiện nhiễm khuẩn như sốt cao lên hoặc
dấu hiệu hô hấp xấu nhanh, kèm cấy đàm hoặc
cấy máu dương tính.
Nhiễm trùng huyết: hội chứng đáp ứng
viêm toàn thân + cấy máu dương tính
Nhiễm trùng tiểu: cấy nước tiểu giữa dòng
có > 50.000 khúmVK/ ml với một loại VK duy
nhất
Cơn cao áp phổi: Áp lực động mạch phổi
trung bình > 30 mmHg lúc gắng sức hoặc > 25
mmHg lúc nghỉ.
Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất: đo ECG
có tần số tim > 150-300 lần/phút, sóng P có thể
thấy được hoặc không, phức bộ QRS bình
thường hoặc dãn rộng.
Hạ Natri máu: Na < 135 mEq/L
Xử lí và phân tích số liệu
Mã hóa và nhập dữ liệu bằng phần mềm
Excel 2010.
Phân thích và xử lí bằng phần mềm R 3.2.1.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng khảo sát
Tại khoa Hô hấp BV.NĐ1 trong thời gian từ
01 08/2014 có 210 trẻ VTPQ nặng nhập phòng
cấp cứu thỏa các tiêu chí cần thiết cho nghiên
cứu. Trong đó, tuổi nhỏ nhất là 1 tháng, lớn
nhất là 12 tháng, tuổi trung vị là 3 tháng, tập
trung chủ yếu dưới 5 tháng tuổi (75%). Số lượng
trẻ mắc VTPQ nặng giảm dần theo các nhóm
tuổi, độ tuổi chiếm ưu thế là dưới 3 tháng tuổi.
Các trẻ nam mắc bệnh nhiều hơn nữ, gần gấp
rưỡi so với giới nữ (1,69/1).
Biểu đồ 1: Phân bố VTPQ nặng theo nhóm tuổi
Bảng 1: Phân bố VTPQ nặng theo giới tính
Giới tính Tỷ lệ (%)
Nam 62,8
Nữ 37,2
Các YTNC thường gặp trong nghiên cứu là
tuổi dưới 3 tháng, sanh nhẹ cân, sanh non dưới
34 tuần, tim bẩm sinh, suy dinh dưỡng nặng.
Các YTNC còn lại chiếm tỉ lệ không đáng kể (<
5%). Không có trẻ nào bị SGMD mắc phải.
Bảng 2: Phân bố VTPQ nặng theo các YTNC
Yếu tố nguy cơ Tỷ lệ (%)
Dưới 3 tháng 43,33
Nhẹ cân 29,52
Sanh non dưới 34 tuần 16,67
Bệnh tim bẩm sinh 5,71
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 60
Yếu tố nguy cơ Tỷ lệ (%)
Suy dinh dưỡng nặng 5,33
Suy hô hấp sơ sinh 4,28
Bệnh phổi mạn tính sẵn có 3,33
Down 1,42
Tỉ suất hiện mắc các biến chứng
Tỉ suất hiện mắc chung của các biến chứng
ở trẻ bị VTPQ nặng là 65,2%. Đa số các trẻ mắc ít
nhất 1 biến chứng (42,86%). Số trẻ mắc 2 biến
chứng giảm hẳn (17,14%). Số trẻ mắc 3 biến
chứng trở lên chiếm tỉ lệ không đáng kể (5,24%).
Các trẻ bị VTPQ nặng thường mắc biến
chứng viêm phổi nhiều nhất (46,1%), các biến
chứng khác xếp theo thứ tự thường gặp là hạ
Na máu (22,38%), xẹp phổi (9,52%), nhiễm
trùng huyết (8,57%), suy hô hấp (4,28%), cơn
ngưng thở (3,33%), tràn khí màng phổi (0,47%).
Không có trẻ nào tử vong.
Nhìn chung, các vùng phổi phải thường bị
thâm nhiễm nhiều hơn so với phổi trái, đặc biệt
là rốn và đỉnh phổi phải (44,3%)
Bảng 3: Phân bố số biến chứng ở trẻ VTPQ nặng
Biến chứng Tỷ suất (%)
Viêm phổi 46,1
Hạ Na máu 22,38
Xẹp phổi 9,52
Nhiễm trùng huyết 8,57
Suy hô hấp 4,28
Cơn ngưng thở 3,33
Tràn khí màng phổi
Bảng 4:Tỉ suất hiện mắc từng biến chứng
Vị trí Tỷ lệ (%)
Đỉnh phổi phải 14,4
Rốn phổi phải 29,9
Thùy giữa phổi phải 12,4
Sau bóng tim trái 15,5
Rải rác nhiều vùng 27,8
Bảng 5: Phân bố vị trí viêm phổi
Số lượng biến chứng Tỷ lệ (%)
Không 34,76
1 42,86
2 17,14
Từ 3 trở lên 5,24
Mối tương quan giữa biến chứng thường
gặp nhất với các YTNC
Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất ở
trẻ VTPQ nặng nên sẽ được đưa vào phương
trình hồi qui logistic đa biến với các YTNC
nhằm khảo sát mối tương quan có thể có. Kết
quả phân tích đa biến cho thấy chỉ có giới tính
nam và tiền căn sanh non dưới 34 tuần là thật
sự có ý nghĩa thống kê (p< 0,05) và có tương
quan mạnh mẽ với Viêm phổi. Chỉ số OR tính
được cho giới tính nam là 2,05 (p= 0,018) và tiền
căn sanh non là 3,83 (p=0,030).
Bảng 6: Phân tích hồi qui logistic đa biến giữa viêm
phổi với các YTNC
Biến số
Viêm phổi
Β Trị số p
Giới (nam) 0,721 0,018 *
Tuổi < 3 tháng -0,343 0,266
Tim bẩm sinh -0,660 0,356
Bệnh phổi mạn tính 1,756 0,158
Sanh non < 34 tuần 1,345 0,030 *
Nhẹ cân -0,073 0,876
Suy hô hấp sơ sinh -1,152 0,222
Suy dinh dưỡng nặng -0,898 0,264
Down 0,748 0,561
Bảng 7: Chỉ số OR của viêm phổi với giới và sanh
non
Biến số
Viêm phổi
OR KTC 95% Trị số p
Giới (nam) 2,05 1,45 – 2,64 0,018
Sanh non < 34
tuần 3,83 2,61 – 5,04 0,030
BÀN LUẬN
Sau khảo sát 210 trẻ bị VTPQ nặng nhập
phòng cấp cứu khoa Hô hấp BV.NĐ1, chúng tôi
ghi nhận có 137/210 trẻ bị biến chứng, chiếm tỉ
lệ 65,2%. Trong đó đa số trẻ chỉ mắc 1 biến
chứng là 90/210, chiếm tỉ lệ 42,86%. Số trẻ mắc 2
biến chứng là 36/210, chiếm tỉ lệ 17,14%. Số trẻ
mắc 3 biến chứng trở lên chiếm tỉ lệ thấp 11/210
(5,24%).
Như vậy, tỉ lệ trẻ bị biến chứngcủa chúng
tôi (65,2%) cao hơn hẳn nghiên cứu của Phạm
Thị Minh Hồng (16,1%) do đối tượng trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 61
nghiên cứu của chúng tôi là trẻ bị VTPQ nặng,
và nhiều trẻ có thêm YTNC đi kèm(12). Tỉ lệ biến
chứng của chúng tôi lại thấp hơn so với Willson
(79%) vì chúng tôi không thể khảo sát được tất
cả các biến chứng khác của VTPQ như hội
chứng tăng tiết ADH không thích hợp, bệnh lí
não(21).
Viêm phổi do vi khuẩn là biến chứng
thường gặp nhất trong nghiên cứu của chúng
tôi (46,1%), chủ yếu do nhiễm trùng bệnh viện.
Các vùng phổi phải thường bị thâm nhiễm
nhiều hơn so với phổi trái, đặc biệt là rốn và
đỉnh phổi phải (44,3%). Tỉ lệ cấy đàm dương
tính thấp, các tác nhân thường gặp là Klebsiella
spp., Morganella morganii.
Tỉ lệ viêm phổi dao động khá nhiều so với
các nghiên cứu (7,6-43,9%). Có thể thấy, tỉ lệ
viêm phổi của chúng tôi cao hơn hẳn so với
Phạm Thị Minh Hồng (15,75%), Willson
(7,6%), Kanai (16,1%) và chỉ tương đồng với
các nghiên cứu trên đối tượng trẻ nhũ nhi
nhập khoa ICU ở các nước phát triển (42,4-
43,95%)(5,7,12,18,21). Ngoài sự khác biệt gây ra do
đối tượng nghiên cứu khác nhau, thì yếu tố
chính đưa tới những kết luận khác nhau này
là qui ước viêm phổi ở các nghiên cứu chưa
có sự thống nhất. Rõ ràng nếu chỉ dựa vào XQ
phổi thì không thể phân biệt được viêm phổi
do vi khuẩn hay viêm phổi do virus(10). Do đó,
một số nghiên cứu yêu cầu phải có bằng
chứng vi sinh, nhưng không phải phòng xét
nghiệm nào cũng đủ khả năng. Vì vậy, việc
khởi động kháng sinh sớm dựa vào các dấu
hiệu nặng trên lâm sàng và bằng chứng thâm
nhiễm trên XQ vẫn có thể chấp nhận được(23).
Như vậy, ở các nước phát triển, viêm phổi là
biến chứng không thường gặp trên các trẻ bị
VTPQ thông thường và có điều kiện chăm sóc,
cách ly tốt. Nhưng tại các nước đang phát triển
như Việt Nam, trong điều kiện quá tải của các
bệnh viện thì viêm phổi là biến chứng hàng đầu
cần được lưu tâm trên các trẻ VTPQ, đặc biệt là
các trẻ VTPQ nặng. Do đó, viêm phổicần được
khảo sát kĩ lưỡng hơn về đặc điểm, và tương
quan với các YTNC.
Vì số lượng trẻ nam chiếm ưu thế trong
nghiên cứu của chúng tôi (1,69/1), đồng thời trẻ
nam lại có nguy cơ tử vong cao hơn so với trẻ
nữ(8). Nên để kiểm soát ảnh hưởng của giới tính
lên giá trị thực của tương quan, chúng tôi đưa
thêm vào mô hình hồi qui đa biến biến số giới
tính.Sau khi khảo sát logistic đa biến, đa phần
các YTNC đều không có tương quan và bị loại
khỏi mô hình, chỉ còn lại tiền căn sanh non < 34
tuần (OR= 3,83, p=0,030) và giới tính nam (OR=
2,05, p=0,018) vẫn có tương quan có ý nghĩa
thống kê.
Nhiều nghiên cứu đều đưa ra báo cáo sanh
non là YTNC độc lập mạnh mẽ cho các biến
chứng của VTPQ nói chung, đặc biệt là biến
chứng về hô hấp nói riêng. Nghiên cứu của
Willson năm 2003 cho thấy tỉ lệ biến chứng cao
hơn ở trẻ sanh non (87%), đáng chú ý là trẻ sanh
non từ 33 - 35 tuần tuổi thai mắc biến chứng
nhiều nhất (93%), với thời gian nằm viện dài
hơn và tiêu tốn kinh phí điều trị nhiều hơn trẻ
đủ tháng (p< 0,04). Cũng theo Willson, tỉ lệ trẻ
VTPQ cần thông khí cơ học cao hơn hẳn ở trẻ
sanh non (28,7%), so với trẻ không có YTNC nào
(9,1%, p< 0,0001)(21). Trong nghiên cứu khảo sát
riêng biến chứng giảm oxy máu và suy hô hấp
của Chan cùng cộng sự, kết quả cho thấy chỉ có
sanh non là yếu tố nguy cơ độc lập mạnh mẽ
sau khi được phân tích bằng hồi qui đa biến. Cụ
thể giảm oxy máu có OR = 1,17 (p<0,01), và suy
hô hấp có OR = 1,14 (p<0,02)(2).
Lí giải tại sao trẻ sanh non dễ mắc các
biến chứng về hô hấp, cần xem xét nhiều đặc
điểm phối hợp trên đối tượng này. Bên cạnh
sự chưa trưởng thành và hoạt động kém hiệu
quả của hệ thống miễn dịch, trẻ sanh non còn
mang những biểu hiện chưa trưởng thành về
giải phẫu và sinh lý của hệ thống hô hấp. Thể
tích phổi ở trẻ sinh 30 tuần chỉ khoảng 25 ml
trong khi trẻ đủ tháng 150-200 ml. Tương tự,
phổi chỉ nặng 20-25g so với 50g ở trẻ đủ
tháng. Ngoài ra, trẻ sinh non có số lượng phế
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 62
nang ít hơn và đường kính phế nang hẹp hơn
32 µm so với 150 µm ở trẻ đủ tháng(13).
Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi về lí giải,
giới tính nam đã được y văn ghi nhận là YTNC
của VTPQ nặng(22). Trẻ nam cũng có nguy cơ
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính cao hơn trẻ nữ, và
một khi đã mắc thì nguy cơ tử vong cao hơn trẻ
nữ 1,5 lần(8).
Các biến chứng khác trong nghiên cứu có
tỉ suất hiện mắc nằm trong khoảng dao động
của các nghiên cứu trước đó trên thế giới.
KÊT LUẬN
Về tỉ suất hiện mắc của các biến chứng ở
trẻ VTPQ nặng
Tỉ suất hiện mắc chung của các biến chứng
ở trẻ bị VTPQ nặng là 65,2%. Đa số các trẻ mắc ít
nhất 1 biến chứng (42,86%). Số trẻ mắc 2 biến
chứng giảm hẳn (17,14%). Số trẻ mắc 3 biến
chứng trở lên chiếm tỉ lệ không đáng kể (5,24%).
Các trẻ bị VTPQ nặng thường mắc biến
chứng viêm phổi nhiều nhất (46,1%), các biến
chứng khác là hạ Na máu (22,38%), xẹp phổi
(9,52%), nhiễm trùng huyết (8,57%), suy hô hấp
(4,28%), cơn ngưng thở (3,33%), tràn khí màng
phổi (0,47%).
Không có trẻ nào tử vong.
Về tương quan giữa biến chứng thường gặp
nhất với yếu tố nguy cơ:
Các bé trai có nguy cơ viêm phổi cao hơn
các bé gái 2,05 lần
Trẻ sanh non dưới 34 tuần có nguy cơ viêm
phổi cao gấp 3,83 lần so với trẻ đủ tháng hoặc
hơi non
Xin chân thành cảm ơn: Khoa hô hấp, Phòng Kế hoạch tổng
hợp, BS. Trần Anh Tuấn, BS. Trần Thiện Ngọc Thảo, BS Phùng
Nguyễn Thế Nguyên, BS Ngô Ngọc Quang Minh, các em sinh
viên Nguyễn Minh Châu, Chế Hoàng Thái, BS Nguyễn Trần
Quốc Việt, BS Lê Quốc Tuấn, BS Phan Quang Hiếu đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi thực hiện bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bronchiolitis in children. NICE guideline 2015.
2. Chan PW, Lok FY, Khatijah SB.(2002) Risk factors for
hypoxemia and respiratory failure in respiratory syncytial
virus bronchiolitis. The Southeast Asian journal of tropical
medicine and public health ;33:806-10,
3. Corneli HM, Zorc JJ, Holubkov R, et al.(2012) Bronchiolitis:
clinical characteristics associated with hospitalization and
length of stay. Pediatric emergency care ;28:99-103.
4. Deshpande SA, Northern V. (2003) The clinical and health
economic burden of respiratory syncytial virus disease
among children under 2 years of age in a defined
geographical area. Arch Dis Child ;88:1065-9.
5. Duttweiler L, Nadal D, Frey B. (2004) Pulmonary and
systemic bacterial co-infections in severe RSV bronchiolitis.
Arch Dis Child ;89:1155-7.
6. Greenough A, Cox S, Alexander J, et al. (2001) Health care
utilisation of infants with chronic lung disease, related to
hospitalisation for RSV infection. Arch Dis Child;85:463-8.
7. Kanai H, Sato Y, Ichihashi K. (2012) Hyponatremia in
patients with respiratory syncytial virus bronchiolitis.
Pediatric health, medicine and therapeutics ;3:39-43.
8. Mage DT, Donner EM. (2004) The fifty percent male excess of
infant respiratory mortality. Acta Paediatr ;93:1210-5.
9. Meissner HC. (2003) Selected populations at increased risk
from respiratory syncytial virus infection Pediatr Infect Dis J
;22:40-4.
10. Orenstein DM. Bronchiolitis. (2000) Nelson textbook of
Pediatrics. 16th ed:991-3.
11. Pelletier AJ, Mansbach JM, Camargo CA, Jr. (2006) Direct
medical costs of bronchiolitis hospitalizations in the United
States. Pediatrics ;118:2418-23.
12. Phạm Thị Minh Hồng. (2004) Vai trò của virus hợp bào hô
hấp trong viêm tiểu phế quản ở trẻ em và các yếu tố tiên
lượng. Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Phạm Thị Minh Hồng. (2006) Đặc điểm giải phẫu và sinh lý
hệ hô hấp trẻ em. Nhi khoa chương trình đại học TP. Hồ Chí
Minh: NXB Y học
14. Phan Hữu Nguyệt Diễm. (2006) Viêm tiểu phế quản cấp. Tp
Hồ Chí Minh: NXB Y học
15. Ralston SL, Lieberthal AS, Meissner HC, et al. (2014) Clinical
practice guideline: the diagnosis, management, and
prevention of bronchiolitis. Pediatrics ;134:e1474-502.
16. Shay DK, Holman RC, Roosevelt GE, Clarke MJ, Anderson
LJ. (2001) Bronchiolitis-associated mortality and estimates of
respiratory syncytial virus-associated deaths among US
children, 1979-1997. The Journal of infectious diseases
;183:16-22.
17. Stang P, Brandenburg N, Carter B. (2001) The economic
burden of respiratory syncytial virus-associated bronchiolitis
hospitalizations. Archives of pediatrics & adolescent
medicine ;155:95-6.
18. Thorburn K, Harigopal S, Reddy V, Taylor N, van Saene HK.
(2006) High incidence of pulmonary bacterial co-infection in
children with severe respiratory syncytial virus (RSV)
bronchiolitis. Thorax ;61:611-5.
19. Trần Anh Tuấn. (2006) Viêm tiểu phế quản. Tp Hồ Chí Minh:
NXB Y học
20. 20, Welliver RC. (2003) Review of epidemiology and
clinical risk factors for severe respiratory syncytial virus
(RSV) infection. J Pediatr ;143:S112-7.
21. Willson DF, Landrigan CP, Horn SD, Smout RJ. (2003)
Complications in infants hospitalized for bronchiolitis or
respiratory syncytial virus pneumonia. J Pediatr ;143:142-9.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2016 63
22. Wohl M.E.B. (2006) Bronchiolitis. Kendig's Disorder of the
respiratory tract in children Eighth ed. Philadelphia: Elviser
Inc.:473-85.
23. World Health Organization. Bronchiolitis. Pocket Book of
Hospital Care for Children WHO press; 2005:85-7.
Ngày nhận bài báo: 01/03/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/03/2016
Ngày bài báo được đăng: 15/04/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_chung_thuong_gap_nhat_va_cac_yeu_to_nguy_co_o_tre_nhu_n.pdf