Tài liệu Biến chứng của lỗ mở hồi tràng ra da tạm thời: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
136
BIẾN CHỨNG CỦA LỖ MỞ HỒI TRÀNG RA DA TẠM THỜI
Hứa Thanh Uy*, Nguyễn Trung Tín*, Võ Nguyên Trung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lỗ mở hồi tràng ra da tạm thời thường được sử dụng để bảo vệ miệng nối thấp trong phẫu
thuật ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, kỹ thuật này cũng kèm theo một số biến chứng. Mục đích của nghiên
cứu này nhằm đánh giá các biến chứng và các yếu tố nguy cơ liên quan đến lỗ mở hồi tràng ra da.
Phương pháp: Từ 2012 đến 2015, chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu từ những bệnh nhân ung thư đại
trực tràng được phẫu thuật cắt trước / cắt trước thấp và mở hồi tràng ra da tại Bệnh viện Đại học Y Dược
TPHCM và Bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2012 đến năm 2015.
Kết quả: Có 80 hồ sơ bệnh án được thu thập. Tuổi và BMI trung bình lần lượt là 59 và 22. Tỉ lệ biến chứng
là 56% bao gồm viêm da, tắc ruột, chảy máu, tụt hồi tràng và bung đường nối da niêm. Tỉ lệ can thiệp lại là 2,5%.
Tuổi trên 50 liên hệ có...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng của lỗ mở hồi tràng ra da tạm thời, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
136
BIẾN CHỨNG CỦA LỖ MỞ HỒI TRÀNG RA DA TẠM THỜI
Hứa Thanh Uy*, Nguyễn Trung Tín*, Võ Nguyên Trung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lỗ mở hồi tràng ra da tạm thời thường được sử dụng để bảo vệ miệng nối thấp trong phẫu
thuật ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, kỹ thuật này cũng kèm theo một số biến chứng. Mục đích của nghiên
cứu này nhằm đánh giá các biến chứng và các yếu tố nguy cơ liên quan đến lỗ mở hồi tràng ra da.
Phương pháp: Từ 2012 đến 2015, chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu từ những bệnh nhân ung thư đại
trực tràng được phẫu thuật cắt trước / cắt trước thấp và mở hồi tràng ra da tại Bệnh viện Đại học Y Dược
TPHCM và Bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2012 đến năm 2015.
Kết quả: Có 80 hồ sơ bệnh án được thu thập. Tuổi và BMI trung bình lần lượt là 59 và 22. Tỉ lệ biến chứng
là 56% bao gồm viêm da, tắc ruột, chảy máu, tụt hồi tràng và bung đường nối da niêm. Tỉ lệ can thiệp lại là 2,5%.
Tuổi trên 50 liên hệ có ý nghĩa với tỉ lệ biến chứng chung (p = 0,04) và biến chứng viêm da nói riêng (p = 0,04).
Kết luận: Lỗ mở hồi tràng ra da tạm thời đi kèm với tỉ lệ biến chứng cao nhưng không có tử vong. Tuổi > 50
là yếu tố nguy cơ của biến chứng.
Từ khóa: Lỗ mở hồi tràng ra da, biến chứng, ung thư đại trực tràng.
ABSTRACT
MORBIDITY OF TEMPORARY LOOP ILEOSTOMY
Hua Thanh Uy, Nguyen Trung Tin, Vo Nguyen Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 3 - 2017: 136 – 140
Introduction: Temporary loop ileostomies are frequently done to protect distal anatomoses in rectal cancer
surgery. This procedure is, however, associated with complications. The aim of this study is to evaluate the
morbidity and risk factors of loop ileostomies.
Methods: From 2012 to 2015, a restropective analysis of rectal cancer patients who underwent anterior or
low anterior resection with temporary loop ileostomy in the UMC hospital and Cho Ray Hospital was done.
Results: A total of 80 patients were recorded. Average age and BMI were 59 and 22, respectively. The rate of
complications was 56%, including dermatitis, obstruction, bleeding, retraction and mucocutaneous detachment.
The rate of reintervention was 2.5%. Age > 50 was significantly associated with the common complication rate (p
= 0.04) and dermatitis (p = 0.04).
Conclusions: Temporary loop ileostomies are associated with high morbidity rate and have no mortality.
Age > 50 was risk factor of complications.
Keywords: Loop ileostomy, morbidity, rectal cancer.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, lỗ mở hồi tràng ra da thường
được chỉ định trong phẫu thuật đại trực tràng
với mục đích bảo vệ miệng nối. Tuy nhiên, vai
trò của lỗ mở hồi tràng ra da để bảo vệ miệng
nối đại trực tràng sau phẫu thuật cắt trước hoặc
cắt trước thấp trong điều trị ung thư đại trực
tràng vẫn còn tranh cãi.
Một số tác giả ủng hộ việc mở hồi tràng ra da
nhằm phòng ngừa hoặc làm giảm mức độ nặng
của bục miệng nối(6,7). Tuy nhiên, nhiều tác giả
* Bộ môn Ngoại, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Hứa Thanh Uy ĐT: 0906658598. Email: bsuy88ngoaitq@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
137
khác cho thấy mở hồi tràng ra da không ảnh
hưởng đến tỉ lệ bục miệng nối cũng như tỉ lệ
phẫu thuật lại, nhưng làm tăng tỉ lệ các biến
chứng liên quan đến lỗ mở hồi tràng ra da.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi muốn làm
rõ các tai biến, biến chứng liên quan đến lỗ mở
hồi tràng ra da trong phẫu thuật cắt trước/cắt
trước thấp điều trị ung thư đại trực tràng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là tất cả BN được mở
hồi tràng ra da nhằm bảo vệ miệng nối đại trực
tràng trong phẫu thuật cắt trước/cắt trước thấp
điều trị ung thư đại trực tràng tại khoa Ngoại
Tiêu hóa- Gan Mật, Bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh hoặc khoa Ngoại tiêu
hóa Bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/2012 - 01/2015. Tiêu
chuẩn loại trừ là những bệnh nhân được mở hồi
tràng ra da do biến chứng của phẫu thuật cắt
trước/cắt trước thấp hoặc do các nguyên nhân
khác và những bệnh nhân không thể liên lạc
được qua điện thoại.
Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu, cắt
ngang và mô tả, ghi nhận thông tin liên quan
đến bệnh nhân và tỉ lệ tai biến biến chứng liên
quan đến lỗ mở hồi tràng ra da từ hồ sơ bệnh án,
kết hợp với thu thập thông tin qua điện thoại với
người bệnh hoặc người thân.
Phân tích số liệu
Xử lý và phân tích, thống kê số liệu bằng
phần mềm Excel và SPSS 22.0. Sử dụng phép
kiểm t-test để so sánh giá trị trung bình nếu số
liệu tuân theo phân phối bình thường và phép
kiểm phi tham số (Mann-Whitney U) nếu số liệu
không tuân theo phân phối bình thường. Phép
kiểm Chi bình phương dùng kiểm tra mối quan
hệ giữa biến phân loại hoặc phép kiểm chính xác
Fisher (Fisher’s exact test) khi có > 25% tần số
mong đợi trong bảng < 5. Phân tích hồi quy
logistic để tìm ra các yếu tố nguy cơ độc lập. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
80 trường hợp (55 nam – 25 nữ) với tuổi
trung bình 59 (từ 27 đến 84 tuổi) thỏa tiêu chuẩn
chọn bệnh gồm 22 trường hợp ở BVCR và 58
trường hợp ở Bệnh viện ĐHYD, tất cả đều được
mổ nội soi cắt trước/ cắt trước thấp điều trị ung
thư đại trực tràng và mở hồi tràng ra da tạm thời
để bảo vệ miệng nối.
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân
Bệnh nhân
Nam
Nữ
80
55
25
Tuổi trung bình (năm) 59,1 ± 12,9
Bệnh nền ≥ 1 22
BMI (kg/m
2)
22,2 ± 3,5
Albumin (g/dl) 4,3 ± 0,3
Lý do mở hồi tràng ra chiếm tỉ lệ cao nhất là
miệng nối dưới 5 cm trong 67/80 trường hợp
(83,8%). Số ngày nằm viện sau phẫu thuật trung
bình là 7,8 ± 3,4 ngày, trong đó thấp nhất là 4
ngày và cao nhất là 26 ngày.
Biến chứng của lỗ mở hồi tràng ra da được
ghi nhận trong 56/80 trường hợp (70%) (Bảng 2).
Bảng 2: Các biến chứng liên quan đến lỗ mở hồi
tràng ra da
Biến chứng Số ca
Viêm da quanh lỗ mở hồi tràng ra da 56
Tắc ruột 5
Bung đường nối da niêm 4
Tụt hồi tràng 3
Chảy máu sau mổ 3
Tất cả 3 trường hợp chảy máu sau mổ đều
cần khâu cầm máu tại chỗ. Có 2/5 trường hợp tắc
ruột cần phải mổ lại, trong đó 1 trường hợp do
cân thành bụng siết quá chặt và 1 trường hợp
quai đến bị gập góc.
Phân tích hồi quy logistics đơn biến cho thấy
tuổi > 50 là yếu tố nguy của biến chứng chung (p
= 0,04) với OR = 3,1 (CI 95%: 1,1 – 9,3). Khi xét
riêng từng biến chứng, tuổi > 50 cũng là yếu tố
nguy của biến chứng viêm da (p = 0,04) với OR =
3,1 (CI 95%: 1,1 – 9,3). Chúng tôi không tìm thấy
yếu tố nguy cơ của các biến chứng còn lại.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
138
BÀN LUẬN
Chúng tôi thống kê có 10 lý do được chỉ định
mở hồi tràng ra da, đa số các trường hợp (83,8%)
do miệng nối thấp cách bờ hậu môn dưới 5cm.
Chude đề nghị mở hồi tràng ra da với miệng nối
cách rìa hậu môn < 6cm và Matthiessen chọn
mốc 7cm(4,11). Tuy nhiên nghiên cứu của Shiomi
đã cho thấy lỗ mở hồi tràng ra da không làm
giảm tỉ lệ bục miệng nối trong trường hợp miệng
nối cách rìa hậu môn <6 cm hoặc 7cm; do đó ông
đề xuất chỉ nên mở hồi tràng ra da khi miệng nối
thấp < 5cm(17). Có thể thấy lý do chủ yếu làm cho
phẫu thuật viên quyết định mở hồi tràng ra da là
“miệng nối thấp”, do đó phải cân nhắc giữa biến
chứng liên quan đến lỗ mở hồi tràng ra da và sai
lệch khi đo khoảng cách miệng nối bằng tay;
đồng thời cần có thêm những nghiên cứu lâm
sàng ngẫu nhiên có đối chứng giúp định nghĩa
chính xác “miệng nối thấp” giúp giảm bớt số
trường hợp được mở hồi tràng ra da không cần
thiết.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 56/80
trường hợp (70%) gặp ít nhất 1 biến chứng. Tỉ lệ
biến chứng chung là 70%, tuy nhiên nếu không
tính biến chứng viêm da thì tỉ lệ biến chứng chỉ
còn 17,6% (14/80). Salvadalena báo cáo 47 trường
hợp với tỉ lệ biến chứng là 63%, và nếu không
tính viêm da thì tỉ lệ biến chứng còn 14%(16).
Formijne theo dõi 100 ca trong vòng 1 năm và
ghi nhận tỉ lệ biến chứng lên đến 82%, trong đó
biến chứng viêm da chiếm đa số 55%(5). Do tiêu
chuẩn chẩn đoán viêm da khác nhau nên tỉ lệ
biến chứng chung có sự khác nhau lớn giữa các
nghiên cứu, dao động từ 3 – 93%(18). Do đó, cần
thiết phải có một nghiên cứu lớn hơn sử dụng
tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại chung cho
biến chứng viêm da như phân loại Clavien-
Dindo.
Viêm da quanh lỗ mở hồi tràng ra da là biến
chứng chiếm tỷ lệ cao nhất (70%), đồng thời
cũng là nguyên nhân gây phiền toái nhất cho
bệnh nhân sau mổ(15). Tuy nhiên, việc phân loại
và đánh giá độ nặng còn rất nhiều khó khăn do
không có 1 hệ thống phân loại chung duy nhất
được chấp nhận rộng rãi. Ngay cả bản thân bệnh
nhân cũng không nhận biết được đang bị viêm
da quanh chỗ mở hồi tràng. Herlufsen nghiên
cứu 202 ca hậu môn tạm / lỗ mở hồi tràng ra da /
mở niệu quản ra da và ghi nhận 57% trong 82
trường hợp mở hồi tràng ra da bị viêm da, tuy
nhiên chỉ 38% bệnh nhân trong số này đồng ý
đang gặp vấn đề viêm da quanh lỗ mở hồi tràng,
và hơn 80% các trường hợp không cần tìm kiếm
sự chăm sóc y tế(9). Năm 2009, Nybaek báo cáo
199 bệnh nhân có lỗ mở thông và ghi nhận có
46/82 (56%) trường hợp lỗ mở hồi tràng ra da
gặp biến chứng viêm da, trong đó chỉ 43% BN
đồng ý đang mắc biến chứng này và chỉ 16% số
BN tìm kiếm sự chăm sóc y tế(12).
Do đây là nghiên cứu hồi cứu dựa trên mô tả
của bệnh nhân là chủ yếu, nên chúng tôi không
thể ghi nhận chính xác từng loại tổn thương da
quanh lỗ mở hồi tràng ra da. Vì vậy đòi hỏi cần
có 1 nghiên cứu tiến cứu có những tiêu chuẩn
chẩn đoán rõ ràng, có sự tham gia của bác sĩ
chuyên khoa da liễu và điều dưỡng chuyên về lỗ
mở hồi tràng ra da nhằm ghi nhận chính xác tỉ lệ
các tổn thương da, từ đó đưa ra khuyến cáo và
phương pháp xử trí thích hợp. Việc làm giảm tỉ
lệ các biến chứng về da cũng góp phần cải thiện
chất lượng cuộc sống cho BN.
Chảy máu sau mổ có thể do cầm máu không
kỹ, do tăng áp tĩnh mạch cửa, tổn thương hồi
tràng trong lúc chăm sóc, sử dụng thuốc kháng
viêm non-steroid hay thuốc chống đông(3).
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 3 trường hợp
chảy máu từ vết mổ (3,8%), trong đó 2 trường
hợp được phát hiện trong thời gian BN còn ở
phòng hậu phẫu và được xử trí khâu cầm máu
tại chỗ. Bệnh nhân thứ 3 bị chảy máu ở ngày thứ
5 và cũng được xử trí khâu cầm máu tại chỗ. Cả
3 trường hợp đều phục hồi tốt, không chảy máu
tái phát và được xuất viện. Những trường hợp
này không có bệnh lý nội khoa khác cũng như
không có rối loạn đông máu, đồng thời chúng tôi
cũng không ghi nhận yếu tố nguy cơ nào của
biến chứng này. Do đó biến chứng này có lẽ chủ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
139
yếu liên quan đến kỹ thuật cầm máu và cách
chăm sóc lỗ mở thông.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 5/80
(6,3%) trường hợp tắc ruột được ghi nhận, tương
tự các tác giả khác(1,8). Một trường hợp tắc quai
đến do cân thành bụng siết quá chặt được mổ lại
vào ngày hậu phẫu thứ 10, và một trường hợp
quai đến bị dính vào thành bụng gây gập góc
được mổ lại vào ngày hậu phẫu 9. Cả 2 trường
hợp trên được làm lại mở hồi tràng ngay tại vị trí
cũ. Hai trường hợp khác xuất hiện triệu chứng
tắc ruột vào ngày hậu phẫu 13 và 14, và được
điều trị nội khoa. Một trường hợp thỉnh thoảng
có dấu hiệu tắc được cơ sở y tế địa phương chẩn
đoán tắc ruột nghi do bã thức ăn và điều trị nội
khoa. Chúng tôi không tìm thấy yếu tố nguy cơ
của biến chứng này dựa theo kết quả của phân
tích hồi quy logistics. Điều đó cho thấy có thể
giảm bớt biến chứng này bằng cách thực hiện
mở hồi tràng ra da đúng kỹ thuật, nhất là trong
nghiên cứu của chúng tôi có 2/5 trường hợp tắc
ruột liên quan đến kỹ thuật.
Chúng tôi ghi nhận có 4/80 trường hợp (5%)
bung đường nối da niêm được ghi nhận, tương
đương với các tác giả khác, dao động từ 3,96% -
25,3%(2,3,10). Chỗ nối da niêm có thể bung một
phần hay toàn bộ, và được xử trí chủ yếu bằng
cách hạn chế dịch phân chảy xuống phần mô
dưới da bị lộ ra, hoặc bằng cách dùng kem thoa
hoặc dán túi hậu môn che phủ kín mô bên
dưới(3,10).
Biến chứng tụt lỗ mở hồi tràng ra da xảy ra
chủ yếu do lỗi kỹ thuật. BN có thể bị tụt đoạn
ruột nằm trên cân thành bụng hoặc tụt vào trong
ổ bụng, thường do đoạn ruột đưa ra ngoài bị
căng, thường gặp trong trường hợp thành bụng
BN quá dầy mỡ hoặc mạc treo ruột quá ngắn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 3 trường hợp
(3,8%) tụt lỗ mở hồi tràng ra da được ghi nhận,
tương tự với các tác giả khác từ 1.6 – 4,5%(6,8).
Trong các báo cáo gần đây, một số tác giả khác
ghi nhận tỉ lệ biến chứng này rất thấp hoặc
không xảy ra(1,13).
Tuổi > 50 là yếu tố nguy của biến chứng
chung. Theo y văn, các yếu tố như tuổi, BMI,
bệnh nội khoa được báo cáo là yếu tố nguy cơ
cho các biến chứng liên quan đến lỗ mở hồi
tràng ra da(2,14). Tuy nhiên, chúng tôi không tìm
thấy sự liên hệ giữa nguy cơ xảy ra biến chứng
với các yếu tố còn lại, tương tự như các nghiên
cứu gần đây của Salvadalena và Formijne. Một
số yếu tố như chiều cao của quai hồi tràng so với
da, thời gian mang túi hậu môn, tiền căn sử
dụng corticoid kéo dài chỉ có ảnh hưởng đến tỉ lệ
biến chứng viêm da mà chưa được chứng minh
có mối liên hệ với tỉ lệ biến chứng chung(5,16). Khi
xét riêng từng biến chứng, tuổi > 50 cũng là yếu
tố nguy của biến chứng viêm da. Tụt lỗ mở hồi
tràng ra da được xem là yếu tố nguy cơ của biến
chứng viêm da, do dịch ruột chảy tràn ra da; tuy
nhiên, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan
có ý nghĩa thống kê giữa 2 yếu tố này (p =0,3),
tương tự với kết luận của các tác giả khác(12,16).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 80 trường hợp mở hồi tràng
ra da với mục đích bảo vệ miệng nối trong phẫu
thuật cắt trước/cắt trước thấp, chúng tôi nhận
thấy tỉ lệ BC chung của lỗ mở hồi tràng ra da khá
cao lên đến 70%, đa số là biến chứng nhỏ có thể
điều trị bảo tồn nhưng ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân. Tuổi trên 50 là
yếu tố nguy cơ xảy ra BC chung, và cũng là yếu
tố nguy cơ của biến chứng viêm da.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abegg RM., Brokelman W., van Bebber IP., Bosscha K., Prins
HA., et al. (2014), "Results of construction of protective loop
ileostomies and reversal surgery for colorectal surgery". Eur
Surg Res, 52 (1-2), pp. 63-72.
2. Arumugam PJ., Bevan L., Macdonald L., Watkins AJ., Morgan
AR., et al. (2003), "A prospective audit of stomas--analysis of
risk factors and complications and their management".
Colorectal Dis, 5(1), pp. 49-52.
3. Barr JE. (2004), "Assessment and management of stomal
complications: a framework for clinical decision making".
Ostomy Wound Manage, 50(9), pp. 50-2.
4. Chude GG., Rayate NV., Patris V., Koshariya M., Jagad R., et
al. (2008), "Defunctioning loop ileostomy with low anterior
resection for distal rectal cancer: should we make an ileostomy
as a routine procedure? A prospective randomized study".
Hepatogastroenterology, 55(86-87), pp. 1562-7.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
140
5. Formijne Jonkers HA., Draaisma WA., Roskott AM., van
Overbeeke AJ., Broeders IA., et al. (2012), "Early complications
after stoma formation: a prospective cohort study in 100
patients with 1-year follow-up". Int J Colorectal Dis, 27(8), pp.
1095-9.
6. Giannakopoulos GF., Veenhof AA., van der Peet DL., Sietses
C., Meijerink WJ., et al. (2009), "Morbidity and complications
of protective loop ileostomy". Colorectal Dis, 11(6), pp. 609-12.
7. Gu WL., Wu SW. (2015), "Meta-analysis of defunctioning
stoma in low anterior resection with total mesorectal excision
for rectal cancer: evidence based on thirteen studies". World J
Surg Oncol, 13, pp. 9.
8. Harris DA., Egbeare D., Jones S., Benjamin H., Woodward A.,
et al. (2005), "Complications and mortality following stoma
formation". Ann R Coll Surg Engl, 87(6), pp. 427-31.
9. Herlufsen P., Olsen AG., Carlsen B., Nybaek H., Karlsmark T.,
et al. (2006), "Study of peristomal skin disorders in patients
with permanent stomas". Br J Nurs, 15(16), pp. 854-62.
10. Kwiatt Michael, Kawata Michitaka (2013), "Avoidance and
Management of Stomal Complications". Clinics in Colon and
Rectal Surgery, 26(2), pp. 112-121.
11. Matthiessen Peter, Hallböök Olof, Rutegård Jörgen, Simert
Göran, Sjödahl Rune (2007), "Defunctioning Stoma Reduces
Symptomatic Anastomotic Leakage After Low Anterior
Resection of the Rectum for Cancer: A Randomized
Multicenter Trial". Annals of Surgery, 246(2), pp. 207-214.
12. Nybaek H., Bang Knudsen D., Norgaard Laursen T.,
Karlsmark T., Jemec G. B. (2009), "Skin problems in ostomy
patients: a case-control study of risk factors". Acta Derm
Venereol, 89(1), pp. 64-7.
13. Perez Dominguez L., Garcia Martinez MT., Caceres Alvarado
N., Toscano Novella A., Higuero Grosso AP., et al. (2014),
"Morbidity and mortality of temporary diverting ileostomies
in rectal cancer surgery". Cir Esp, 92(9), pp. 604-8.
14. Puccio F., Solazzom M., Pandolfo G., Marcianò P. (2008),
"Complications of laparoscopic protective loop ileostomy in
patients with colorectal cancer". The Internet Journal of
Surgery, 19(2).
15. Rolstad BS., Erwin-Toth PL. (2004), "Peristomal skin
complications: prevention and management". Ostomy Wound
Manage, 50(9), pp. 68-77.
16. Salvadalena GD. (2013), "The incidence of stoma and
peristomal complications during the first 3 months after
ostomy creation". J Wound Ostomy Continence Nurs, 40(4),
pp. 400-6.
17. Shiomi A., Ito M., Saito N., Hirai T., Ohue M., et al. (2011),
"The indications for a diverting stoma in low anterior resection
for rectal cancer: a prospective multicentre study of 222
patients from Japanese cancer centers". Colorectal Dis, 13(12),
pp. 1384-9.
18. Thoker M., Wani I., Parray FQ., Khan N., Mir SA., et al. (2014),
"Role of diversion ileostomy in low rectal cancer: a
randomized controlled trial". Int J Surg, 12(9), pp. 945-51
Ngày nhận bài báo: 29/03/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/03/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/05/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_chung_cua_lo_mo_hoi_trang_ra_da_tam_thoi.pdf