Tài liệu Bị bắt nạt trực tuyến và các yếu tố liên quan ở học sinh trường Trung học Phổ thông Đức Huệ, tỉnh Long An năm 2017: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
62 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
BỊ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN
NĂM 2017
Nguyễn Thanh Thoảng*, Mai Thị Thanh Thúy*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bài viết đề cập đến bị bắt nạt trực tuyến và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT
Đức Huệ, tỉnh Long An năm 2017.
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp những con số cụ thể về tình trạng bắt nạt trực
tuyến cho nhà trường, gia đình, cũng như địa phương. Từ đó đưa ra các giải pháp ngăn chặn kịp thời và
hiệu quả.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn
trên đối tượng gồm 327 học sinh trường THPT Đức Huệ của 3 khối 10,11,12 ( gồm 204 học sinh nữ, 123
học sinh nam).
Kết quả: Số học sinh bị bắt nạt trực tuyến là 133 học sinh (chiếm 40,7%), trong đó thỉnh thoảng bị bắt
nạt bởi ít nhất 1 hành vi là 34,9...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bị bắt nạt trực tuyến và các yếu tố liên quan ở học sinh trường Trung học Phổ thông Đức Huệ, tỉnh Long An năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
62 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
BỊ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN
NĂM 2017
Nguyễn Thanh Thoảng*, Mai Thị Thanh Thúy*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bài viết đề cập đến bị bắt nạt trực tuyến và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT
Đức Huệ, tỉnh Long An năm 2017.
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp những con số cụ thể về tình trạng bắt nạt trực
tuyến cho nhà trường, gia đình, cũng như địa phương. Từ đó đưa ra các giải pháp ngăn chặn kịp thời và
hiệu quả.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn
trên đối tượng gồm 327 học sinh trường THPT Đức Huệ của 3 khối 10,11,12 ( gồm 204 học sinh nữ, 123
học sinh nam).
Kết quả: Số học sinh bị bắt nạt trực tuyến là 133 học sinh (chiếm 40,7%), trong đó thỉnh thoảng bị bắt
nạt bởi ít nhất 1 hành vi là 34,9%, thường xuyên bị bắt nạt bởi ít nhất 1 hành vi là 5,8% và có 57,1 % học
sinh bị bắt nạt trực tuyến có ảnh hưởng đến tâm lý. Hầu hết học sinh cho rằng những người có hành vi bắt
nạt trực tuyến mình là những người lạ (chiếm 42,9%).
Kết luận: Có 40,7% học sinh bị bắt nạt trực tuyến trên tổng số học sinh tham gia nghiên cứu. Trong
đó tỷ lệ đoán thủ phạm gây ra là người lạ chiếm tỷ lệ cao nhất. Hậu quả từ bắt nạt trực tuyến rất nhiều,
nhưng trong nghiên cứu này ảnh hưởng đến tâm lý của nạn nhân được tìm thấy có ý nghĩa thống kê. Đặc
biệt những học sinh thường xuyên bị người thân trong gia đình la mắng đánh đập sẽ bị bắt nạt trực tuyến
nhiều hơn các nhóm học sinh còn lại.
Từ khóa: bắt nạt trực tuyến, bắt nạt online, bắt nạt trường học.
ABSTRACT
CYBERBULLYING AND RELATED FACTORS IN STUDENTS OF DUC HUE SECONDARY SCHOOL,
LONG AN PROVINCE 2017
Nguyen Thanh Thoang, Mai Thi Thanh Thuy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 62 - 67
Background: This article mentions with online bullying and related factors of students in Duc Hue
high school, Long An province in 2017.
Objective: The study was conducted to provide specific numbers of bullying online for schools,
families, and local residents. From that point forward the timely and effective solution.
Participants:Cross-sectional descriptive study used a self-administered questionaire in 327 students of
Duc Hue High School in 3 classes 10,11,12 (including 204 girls and 123 boys).
Research methodology: Cross-sectional descriptive research.
Result: The number of students bullied online was 133 students (40.7%), which was occasionally
* Khoa YTCC, ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS.Nguyễn Thanh Thoảng ĐT: 01677757738 Email: thanhthoangyds0205@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 63
bullied by at least one behavior was 34.9%, often bullied by at least one behavior was 5.8% and 57.1% of
students were subjected to online bullying psychologically. Most of the students thought that people with
bullying online were strangers (42.9%).
Conclusion: 40.7% of students were bullied online by the total number of students enrolled in the
study. In this case, the ratio of the suspects to the strikers is the highest. Consequences from online bullying
are numerous, but in this study the psychological effects of the victim were found to be statistically
significant. In particular, students who are frequently beaten by their family members will be bullied more
online than the rest of the group.
Keywords: cyberbullying, bullying online, bullying school.
MỞ ĐẦU
Công nghệ trực tuyến đã mở rộng theo cấp
số nhân trên toàn cầu thay đổi cách mọi người
liên lạc với nhau, tìm thông tin mới và sử
dụng nó như một hình thức giải trí(1). Các
nghiên cứu quan trọng đã chỉ ra rằng việc giới
thiệu các phương tiện truyền thông điện tử
vào lớp học có những tác động tích cực đối với
việc học của tất cả các đối tượng(4). Mặc dù có
nhiều lợi ích khi việc truy cập được cung cấp
bởi trang web thế giới thông qua việc sử dụng
máy tính và điện thoại di động nhưng nó cũng
làm cho mọi người bị xâm nhập điện tử(6). Xâm
nhập điện tử hay bắt nạt trực tuyến, bắt nạt
qua mạng là hình thức bắt nạt xảy ra qua e-
mail, phòng chat, trang web, tin nhắn văn bản,
video, hình ảnh được đăng trên các trang web
hoặc được gửi qua điện thoại di động(2). Tại
Hoa Kì theo thống kê toàn quốc năm 2014, có
16% học sinh trung học được báo cáo là bị bắt
nạt trực tuyến, trong khi bắt nạt tại trường là
20%(10). Tại Canada việc bắt nạt trực tuyến xảy
ra nhiều hơn với tỷ lệ 25%, và khoảng 33% ở
Trung Quốc, một con số cho thấy tình trạng
ngày càng trở nên nghiêm trọng(7). Bắt nạt trực
tuyến là một hình thức gián tiếp, nếu như bắt
nạt tại trường được chứng kiến bởi bạn bè, thì
những tin nhắn quấy rối trên mạng được đăng
ở chế độ công khai: người quen và người lạ
đều xem được. Có thể thấy đây là hình thức
bắt nạt vô cùng nguy hiểm bởi hậu quả nó để
lại không chỉ là những vết thương trên thân
thể như bắt nạt thông thường(5) mà nạn nhân
còn có nguy cơ bị trầm cảm, lo lắng, khó ngủ,
kém tập trung học hành(3). Ở nhiều nước trên
thế giới và tại Việt Nam trong thời gian gần
đây có rất nhiều bài báo đăng tải trên các
phương tiện thông tin đã đề cập đến bắt nạt
trực tuyến gây ra nhiều hậu quả đau lòng.
Nhưng tính đến thời điểm này, tại Việt Nam
nghiên cứu về bắt nạt trực tuyến còn rất hạn
chế và chưa được thực hiện ở tỉnh Long An.
Tỉnh Long An nơi có vị trí địa lý khá đặc biệt,
tuy nằm ở vùng ĐBSCL song lại thuộc vùng
phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam,với
hai cửa khẩu giáp Campuchia là Bình Hiệp
(Mộc Hóa) và Tho Mo (Đức Huệ). Trường
THPT Đức Huệ nằm ở trung tâm huyện là nơi
dân cư tập trung đông đúc, gần chợ và các xí
nghiệp giày, gạch Trường còn là nơi học
sinh của các xã tập trung về học- một nơi ở
mới- một môi trường với nhiều lạ lẫm khi phải
xa gia đình lên ở trọ. Môi trường sống xung
quanh phức tạp, dễ ảnh hưởng đến tâm lý
cũng như hành vi của học sinh đang theo học
tại đây. Từ những lý do trên, tôi tiến hành
thực hiện nghiên cứu này nhằm cung cấp
những con số cụ thể về tình trạng bắt nạt trực
tuyến cho nhà trường, gia đình, cũng như địa
phương. Từ đó có thể đưa ra các giải pháp
ngăn chặn kịp thời và hiệu quả.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện vào
tháng 5/2017 đến tháng 7/2017 tại trường
THPT Đức Huệ, tỉnh Long An
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
64 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
Đối tượng nghiên cứu
Ba trăm hai mươi bảy học sinh được chọn
theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng và
ngẫu nhiên đơn tại trường THPT Đức Huệ,
tỉnh Long An niên khóa 2017 – 2018 tại thời
điểm nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng
một tỉ lệ theo một nghiên cứu của Nguyễn
Phương Hồng Ngọc và cộng sự ở 493 học sinh
tại 3 trường THPT trên địa bàn TP. Hà Nội, Hà
Nam, Hải Dương năm 2016 (p = 0,357)(10). Cỡ
mẫu tính được là 327 học sinh.
Phương pháp xử lý số liệu
Dữ liệu được nhập bằng phần mềm
EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata
IC 13.
Tần suất, tỉ lệ (%) được sử dụng để thống
kê mô tả cho các biến số nền, tỷ lệ học sinh bị
bắt nạt trực tuyến, tỷ lệ các hành vi bị bắt nạt
trực tuyến.
Tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR với KTC 95% được
dùng để tính toán độ lớn các mối liên quan.
Tiêu chí sử dụng để báo cáo mối liên quan là
p<0,05 và khoảng tin cậy 95% không chứa giá
trị 1. Mô hình hồi qui đa biến được áp dụng để
đánh giá mối liên quan giữa bắt nạt trực tuyến
với các đặc điểm cá nhân, gia đình, nhà trường
và xã hội.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Tỷ lệ học sinh bị bắt nạt trực tuyến
(n=327)
Tần số Tỷ lệ (%)
Các hành vi bị bắt nạt trực tuyến
Có 133 40,7
Không 194 59,3
Đoán người có khả năng bắt nạt
trực tuyến bạn
Người lạ 57 3,7
Bạn bè 52 42,9
Khác 22 39,1
Người thân 2 16,5
Ảnh hưởng đến tâm lý (có) 76 57,1
Ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất
(có) 65 48,9
Tỷ lệ học sinh bị bắt nạt trực tuyến khá cao
chiếm 40,7%. Hầu hết học sinh cho rằng
những người có hành vi bắt nạt trực tuyến
mình là người lạ chiếm 42,9%. Trong 133 HS
bị bắt nạt trực tuyến có 57,1 % học sinh bị ảnh
hưởng tâm lý và 48,9 % HS bị ảnh hưởng đến
sức khỏe thể chất.
Bảng 2. Tỷ lệ các hành vi bị bắt nạt trực tuyến (n=327)
Các hành vi bị bắt nạt trực tuyến
Tần
số
Tỷ
lệ
Lập trang/ nhóm trên mạng xã hội bôi xấu em
công khai (trang anti,) 7 2,1
Ghép/ chế ảnh của em và đưa lên trang mạng
với mục đích xấu 12 3,7
Gửi thư điện tử (email) cho mọi người nói
những điều không hay về em 12 3,7
Lan truyền những tin đồn về em trên mạng. 12 3,7
Viết truyện đùa ác ý về em trên mạng 15 4,6
Gửi đường link dẫn đến các hình ảnh hoặc
video không hay của em cho người khác xem 17 5,2
Gửi đường link những chuyện xấu, tin đồn vể
em để mọi người đọc 17 5,2
Phát tán (lan truyền) những bí mật của em
trên mạng 18 5,5
Giả danh em gửi email với mục đích gây mâu
thuẫn giữa em với người em quen 19 5,8
Hùa nhau nói đểu, chửi rủa em trên mạng xã
hội 19 5,8
Gửi tin nhắn ác ý để trêu chọc và đe dọa nhau 22 6,7
Viết những bình luận bôi nhọ em trên mạng 25 7,7
Đưa hình ảnh hoặc email không hay lắm của
em lên mạng 26 8,0
Viết nhận xét tiêu cực về em trên mạng 26 8,0
Nhóm bạn trên mạng loại em và không cho
em tham gia vào nhóm đó nữa 27 8,3
Không cho em biết hoặc tham gia vào nhóm
trên mạng (danh sách bạn bè, ) 29 8,9
Tìm cách lấy mật khẩu email, mạng xã hội
của em với mục đích làm cho em mất mặt với
người em quen
30 9,2
Nói xấu em khiến mọi người ghét em, có cái
nhìn không thiện cảm về em trên mạng 38 11,6
Viết điều không đúng sự thật về em trên trang
mạng xã hội 46 14,1
Nhiều bạn chặn tài khoản, hủy kết bạn, lảng
tránh không nói chuyện với em 53 16,2
Chế giễu những điểm xấu trong ảnh mà em
đăng lên 55 16,8
Đặt và gọi em bằng biệt danh xấu trong các
bình luận trên mạng 67 20,5
Trong các hành vi bắt nạt trực tuyến thì
hành vi chặn tài khoản, hủy kết bạn, lảng
tránh không nói chuyện với bạn (16,2%), chế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 65
giễu những điểm xấu trong ảnh mà bạn đăng
lên (16,8%), đặt và gọi bạn bằng biệt danh xấu
trong các bình luận trên mạng (20,5%), và là 3
hành vi được thực hiện nhiều nhất. Theo kết
quả khảo sát, tỷ lệ học sinh thỉnh thoảng bị bắt
nạt bởi ít nhất 1 hành vi chiếm tỷ lệ cao 34,9%,
thường xuyên bị bắt nạt bởi ít nhất 1 hành vi
chỉ chiếm 5,8 %, học sinh không bao giờ bị bắt
nạt trực tuyến là 59%.
Bảng 3. Ảnh hưởng của bắt nạt trực tuyến đến
tâm lý và sức khỏe thể chất của nạn nhân (N=327)
Bị bắt nạt P PR KTC (95%)
Có (%)
Không
(%)
Ảnh hưởng đến tâm lý
Có 76 (57,1) 53(27,3) <0,01 1,33(1,26-1,40)
Không 57 (42,9) 141(72,7)
Ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất
Có 65 (48,9) 50(25,8) <0,01 0,96 (0,91-1,01)
Không 68 (51,1) 144(74,2)
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
bị bắt nạt trực tuyến và những ảnh hưởng đến
tâm lý.Học sinh bị bắt nạt trực tuyến sẽ bị ảnh
hưởng đến tâm lý cao hơn 1,33 lần so với
những học sinh không bị bắt nạt trực tuyến
với p < 0,01 và khoảng tin cậy 95% là 1,26 -
1,40. Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa bị bắt nạt trực tuyến với ảnh
hưởng đến sức khỏe thể chất.
Bảng 4. Mô hình đa biến mối liên quan giữa nạn
nhân của bắt nạt trực tuyến và các yếu tố đặc điểm
cá nhân, gia đình, nhà trường và xã hội (N=327)
Bắt nạt trực tuyến PR
PR KTC
(95%)
P
Mức độ bị người thân trong
gia đình la mắng đánh đập
Không bao giờ 0,04
Hiếm khi 1,23 1,01-1,52
Thỉnh thoảng 1,52 1,01-2,3
Thường xuyên 1,88 1,02-3,49
Sau khi đưa 7 yếu tố liên quan từ đơn biến
(thời gian truy cập internet mỗi ngày, nghề
nghiệp của mẹ, mức độ bị người thân la lắng-
đánh đập, bị bạn bè trong lớp cô lập, hành vi
bắt nạt người khác của bạn thân, hành vi bắt
nạt người khác của bạn trong xóm, kinh tế khu
vực đang sinh sống) vào mô hình đa biến thì
chỉ còn lại yếu tố mức độ bị người thân trong
gia đình la mắng, đánh đập là thật sự có liên
quan đến nhóm HS bị bắt nạt trực tuyến.
BÀN LUẬN
Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ học sinh bị
bắt nạt trực tuyến là 40,7% , kết quả này cao
hơn với nghiên cứu trên đối tượng học sinh
THCS và THPT tại Hà Nội, Hà Nam, Hải
Dương năm 2015 (24%)(8). Cùng sử dụng một
thang đo bắt nạt nhưng kết quả tăng đến gấp
đôi, có thể thấy được sự phát triển chóng mặt
của mạng xã hội và các thiết bị điện tử trong 2
năm trở lại đây. Dạng bắt nạt này gồm các
hành vi như ghép hoặc chế giễu ảnh, viết nhận
xét tiêu cực, giả danh ai đó để phá bạn khác,
hay thậm chí loại bạn mình ghét ra khỏi nhóm
trên mạng. Có thể đối với các em đây là những
hành vi để vui đùa, trêu ghẹo nhau. Các em
chưa ý thức được những hậu quả nghiêm
trọng cuả những hành vi này. Về khả năng
đoán thủ phạm của nạn nhân, nếu như bắt nạt
truyền thống là do những người quen biết
thực tế bên ngoài thực hiện thì bắt nạt trực
tuyến tỷ lệ các em bị bắt nạt bởi những người
lạ mặt chiếm tỷ lệ cao nhất (42,9%), vì đây là
những kẻ giấu mặt, khả năng nhận diện rất
mơ hồ, họ có thể đăng những thông tin không
hay, có hại mà không cần biết các em là ai,
điều này làm cho các nạn nhân phản ứng lại
rất khó khăn(3).
Mặc dù mạng xã hội chỉ là thế giới ảo, tuy
nhiên những gì diễn ra trên đó cũng có thể
ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống thực của
nhiều người. Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh
hưởng về tâm lý của người bị bắt nạt trực
tuyến là 57,1% (p<0,01), trong đó biểu hiện dễ
tức giận chiếm tỷ lệ cao nhất (36,1%), tỷ lệ biểu
hiện này cao hơn so với nghiên cứu về “Hậu
quả bắt nạt trực tuyến” năm 2016 của Trần
Văn Công (33,2%)(9). Có thể thấy rằng những
hậu quả từ kênh trực tuyến rất nguy hiểm vì
không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nhìn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
66 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
thấy và đánh giá được bên ngoài, ở lứa tuổi
đang muốn chứng tỏ sự trưởng thành của
mình đối với cha mẹ, thầy cô thì các em khó có
thể tâm sự hết những việc không hay xảy ra
trong môi trường “ảo” này, dần dần các em sẽ
khó kiểm soát được cảm xúc của mình, tùy
vào lứa tuổi, môi trường sống và học tập thì
học sinh sẽ chịu ảnh hưởng từ những mặt
khác nhau.
Sau khi đưa 7 yếu tố liên quan từ đơn biến
(thời gian truy cập internet mỗi ngày, nghề
nghiệp của mẹ, mức độ bị người thân la lắng-
đánh đập, bị bạn bè trong lớp cô lập, hành vi
bắt nạt người khác của bạn thân, hành vi bắt
nạt người khác của bạn trong xóm, kinh tế khu
vực đang sinh sống) vào mô hình đa biến thì
chỉ còn lại yếu tố mức độ bị người thân trong
gia đình la mắng, đánh đập là thật sự có liên
quan đến nạn nhân của bắt nạt trực tuyến.
Học sinh thường xuyên bị người thân trong
gia đình la mắng đánh đập sẽ bị bắt nạt trực
tuyến nhiều hơn gấp 1,88 lần (p=0,04, KTC
95%: 1,02-3,49) so với nhóm học sinh không
bao giờ bị hay mức độ bị la mắng đánh đập ít
hơn. Thái độ của cha mẹ đối với việc học tập
của con mình là rất quan trọng. Khi cha mẹ
đối xử với con bằng thái độ tiêu cực như giận
dữ, quát mắng, chửi thề, mất tự chủ hoặc áp
dụng phương pháp trừng phạt như đòn roi,
không cho ăn cơm hay doạ cho ra đường để đi
bụi đời đặc biệt là với những HS ngang
bướng là phương pháp hoàn toàn sai lầm.
Bảng 5: Mối liên quan đơn biến
Đặc điểm
Bị bắt nạt
P PR
KTC 95% Có (%)
Không
(%)
Thời gian truy cập internet mỗi ngày
< 2h 43 (33,1) 87 (66,9) 0,02
>= 2h 90 (45,7) 107 (54,3) 1,38 (1,03-1,84)
Nghề nghiệp của mẹ
Công nhân
viên chức 11 (91,7) 1 (8,3)
Nông dân 57 (35,0) 106 (65,0) <0,01 0,38 (0,29-0,5)
Công nhân 27 (38,6) 43 (61,4) <0,01 0,42 (0,30-0,60)
Tự làm chủ 26 (46,4) 30 (53,6) <0,01 0,51 (0,36-0,70)
Khác 12 (46,1) 14 (53,9) 0,03 0,5 (0,32-0,79)
Đặc điểm
Bị bắt nạt
P PR
KTC 95% Có (%)
Không
(%)
Mức độ bị người thân la mắng đánh đập
Không bao
giờ 20 (27,0) 54 (73,0)
Hiếm khi 55 (40,2) 82 (59,9) 0,01** 1,28 (1,10-1,49)
Thỉnh
thoảng 49 (49,0) 51 (51,0) 1,64 (1,21-2,23)
Thường
xuyên 9 (56,3) 7 (43,7) 2,12 (1,34-3,32)
Bị bạn bè trong lớp cô lập
Có 10 (66,7) 5 (33,3) 0,04 1,69 (1,15-2,48)
Không 123 (39,4) 189 (60,6)
Bạn thân có hành vi bắt nạt đối với người khác
Có 104 (45,0) 127 (55,0) 0,01 1,46 (1,07-2,09)
Không 29 (30,2) 67 (69,8)
Bạn trong xóm có hành vi bắt nạt người khác
Có 108 (44,6) 134 (55,6) 0,01 1,5 (1,06-2,17)
Không 25 (29,4) 60 (70,6)
Kinh tế khu vực đang sống
Nghèo 11 (68,7) 5 (31,3) 0,03**
Trung bình -
khá 117 (39,5) 179 (60,5) 0,65 (0,44-0,95)
Giàu 5 (33,3) 10 (66,7) 0,42 (0,20-0,91)
**: pha kiểm định chi bình phương khuynh hướng
KẾT LUẬN
Qua điều tra cắt ngang trên đối tượng học
sinh trường THPT Đức Huệ, huyện Đức Huệ,
tỉnh Long An cho kết quả sau:Tỷ lệ học sinh bị
bắt nạt trực tuyến là 40,7 %. Đoán thủ phạm
gây ra bắt nạt trực tuyến do người lạ là 42,9%.
Ảnh hưởng về tâm lý của người bị bắt nạt trực
tuyến là 57,1%. Mối liên quan theo đa biến:
Học sinh thường xuyên bị người thân trong
gia đình la mắng đánh đập sẽ bị bắt nạt trực
tuyến nhiều hơn nhóm học sinh không bao giờ
bị hay mức độ bị la mắng đánh đập ít hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alan G (2010), Impact of the Internet on Thinking: Is the
Web Changing the Way We Think?,Congressional
Quarterly, 2 (8):7-16.
2. CDC (2016),Understanding Bullying,
https://www.cdc.gov/violenceprevention/pdf/bullying_fac
tsheet.pdf, Access on 12/04/2017.
3. David F, Anna B (2010), "Individual risk factors for school
bullying". Journal of aggression, conflict and peace research, 2
(1):4-16.
4. Lauren M, Katherine TR (2011), "Cyber worlds: New
playgrounds for bullying". Computers in the Schools, 28 (2):
92-116.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 67
5. Qing L (2007), "New bottle but old wine: A research of
cyberbullying in schools". Computers in human behavior, 23
(4): 1777-1791.
6. Tanya B, Qing L (2008), "The relationship between
cyberbullying and school bullying". The Journal of Student
Wellbeing, 1 (2):16-33.
7. Tanya BN, Christina R, David BS, Michael R (2012),
"Evidence for the need to support adolescents dealing
with harassment and cyber-harassment: Prevalence,
progression, and impact". School Psychology International,
33 (5):562-576.
8. Thomas HJ, Sarah F, Adam BM, Grace C, Esther N (2016),
"Assessing the risk factors of cyber and mobile phone
bullying victimization in a nationally representative
sample of Singapore youth". International journal of offender
therapy and comparative criminology, 60 (5): 598-615.
9. Trần Văn Công, Nguyễn Phương Hồng Ngọc, Ngô Thùy
Dương, Nguyễn Thị Thắm (2015), "Chiến lược ứng phó
của học sinh với bắt nạt trực tuyến". VNU Journal of
Science: Education Research, 31 (3): 45-48.
10. Trần Văn Công, Nguyễn Phương Hồng Ngọc (2016), "hậu
quả bắt nạt trực tuyến của học sinh THPT". 51-62. VNU
Journal of Science: Education Research, 31 (3): 51-62.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62_1_4831_2166181.pdf