Biến chứng của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da

Tài liệu Biến chứng của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 141 BIẾN CHỨNG CỦA PHẪU THUẬT ĐÓNG LỖ MỞ HỒI TRÀNG RA DA Hứa Thanh Uy*, Nguyễn Trung Tín*, Võ Nguyên Trung TÓM TẮT Đặt vấn đề: Lỗ mở hồi tràng ra da thường được dùng để các bảo vệ miệng nối thấp. Tuy nhiên, vai trò của nó vẫn còn gây tranh cãi bởi tỉ lệ biến chứng và tử vong liên quan đến phẫu thuật đóng hồi tràng. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ biến chứng và các yếu tố dự báo biến chứng sau phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da. Phương pháp: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu từ những bệnh nhân được mở hồi tràng ra da tạm thời và sau đó phẫu thuật đóng lại tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM và Bệnh viện Chợ Rẫy từ 2012 đến 2015. Kết quả: Có 80 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Tuổi và BMI trung bình lần lượt là 59 và 21,5. 15 bệnh nhân được hóa xạ trước mổ và thời gian trung bình đến lúc đóng lại là 55 ngày. Tỉ lệ biến chứng là 20% và không có trường hợp nào cần can th...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 119 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 141 BIẾN CHỨNG CỦA PHẪU THUẬT ĐÓNG LỖ MỞ HỒI TRÀNG RA DA Hứa Thanh Uy*, Nguyễn Trung Tín*, Võ Nguyên Trung TÓM TẮT Đặt vấn đề: Lỗ mở hồi tràng ra da thường được dùng để các bảo vệ miệng nối thấp. Tuy nhiên, vai trò của nó vẫn còn gây tranh cãi bởi tỉ lệ biến chứng và tử vong liên quan đến phẫu thuật đóng hồi tràng. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ biến chứng và các yếu tố dự báo biến chứng sau phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da. Phương pháp: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu từ những bệnh nhân được mở hồi tràng ra da tạm thời và sau đó phẫu thuật đóng lại tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM và Bệnh viện Chợ Rẫy từ 2012 đến 2015. Kết quả: Có 80 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Tuổi và BMI trung bình lần lượt là 59 và 21,5. 15 bệnh nhân được hóa xạ trước mổ và thời gian trung bình đến lúc đóng lại là 55 ngày. Tỉ lệ biến chứng là 20% và không có trường hợp nào cần can thiệp lại. Các biến chứng gồm nhiễm trùng vết mổ (18,8%) và rò tiêu hóa (2,5%). BMI > 25 liên hệ có ý nghĩa với tỉ lệ biến chứng (p = 0,0001). Thời gian đến lúc đóng dưới 5 tuần và dẫn lưu bụng liên hệ có ý nghĩa với biến chứng nhiễm trùng vết mổ (p = 0,03 và 0,02). Rò tiêu hóa thường gặp hơn ở bệnh nhân có thời gian đợi giữa 2 lần mổ trên 16 tuần (p = 0,001). Kết luận: Phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da đi kèm với tỉ lệ biến chứng tương đối cao nhưng không có biến chứng nặng. BMI, thời gian giữa 2 lần mổ dưới 5 tuần hoặc trên 16 tuần và dẫn lưu bụng là yếu tố nguy cơ của biến chứng. Từ khóa: đóng lỗ mở hồi tràng ra da, biến chứng, ung thư đại trực tràng. ABSTRACT MORBIDITY OF LOOP ILEOSTOMY CLOSURE Hua Thanh Uy, Nguyen Trung Tin, Vo Nguyen Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 3 - 2017: 141 - 146 Introduction: Loop ileostomies are often done in order to protect distal anastomoses. However, their role is still controversial because of morbidity and mortality related to closure of ileostomies. We conducted this study to determine the morbidity rates and predictors of complications after closure of ileostomies. Methods: This is a restropective study of patients who underwent temporary loop ileostomy and closure of ileostomies thereafter, in the UMC hospital and Cho Ray Hospital from 2012 to 2015. Results: A total of 80 patients were recruited into the study. Average age and BMI were 59 and 21.5, respectively. 15 patients experienced chemotherapy prior to surgery. The average time of closure was 55 days. The complication rate was 20% and there was no case of reintervention. Complications consisted of wound infection (18.8%) and fistula (2.5%). BMI > 25 was significantly associated with higher complication rate (p= 0.0001). Time of closure < 5 weeks and abdominal drainage were significantly associated with wound infection (p = 0.03 and 0.02, respectively). Fistula was more common in patients who had time of closure > 16 weeks (p = 0.001). Conclusions: Closure of ileostomies was associated with relatively high morbidity rate but there was no major complication. BMI >25, time of closure 16 weeks, and drainage were risk factors of * Bộ môn Ngoại, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Hứa Thanh Uy ĐT: 0906658598. Email: bsuy88ngoaitq@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 142 complications. Keywords: Ileostomy closure, morbidity, colorectal cancer. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư đại trực tràng là loại ung thư thường gặp của ống tiêu hóa. Cho đến hiện nay, phẫu thuật vẫn giữ vai trò chính trong điều trị ung thư đại trực tràng. Nhiều tác giả ủng hộ việc mở hồi tràng ra da nhằm phòng ngừa hoặc làm giảm mức độ nặng của bục miệng nối sau phẫu thuật cắt trước/trước thấp điều trị ung thư trực tràng(10,11). Lỗ mở hồi tràng ra da sẽ được phẫu thuật đóng lại sau khoảng 8 – 12 tuần. Phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng tương đối đơn giản, nhưng nhiều tác giả đã báo cáo tỉ lệ biến chứng tương đối cao liên quan đến phẫu thuật này. Một số yếu tố nguy cơ được ghi nhận như thời gian đóng lỗ mở hồi tràng, phương pháp đóng hồi tràng cũng như ảnh hưởng của hóa xạ trị, dù vậy kết quả các nghiên cứu vẫn chưa thống nhất. Trong nghiên cứu này, chúng tôi muốn làm rõ các tai biến, biến chứng sớm và các yếu tố nguy cơ liên quan đến phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da sau phẫu thuật cắt trước/cắt trước thấp điều trị ung thư đại trực tràng. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Đối tượng nghiên cứu là tất cả BN được mở hồi tràng ra da nhằm bảo vệ miệng nối đại trực tràng trong phẫu thuật cắt trước/cắt trước thấp điều trị ung thư đại trực tràng và được phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng tại khoa Ngoại Tiêu Hóa- Gan Mật, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh hoặc khoa Ngoại tiêu hóa Bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/2012 - 01/2015. Tiêu chuẩn loại trừ là những bệnh nhân được mở hồi tràng ra da do biến chứng của phẫu thuật cắt trước/cắt trước thấp hoặc do các nguyên nhân khác và những bệnh nhân không thể liên lạc được qua điện thoại. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang và mô tả, ghi nhận thông tin liên quan đến bệnh nhân và tỉ lệ tai biến biến chứng liên quan đến phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da từ hồ sơ bệnh án, kết hợp với thu thập thông tin qua điện thoại với người bệnh hoặc người thân. Phân tích số liệu Xử lý và phân tích, thống kê số liệu bằng phần mềm Excel và SPSS 22.0. Sử dụng phép kiểm t-test để so sánh giá trị trung bình nếu số liệu tuân theo phân phối bình thường và phép kiểm phi tham số (Mann-Whitney U) nếu số liệu không tuân theo phân phối bình thường. Phép kiểm Chi bình phương dùng kiểm tra mối quan hệ giữa biến phân loại hoặc phép kiểm chính xác Fisher (Fisher’s exact test) khi có > 25% tần số mong đợi trong bảng < 5. Phân tích hồi quy logistic để tìm ra các yếu tố nguy cơ độc lập. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. KẾT QUẢ 80 trường hợp (55 nam – 25 nữ) với tuổi trung bình 59 (từ 27 đến 84 tuổi) thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh gồm 22 trường hợp ở BVCR và 58 trường hợp ở Bệnh viện ĐHYD. Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân Bệnh nhân Nam Nữ 80 55 25 Tuổi trung bình (năm) 59,1 ± 12,9 Bệnh nền ≥ 1 22 BMI (kg/m 2) 21,5 ± 3,1 Albumin (g/dl) 4,3 ± 0,3 Có hóa xạ trước mổ (n) 15 (19%) Thời gian từ lúc mở đến lúc đóng hồi tràng (ngày) 54,8 ± 39 Phương pháp mổ được sử dụng nhiều nhất là cắt đoạn nối tay (88,8%). Các yếu tố khác liên quan đến phẫu thuật được trình bày trong Bảng 2. Biến chứng sớm của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da được ghi nhận trong 16/80 trường hợp (20%) (Bảng 3). Các trường hợp nhiễm trùng vết mổ được cắt chỉ và tiếp tục chăm sóc vết thương tại nhà cho đến khi lành. Cả 2 trường hợp rò tiêu hóa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 143 đều được phát hiện khi bệnh nhân tái khám và được điều trị bảo tồn thành công. Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến phẫu thuật Phương pháp mổ (n) Cắt đoạn nối tay Cắt đoạn nối máy Nối tay không cắt đoạn 71 7 2 Phương pháp dẫn lưu (n) Dẫn lưu bụng Dẫn lưu Penrose vết mổ 4 11 Thời gian có nhu động ruột (ngày) 2,6 ± 0,7 Ngày nằm viện 6,9 ± 2,4 Bảng 3. Các biến chứng liên quan đến lỗ mở hồi tràng ra da Nhiễm trùng vết mổ 15 Rò tiêu hóa 2 Phân tích hồi quy logistics đa biến cho thấy BMI > 25 là yếu tố nguy của biến chứng sớm (p = 0,0001) với OR = 7,1 (CI 95%: 1,4 – 38,8). Khi xét riêng từng biến chứng, nhiễm trùng vết mổ có 2 yếu tố nguy cơ là thời gian đóng lỗ mở hồi tràng dưới 5 tuần (p = 0,03; OR = 4; CI 95%: 0,9 – 22,6) và có dẫn lưu bụng (p = 0,02; OR = 14,8; CI 95%: 1,2 – 3,2 x 1010). Rò tiêu hóa có yêu tố nguy cơ là thời gian đóng lỗ mở hồi tràng > 16 tuần (p= 0,001; OR = 38; CI 95%: 1,6 – 1,26 x 109). Các yếu tố khác như hóa xạ trước mổ, kỹ thuật mổ hay dẫn lưu không ảnh hưởng đến tỉ lệ biến chứng. BÀN LUẬN Chúng tôi ghi nhận có 16/80 (20%) trường hợp gặp biến chứng gồm nhiễm trùng vết mổ (18,8%), rò tiêu hóa (2,5%) và không ghi nhận trường hợp tử vong nào, tương tự kết quả nghiên cứu gần đây nhất của Waterland, Bhamre và El-Hussuna(5,8,31). Tỉ lệ tử vong sau phẫu thuật đóng hồi tràng có sự khác nhau rất lớn giữa các tác giả, dao động từ 0 đến 6,9%(2,9,19,27). Tuy nhiên, với sự phát triển của máy khâu nối ống tiêu hóa cũng như sự tiến bộ trong dinh dưỡng, hồi sức bệnh nhân trước và sau mổ, tỉ lệ tử vong gần đây có xu hướng giảm và ổn định ở mức 0 – 1,5%(1,5,25,31). Nhiễm trùng vết mổ là biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng, làm kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí chăm sóc sau xuất viện và gây lành sẹo xấu(17). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 15/80 trường hợp nhiễm trùng vết mổ được ghi nhận, chiếm 18,8%. Nghiên cứu phân tích gộp của Kaider cho thấy tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ thay đổi từ 0 – 18,3%. Chow phân tích 6107 trường hợp đóng lỗ mở hồi tràng và ghi nhận tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ chỉ 5%(6,14). Sự khác nhau lớn giữa các nghiên cứu trên có thể do khác nhau trong phương pháp khâu da. Gần đây, Li so sánh tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ của tất cả các phương pháp khâu da dựa trên số liệu của 2921 trường hợp và ghi nhận khâu da vòng là giúp làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ tốt nhất (OR = 0,12, KTC 95%: 0,02 – 0,4), tiếp theo sau là khâu da kèm dẫn lưu vết mổ, khâu da thưa, khâu da thì hai, khâu da thì đầu và khâu da thì đầu muộn(15). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 69/80 trường hợp được khâu da thì đầu và 11 trường hợp khâu da thì đầu kết hợp với dẫn lưu penrose vết mổ. Tỉ lệ nhiễm trùng ở nhóm có penrose thấp hơn nhóm không có penrose, lần lượt là 9,1% và 20,3%, tuy nhiên, sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Murtaza báo cáo tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ thấp hơn ở nhóm có dẫn lưu penrose (4,2% và 16,9%), và nguy cơ nhiễm trùng vết mổ ở nhóm không có dẫn lưu penrose gấp 5,8 lần nhóm có dẫn lưu penrose(20). Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngoài các sai lệch do thiết kế nghiên cứu hồi cứu, cách sử dụng kháng sinh dự phòng và thời điểm rút dẫn lưu có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ. Ngoài ra, nhiều trường hợp trong nghiên cứu được khâu da thì đầu nhưng thực chất là khâu da thưa, vốn cũng là 1 yếu tố làm giảm nguy cơ nhiễm trùng vết mổ(15). Sự chồng chéo giữa các phương pháp khâu da trong nghiên cứu khiến cho chúng tôi không thể kết luận được về mối liên hệ giữa dẫn lưu penrose và nhiễm trùng vết mổ. Tỉ lệ BN gặp biến chứng rò tiêu hóa trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với các tác giả khác. Kaidar (2005) ghi nhận tỉ lệ rò tiêu hóa 0-7% và Chow (2009) báo cáo tỉ lệ biến Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 144 chứng này là 1,3% trên 2885 trường hợp(6,14). Mengual hồi cứu 89 trường hợp và Poskus hồi cứu 132 trường hợp cũng cho thấy tỉ lệ rò tiêu hóa tương tự, lần lượt là 4,5% và 0,76%; tất cả đều tự khỏi sau một thời gian điều trị nội khoa(19,24). Cả 2 trường hợp rò tiêu hóa trong nghiên cứu của chúng tôi đều điều trị bảo tồn thành công sau 3 tháng và 8 tháng. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy chỉ có “BMI > 25” là yếu tố nguy cơ xảy ra biến chứng sớm: những BN với BMI > 25 có nguy cơ xảy ra biến chứng sau mổ cao gấp 7,1 lần những BN có BMI < 25. Chúng tôi và nhiều tác giả khác không tìm thấy mối liên hệ giữa nguy cơ xảy ra biến chứng và các yếu tố được mô tả trong y văn như tuổi, giới tính nam, bệnh nội khoa, hóa trị trước mổ, khoảng thời gian giữa 2 lần mổ hay phương pháp mổ(7,8,19,24). Với biến chứng nhiễm trùng vết mổ, yếu tố nguy cơ là “thời gian giữa 2 lần mổ dưới 5 tuần” (p = 0,03) và “dẫn lưu bụng” (p = 0,02). Có thể giải thích yếu tố “thời gian < 5 tuần” làm tăng tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ do trước thời điểm này, BN đang trong quá trình hồi phục, tổng trạng còn kém. Ngoài ra Tappe nhận thấy trước 6 tuần, tỉ lệ biến chứng viêm da xảy ra cao nhất và giảm dần sau đó. Việc khâu vết mổ trên nền 1 vùng da viêm ảnh hưởng đến sự lành vết thương và tăng tỉ lệ nhiễm trùng. Còn những trường hợp đặt dẫn lưu bụng thường là những ca mổ khó, kéo dài, nguy cơ dây nhiễm dịch tiêu hóa vào vết mổ cao. Tuy nhiên có nhiều yếu tố gây nhiễu như sử dụng kháng sinh và phương pháp khâu da do đó chúng tôi không thể kết luận về yếu tố này. Chúng tôi cũng nhận thấy chỉ có “thời gian đóng lỗ mở hồi tràng trên 16 tuần” là yếu tố nguy cơ của rò tiêu hóa (p = 0,001). Chúng tôi cho rằng những trường hợp có thời gian đóng lỗ mở hồi tràng trên 16 tuần thường là những BN có tổng trạng kém, nhiều bệnh nền. Bên cạnh đó những BN này thường được hóa xạ trị hỗ trợ trước khi đóng lỗ mở hồi tràng, đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự lành miệng nối. Phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng bằng máy khâu nối ống tiêu hóa được báo cáo làm giảm tỉ lệ biến chứng như bục miệng nối và tắc ruột sau mổ(2,12,16,23,26). Tuy nhiên, một số tác giả khác lại không tìm thấy sự khác biệt giữa 2 phương pháp này(2,8,30). Jan và El – Hussuna báo cáo đóng lỗ mở hồi tràng không kèm cắt đoạn ruột non có tỉ lệ biến chứng thấp hơn so với cắt đoạn 2 đầu rồi nối tận tận(8,12). Trong nghiên cứu của chúng tôi, so sánh giữa 3 phương pháp đóng hồi tràng với từng loại biến chứng và biến chứng chung không cho thấy có sự khác biệt. Tuy nhiên số lượng bệnh nhân được khâu nối máy và nối không cắt đoạn quá ít so với nối tay nên không thể đưa ra kết luận chính xác. Một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi là hóa xạ trị trước khi phẫu thuật phục hồi đóng lỗ mở hồi tràng có ảnh hưởng tỉ lệ biến chứng. Thalheimer hồi cứu 120 BN có lỗ mở hồi tràng ra da sau phẫu thuật cắt đại trực tràng do ung thư và ghi nhận nguy cơ xảy ra biến chứng nhỏ (nhiễm trùng vết mổ, tiêu chảy, liệt ruột kéo dài) ở nhóm có hóa xạ trước khi đóng hồi tràng cao gấp 2 lần nhóm không có hóa xạ(28). Akiyoshi nghiên cứu tiến cứu 125 bệnh nhân và cho thấy hóa xạ trước mổ làm tăng tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng(2). Ngoài khả năng hóa xạ ảnh hưởng xấu lên sự lành vết thương và tổng trạng của bệnh nhân, thời gian đóng lỗ mở hồi tràng kéo dài có thể làm tăng biến chứng của phẫu thuật đóng hồi tràng. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy nhóm có hóa xạ có thời gian đóng lỗ mở hồi tràng dài hơn nhóm không có hóa xạ, lần lượt là 15 và 6,2 tuần (p = 0,001). Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy mối liên hệ giữa yếu tố hóa xạ với tỉ lệ 2 biến chứng được ghi nhận và tỉ lệ biến chứng chung. Kết quả của chúng tôi được ủng hộ bởi nhiều tác giả khác cho thấy hóa xạ có ảnh hưởng đến thời gian đóng lỗ mở hồi tràng nhưng không ảnh hưởng tỉ lệ biến chứng của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng(21,25,29,31). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học 145 Khoảng thời gian tối ưu để tiến hành phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng là vấn đề được quan tâm nhiều hiện nay, tuy nhiên kết quả vẫn còn khác nhau giữa các tác giả. Một số tác giả khuyến cáo nên đóng lỗ mở hồi tràng càng sớm càng tốt trước khi bắt đầu chu trình hóa xạ. Quan điểm này được ủng hộ bởi các báo cáo của Bakx, Alves, Jordi – Galais và Menegaux cho thấy tiến hành đóng lỗ mở hồi tràng sớm trong vòng 2 tuần sau lần mổ đầu tiên không làm tăng tỉ lệ tử vong và biến chứng(3,4,13,18). Tuy nhiên, các tác giả này khuyến cáo giới hạn áp dụng ở nhóm bệnh nhân có thể trạng tốt, không có bệnh nội khoa, không sử dụng corticosteroid kéo dài, không xảy ra biến chứng của cuộc mổ đầu và không có dấu hiệu bục miệng nối(3,4,13,18). Ngược lại, các nghiên cứu gần đây cảnh báo cần thận trọng khi xác định mốc thời gian phẫu thuật. Perez hồi cứu 93 bệnh án và nhận thấy tỉ lệ biến chứng tăng lên khi thời gian đóng lỗ mở hồi tràng dưới 8,5 tuần(22); trong khi đó Rubio-Perez hồi cứu 93 trường hợp và cho thấy thời gian đóng lỗ mở hồi tràng trên 6 tháng là yếu tố nguy cơ tăng biến chứng sau mổ đóng hồi tràng, và khuyến cáo khoảng thời gian an toàn là từ 3-6 tháng(25). Tuy nhiên, Poskus không tìm ra sự khác biệt về tỉ lệ biến chứng giữa các mốc thời gian < 3 tháng, 3-6 tháng và trên 6 tháng. Nhiều báo cáo từ 2009 đến nay cũng cho kết quả không tìm thấy mối liên hệ giữa thời gian đóng lỗ mở hồi tràng và nguy cơ biến chứng(7,21,26). Trong nghiên cứu của chúng tôi, “thời gian giữa 2 lần mổ dưới 5 tuần” là yếu tố nguy cơ của nhiễm trùng vết mổ (p = 0,03) và “thời gian giữa 2 lần mổ trên 16 tuần” là yếu tố nguy cơ của rò tiêu hóa (p= 0,001). Tuy nhiên khi đưa vào mô hình hồi quy đa biến để xét ảnh hưởng đến tỉ lệ biến chứng chung thì 2 yếu tố này bị loại bỏ. Do đó, cần có thêm nhiều nghiên cứu tiến cứu đánh giá kết quả của phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng sớm ở cả nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao và thấp để xác định mốc thời gian đóng lỗ mở hồi tràng tối ưu nhất. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 80 trường hợp phẫu thuật đóng lỗ mở hồi tràng ra da sau phẫu thuật cắt trước/cắt trước thấp, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật này là 20% tuy nhiên chủ yếu là biến chứng nhỏ nhỏ có thể điều trị bảo tồn bao gồm nhiễm trùng vết mổ và rò tiêu hóa. BMI > 25 là yếu tố nguy cơ của biến chứng sớm; nhiễm trùng vết mổ có 2 yếu tố nguy cơ là thời gian đóng lỗ mở hồi tràng < 5 tuần và dẫn lưu bụng. Thời gian đóng lỗ mở hồi tràng > 16 tuần là yếu tố nguy cơ duy nhất của rò tiêu hóa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abegg RM., Brokelman W., van Bebber IP., Bosscha K., Prins HA., et al. (2014), "Results of construction of protective loop ileostomies and reversal surgery for colorectal surgery". Eur Surg Res, 52(1-2), pp. 63-72. 2. Akiyoshi T., Fujimoto Y., Konishi T., Kuroyanagi H., Ueno M., et al. (2010), "Complications of loop ileostomy closure in patients with rectal tumor". World J Surg, 34(8), pp. 1937-42. 3. Alves A., Panis Y., Lelong B., Dousset B., Benoist S., et al. (2008), "Randomized clinical trial of early versus delayed temporary stoma closure after proctectomy". Br J Surg, 95(6), pp. 693-8. 4. Bakx R., Busch OR., van Geldere D., Bemelman WA., Slors JF., et al. (2003), "Feasibility of early closure of loop ileostomies: a pilot study". Dis Colon Rectum, 46(12), pp. 1680-4. 5. Bhamre Rahul, Pai Vishwas D, Saklani Avanish P (2015), "Defunctioning Stoma Reversal-does the Approach to Primary Surgery Influence the Post Operative Outcomes?". Colorectal Cancer: Open Access. 6. Chow A., Tilney HS., Paraskeva P., Jeyarajah S., Zacharakis E., et al. (2009), "The morbidity surrounding reversal of defunctioning ileostomies: a systematic review of 48 studies including 6,107 cases". Int J Colorectal Dis, 24(6), pp. 711-23. 7. Cipe G., Erkek B., Kuzu A., Gecim E. (2012), "Morbidity and mortality after the closure of a protective loop ileostomy: analysis of possible predictors". Hepatogastroenterology, 59 (119), pp. 2168-72. 8. El-Hussuna A., Lauritsen M., Bulow S. (2012), "Relatively high incidence of complications after loop ileostomy reversal". Dan Med J, 59(10), pp. A4517. 9. Fauno L., Rasmussen C., Sloth KK., Sloth AM., Tottrup A. (2012), "Low complication rate after stoma closure. Consultants attended 90% of the operations". Colorectal Dis, 14(8), pp. e499-505. 10. Giannakopoulos GF., Veenhof AA., van der Peet DL., Sietses C., Meijerink WJ., et al. (2009), "Morbidity and complications of protective loop ileostomy". Colorectal Dis, 11(6), pp. 609-12. 11. Gu WL., Wu SW. (2015), "Meta-analysis of defunctioning stoma in low anterior resection with total mesorectal excision for rectal cancer: evidence based on thirteen studies". World J Surg Oncol, 13, pp. 9. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 146 12. Jan Hizbullah, Khan Attaullah, Saeed Tahir, Khan Mah Muneer (2012), "Complications following illeostomy closure: an evaluation of the causal factors". Pak J Surg, 28(3), pp. 177- 181. 13. Jordi-Galais P., Turrin N., Tresallet C., Nguyen-Thanh Q., Chigot J. P., et al. (2003), "Early closure of temporary stoma of the small bowel". Gastroenterol Clin Biol, 27(8-9), pp. 697-9. 14. Kaidar-Person O., Person B., Wexner S. D. (2005), "Complications of construction and closure of temporary loop ileostomy". J Am Coll Surg, 201(5), pp. 759-73. 15. Li LT., Hicks SC., Davila JA., Kao LS., Berger RL., et al. (2014), "Circular closure is associated with the lowest rate of surgical site infection following stoma reversal: a systematic review and multiple treatment meta-analysis". Colorectal Dis, 16(6), pp. 406-16. 16. Loffler T., Rossion I., Goossen K., Saure D., Weitz J., et al. (2015), "Hand suture versus stapler for closure of loop ileostomy--a systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials". Langenbecks Arch Surg, 400(2), pp. 193-205. 17. Mahmoud NN., Turpin RS., Yang G., Saunders WB. (2009), "Impact of surgical site infections on length of stay and costs in selected colorectal procedures". Surg Infect (Larchmt), 10(6), pp. 539-44. 18. Menegaux F., Jordi-Galais P., Turrin N., Chigot JP. (2002), "Closure of small bowel stomas on postoperative day 10". Eur J Surg, 168(12), pp. 713-5. 19. Mengual-Ballester M., Garcia-Marin JA., Pellicer-Franco E., Guillen-Paredes MP., Garcia-Garcia ML., et al. (2012), "Protective ileostomy: complications and mortality associated with its closure". Rev Esp Enferm Dig, 104(7), pp. 350-4. 20. Murtaza G., Nuruddin R., Memon AA., Chawla T., Azam I., et al. (2014), "Does primary closure increase surgical site infection after intestinal stoma reversal? A retrospective cohort study". Surg Infect (Larchmt), 15(1), pp. 58-63. 21. Perez Dominguez L., Garcia Martinez MT., Caceres Alvarado N., Toscano Novella A., Higuero Grosso AP., et al. (2014), "Morbidity and mortality of temporary diverting ileostomies in rectal cancer surgery". Cir Esp, 92(9), pp. 604-8. 22. Perez R. O., Habr-Gama A., Seid V. E., Proscurshim I., Sousa A. H., Jr., et al. (2006), "Loop ileostomy morbidity: timing of closure matters". Dis Colon Rectum, 49 (10), pp. 1539-45. 23. Pokorny H., Herkner H., Jakesz R., Herbst F. (2005), "MOrtality and complications after stoma closure". Archives of Surgery, 140 (10), pp. 956-960. 24. Poskus Eligijus, Kildusis Edvinas, Smolskas Edgaras, Ambrazevicius Marijus, Strupas Kestutis (2014), "Complications after Loop Ileostomy Closure: A Retrospective Analysis of 132 Patients". Viszeralmedizin, 30(4), pp. 276-280. 25. Rubio-Perez I., Leon M., Pastor D., Diaz Dominguez J., Cantero R. (2014), "Increased postoperative complications after protective ileostomy closure delay: An institutional study". World J Gastrointest Surg, 6(9), pp. 169-74. 26. Saha AK., Tapping CR., Foley GT., Baker RP., Sagar PM., et al. (2009), "Morbidity and mortality after closure of loop ileostomy". Colorectal Dis, 11 (8), pp. 866-71. 27. Tan WS., Tang CL., Shi L., Eu KW. (2009), "Meta-analysis of defunctioning stomas in low anterior resection for rectal cancer". Br J Surg, 96(5), pp. 462-72. 28. Thalheimer Andreas, Bueter Marco, Kortuem Martin, Thiede Arnulf, Meyer Detlef (2006), "Morbidity of Temporary Loop Ileostomy in Patients With Colorectal Cancer". Diseases of the Colon & Rectum, 49(7), pp. 1011-1017. 29. Tulchinsky H., Shacham-Shmueli E., Klausner JM., Inbar M., Geva R. (2014), "Should a loop ileostomy closure in rectal cancer patients be done during or after adjuvant chemotherapy?". J Surg Oncol, 109(3), pp. 266-9. 30. Vallribera Valls F., Villanueva Figueredo B., Jimenez Gomez LM., Espin Bassany E., Sanchez Martinez JL., et al. (2014), "Ileostomy closure in a colorectal surgery unit. Comparative analysis of different techniques". Cir Esp, 92(3), pp. 182-7. 31. Waterland Peter, Goonetilleke Kolitha, Naumann David N., Sutcliff Mathew, Soliman Faris (2015), "Defunctioning Ileostomy Reversal Rates and Reasons for Delayed Reversal: Does Delay Impact on Complications of Ileostomy Reversal? A Study of 170 Defunctioning Ileostomies". Journal of Clinical Medicine Research, 7(9), pp. 685-689. Ngày nhận bài báo: 29/03/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/03/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/05/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbien_chung_cua_phau_thuat_dong_lo_mo_hoi_trang_ra_da.pdf
Tài liệu liên quan