Bệnh dại trên động vật và phương pháp phòng, chống bệnh dại có hiệu quả ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Tài liệu Bệnh dại trên động vật và phương pháp phòng, chống bệnh dại có hiệu quả ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Ngày nhận bài: 5/10/2016. Ngày duyệt đăng: 10/11/2016 (1)(2) Học viện Dân tộc; e-mail: nguyenhongvi@cema.gov.vn Số 16 - Tháng 12 năm 2016 Bệnh dại là một bệnh lây truyền từ động vật sang động vật và truyền từ động vật sang người, qua vết cắn, cào cấu hoặc do tiếp xúc trực tiếp với nước dãi từ con bệnh. Virus xâm nhập vào cơ thể được nhân lên và hướng tới hệ thần kinh, phá huỷ mô thần kinh, gây nên những kích động điên dại và kết thúc bằng cái chết. Thời gian ủ bệnh thông thường từ 2 tuần đến 6 tháng, trong thời gian này con vật chưa xuất hiện triệu chứng. Thời kỳ lây truyền bệnh dại bắt đầu từ trước thời gian con vật có triệu chứng bệnh dại từ 5 đến 10 ngày (nước bọt của chó mắc bệnh dại đã chứa virus dại) đến khi con vật xuất hiện triệu chứng dại và kéo dài đến khi con vật chết. Con vật bài thải virus qua nước bọt và gây nhiễm cho động vật khác thông qua vết cắn, cào, liếm sau đó động vật mắc dại bị c...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh dại trên động vật và phương pháp phòng, chống bệnh dại có hiệu quả ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Ngày nhận bài: 5/10/2016. Ngày duyệt đăng: 10/11/2016 (1)(2) Học viện Dân tộc; e-mail: nguyenhongvi@cema.gov.vn Số 16 - Tháng 12 năm 2016 Bệnh dại là một bệnh lây truyền từ động vật sang động vật và truyền từ động vật sang người, qua vết cắn, cào cấu hoặc do tiếp xúc trực tiếp với nước dãi từ con bệnh. Virus xâm nhập vào cơ thể được nhân lên và hướng tới hệ thần kinh, phá huỷ mô thần kinh, gây nên những kích động điên dại và kết thúc bằng cái chết. Thời gian ủ bệnh thông thường từ 2 tuần đến 6 tháng, trong thời gian này con vật chưa xuất hiện triệu chứng. Thời kỳ lây truyền bệnh dại bắt đầu từ trước thời gian con vật có triệu chứng bệnh dại từ 5 đến 10 ngày (nước bọt của chó mắc bệnh dại đã chứa virus dại) đến khi con vật xuất hiện triệu chứng dại và kéo dài đến khi con vật chết. Con vật bài thải virus qua nước bọt và gây nhiễm cho động vật khác thông qua vết cắn, cào, liếm sau đó động vật mắc dại bị chết. Thời gian con vật có thể sống tối đa là 10 ngày sau khi xuất hiện triệu chứng của bệnh dại. Thời kỳ lây truyền ở chó nhà thường là 20 ngày kể từ khi virus dại có trong nước bọt của con chó mắc bệnh dại đến khi con vật xuất hiện triệu chứng dại và chết. Nguồn mang mầm bệnh dại chủ yếu là chó (97%), mèo nuôi và động vật hoang dã (3%). Khi động vật mắc bệnh dại cào, cắn, liếm vào người, virus từ nước bọt sẽ lây truyền qua da và niêm mạc bị tổn thương. Sau khi xâm nhập vào cơ thể người qua vết cắn, virus theo dây thần kinh, gây tổn thương thần kinh trung ương. Virus nhân lên trong não, rồi di chuyển theo dây thần kinh đến các cơ quan như tuyến nước bọt, thận, phổi, tim, gan. 1. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh dại Bệnh dại thường được chia làm 2 thể: Thể dại điên cuồng và thể dại câm (bại liệt). Trong thực tế, nhiều con chó mắc bệnh dại có thể biểu hiện cả 2 dạng lâm sàng này một cách xen kẽ nhau, thời gian đầu có biểu hiện điên cuồng, bị kích động rồi sau đó chuyển sang dạng bị ức chế và bại liệt. 1.1. Thể dại điên cuồng Được chia làm 3 thời kỳ: - Thời kỳ tiền lâm sàng: Chó bị dại có dấu hiệu khác thường như trốn vào góc tối, kín đáo, đến gần chủ miễn cưỡng hoặc trái lại, tỏ ra vồn vã thái quá, thỉnh thoảng sủa vu vơ, tru lên từng hồi; hoặc bồn chồn, nhảy lên đớp không khí. - Thời kỳ điên cuồng: Các phản xạ vận động bị kích thích mạnh, cắn sủa người lạ dữ dội, quá vồ vập khi chủ gọi, chỉ cần có tiếng động nhẹ cũng nhảy lên sủa từng hồi dài. Vết thương nơi bị cắn ngứa, chó liếm hoặc tự cắn, cào đến rụng lông, chảy máu. Chó bỏ ăn, nuốt khó, sốt, dãn đồng tử, con vật có biểu hiện khát nước, muốn uống nhưng không nuốt được; chó bắt đầu chảy nước dãi, sùi bọt mép, tỏ vẻ bồn chồn, cảnh giác, sợ sệt, cắn vu vơ, hay giật mình, đi lại không có chủ định, trở nên dữ tợn, điên cuồng (từ 2 đến 3 ngày sau khi phát bệnh). Con vật bỏ nhà ra đi và thường không trở về; trên đường đi, gặp vật gì lạ nó cũng cắn gặm, ăn bừa bãi, tấn công chó khác, kể cả người. - Thời kỳ bại liệt: Chó bị liệt, không nuốt BỆNH DẠI TRÊN ĐỘNG VẬT VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÒNG, CHỐNG BỆNH DẠI CÓ HIỆU QUẢ Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Nguyễn Hồng Vĩ(1) Văn Đăng Kỳ(2) Bệnh dại là một bệnh lây truyền từ động vật sang động vật và truyền từ động vật sang người, qua vết cắn, cào cấu hoặc do tiếp xúc trực tiếp với nước dãi từ con bệnh. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của bệnh dại. Nếu như trong những năm 1990, bệnh dại có xu hướng giảm, thì từ năm 2004 trở lại đây, bệnh dại có xu hướng tăng lên, đặc biệt bệnh dại do bị chó cắn. Việc phòng chống bệnh dại ở động vật truyền sang đóng một vai trò quan trọng trong việc thanh toán bệnh dại ở Việt Nam nói chung và ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi nói riêng. Từ khóa: Bệnh dại, bệnh dại trên động vật, phương pháp phòng chống bệnh dại, phương pháp phòng chống bệnh dại ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 51Số 16 - Tháng 12 năm 2016 được thức ăn, nước uống, liệt hàm dưới và lưỡi nên trễ hàm, thè lưỡi ra ngoài, nước dãi chảy ra, chân sau liệt ngày càng rõ; chó chết trong khoảng từ 3 đến 7 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên, do liệt cơ hô hấp và do kiệt sức vì không ăn uống được. Thể dại điên cuồng chỉ chiếm khoảng 1/4 các trường hợp chó dại, số còn lại là thể dại câm. 1.2. Thể dại câm: Là dạng bệnh không có các biểu hiện lên cơn dại điên cuồng như thường thấy, chó chỉ có biểu hiện buồn rầu. Con vật có thể bị bại ở một phần cơ thể, nửa người hoặc 2 chân sau, nhưng thường là liệt cơ hàm, mồm luôn hé mở, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra; nước dãi chảy lòng thòng, con vật không cắn, sủa được, chỉ gầm gừ trong họng. Quá trình này tiến triển từ 2 đến 3 ngày. Nói chung, thể dại câm tiến triển nhanh hơn thể dại điên cuồng, thông thường chỉ từ 2 đến 3 ngày vì hành tuỷ của con vật bệnh bị virus tác động làm rối loạn hệ tuần hoàn và hô hấp sớm hơn. Mèo ít bị mắc dại hơn chó, chỉ khoảng 2, 3% vì mèo quen ở một mình. Bệnh dại ở mèo cũng tiến triển như ở chó, mèo hay núp mình vào chỗ vắng hoặc hay kêu, bồn chồn như khi động dục, khi người chạm vào thì nó cắn mạnh và hăng, tạo vết thương sâu. Bệnh dại là bệnh không có thuốc điều trị, khi đã lên cơn dại thì vô phương cứu chữa. 2. Thực trạng bệnh dại ở Việt Nam Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh dại xảy ra ở hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hàng năm, có hơn 15 triệu người phải điều trị do bị động vật nghi mắc bệnh dại cắn; 55 đến 70 nghìn người chết vì bệnh dại. Trung bình cứ 10 phút lại có một người tử vong do bị bệnh dại, 95% trong số này là ở khu vực Châu Á và Châu Phi. Khoảng 40% số ca tử vong là ở người dưới 15 tuổi. Gần như 100% các ca mắc bệnh ở người sẽ bị tử vong nếu không được tiêm vắc xin ngay sau bị cắn. Bệnh này gây ra gánh nặng kinh tế và xã hội nghiêm trọng ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của bệnh dại. Nếu như trong những năm 1990, bệnh dại có xu hướng giảm, thì từ năm 2004 trở lại đây, bệnh dại có xu hướng tăng lên, đặc biệt bệnh dại do bị chó cắn. Theo báo cáo của Ban phòng chống dại Bộ Y tế, hàng năm có gần 400.000 người bị chó cắn phải đi tiêm dự phòng, số người bị nhiễm virus dại do bị chó cắn và bị chết ngày một tăng (trung bình mỗi năm khoảng 90 người chết vì bệnh dại). Nguyên nhân của tình hình trên là do là người dân chưa thấy được tính chất nguy hiểm của bệnh dại, tầm quan trọng của công tác tiêm phòng. Chó nuôi chủ yếu là thả rông nên tỷ lệ tiêm phòng cho đàn chó ở các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa của các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên chưa đạt yêu cầu, tỷ lệ tiêm phòng chỉ đạt được 42,9% so với tổng đàn (năm 2015); công tác tuyên truyền, giáo dục người dân hiểu biết về tác hại của bệnh dại còn chưa đủ mạnh; chính quyền địa phương ở các cấp, chỉ đạo công tác phòng, chống bệnh dại chưa quyết liệt, chưa có các biện pháp tích cực, mạnh mẽ; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành với các địa phương. Do tập quán chăn nuôi chó, mèo ở nước ta thường được nuôi thả rông nên tình trạng chó cắn người khá phổ biến, gây nỗi lo sợ cho nhân dân và tổn phí cho việc tiêm dự phòng vắc xin dại. Đàn chó nuôi ở nước ta có số lượng rất lớn (khoảng 9,5 triệu con1). Những năm qua, việc tiêm phòng vắc xin cho đàn chó đã hạn chế được phần nào các ổ dịch dại. Nhưng hiện nay, do nhiều địa phương không quan tâm đến công tác quản lý, tiêm phòng cho đàn chó nên bệnh dại tồn tại và có chiều hướng gia tăng. Thêm vào đó, việc thiếu kiến thức phòng, chống bệnh của cộng đồng đối với bệnh dại là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều trường hợp tử vong ở người. Ở nước ta, ổ dịch dại chính là ở chó và chúng là nguồn phát tán vi rút bệnh dại trong số hơn 95% các ca bệnh dại gây tử vong ở người. Bệnh dại đã trở thành một vấn đề cấp bách hiện nay chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và một đặc điểm khác biệt của bệnh này liên quan đến thói quen ăn thịt chó, khiến bệnh dịch này trở thành mối nguy cơ đối với sức khỏe con người, đặc biệt là người dân tộc thiểu số vốn chủ yếu nuôi chó để ăn thịt. Giữa các năm 2007-2010, mỗi năm có khoảng 94 người chết vì bệnh dại ở 30 tỉnh (trên 63 tỉnh, thành phố), trong số đó 05 tỉnh có số người tử vong cao nhất là Phú Thọ, Yên Bái, Hà Nội, Tuyên Quang và Gia Lai. Khoảng 400.000 người được 1. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2015. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 52 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 điều trị sau khi bị cắn và vắc xin giúp làm giảm số ca tử vong nhưng gây ảnh hưởng đến năng suất lao động, sức khỏe và trí tuệ. Bệnh dại là một bệnh virus cấp tính và gần như luôn gây tử vong ở động vật nuôi, động vật hoang và ở người. Bệnh này hiện vẫn tiếp tục là một mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và đời sống của người dân thuộc nhiều nơi ở châu Á, trong đó có Việt Nam và nếu thực hiện những bước đi đúng đắn, có thể kiểm soát hoàn toàn bệnh dại, và xóa hẳn các ca nhiễm bệnh ở người. Bệnh dại cũng là một bệnh không được quan tâm ở các cộng đồng dân cư nghèo và dễ bị tổn thương. Điều này chủ yếu xảy ra ở các cộng đồng nông thôn vùng sâu, vùng xa, những nơi mà các biện pháp ngăn ngừa việc lây lan từ chó sang người không được thực hiện. Hàng năm ngành thú y đã tổ chức tiêm phòng, tuy nhiên kết quả tiêm phòng đạt tỷ lệ thấp so với tổng đàn. Ở một số thành phố, thị xã, thị trấn, kết quả tiêm phòng vắc xin dại đạt trên 70% so với tổng đàn, song hầu hết ở vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây nguyên tỷ lệ tiêm phòng rất thấp hơn 40% so với tổng đàn. Mặc dù, ngày 09/01/2007 Chính phủ Việt Nam đã có Nghị định 05/2007/NĐ-CP, trong đó, có đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Y tế phối hợp xây dựng Chương Quốc gia phòng khống chế là loại trừ bệnh dại vào năm 2020. 3. Phương pháp phòng, chống bệnh dại có hiệu quả ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Ngày 07/11/2011 Bộ Nông nghỉệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt Chương trình quốc gia khống chế và loại trừ bệnh dại năm 2011- 2015. Tuy nhiên, Chương trình quốc gia đã thực hiện xong giai đoạn 1 (2011-2015), các mục tiêu vẫn chưa đạt, hầu hết các tỉnh chưa triển khai được công tác quản lý đàn chó. Do không quản lý được đàn chó nên hiện tượng chó nuôi thả rông, không nhốt, xích trong khuôn viên gia đình, chó thường xuyên ra khỏi nhà dễ tiếp xúc với mầm bệnh ngoài môi trường, dễ lây bệnh dại. Ở thành phố, thị xã, thị trấn, khu đông dân cư, khi chó ra đường không có dân dẫn, chó dữ không đeo rọ mõm, chó cắn người vẫn còn phổ biến làm cho số người bị chó cắn tăng cao. Nhiều người bị chó cắn còn thiếu hiểu biết về tính chất nguy hiểm của bệnh dại, chủ quan không đến cơ sở y tế để tiêm phòng, nên nhiều người bị phát bệnh dại và tử vong. Chó không tiêm phòng, thả rông là nguyên nhân chính trong việc tạo điều kiện để bệnh dại lưu hành tại các địa phương. Việc phòng chống bệnh dại ở động vật đóng một vai trò quan trọng trong việc thanh toán bệnh dại. Động vật là nguồn lây bệnh dại chính sang người. Các kết quả của việc giám sát và điều tra trong vài năm vừa qua đã xác định nguồn lây lan bệnh dại chính ở Việt Nam là từ chó. Tuy bệnh dại là một loại dịch bệnh nguy hiểm, nhưng bệnh dại có thể phòng chống được bằng vắc xin. Chiến lược phòng bệnh dại ít tốn kém nhất để phòng ngừa bệnh dại ở người chính là bằng việc tiêm vắc xin phòng dại cho chó. Việc tiêm vắc xin cho động vật đã giúp làm giảm số lượng các ca bệnh dại ở người (và động vật) ở một vài quốc gia, nhất là ở đảo Bali, Indonesia. Việc ngăn ngừa bệnh dại thông qua việc phòng chống bệnh dại ở chó nuôi là một mục tiêu hiện thực và về mặt tài chính là rất đúng đắn bởi sẽ không tốn các khoản chi cho việc điều trị bệnh dại sau phơi nhiễm cho người, cũng như không có tác động của bệnh dịch đối với an ninh lương thực, an ninh kinh tế và đời sống người dân. Để tiêm phòng bệnh dại cho động vật đạt tỷ lệ đạt trên 70% so với tổng đàn, phải có sự vào cuộc của Chính quyền các cấp, Ban chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh của huyện sẽ chỉ đạo các ban, ngành, UBND các xã, thị trấn triển khai tiêm phòng cho chó hàng năm vào tháng 3, 4 và hàng tháng có tiêm phòng bổ xung cho những chó mới lớn, chó có chửa, chó ốm, chó mua từ nơi khác chưa được tiêm phòng, chó vì lý do gì đó chưa được tiêm phòng để tạo miễn dịch cho đàn chó. Công tác truyền thông rất quan trọng, để nâng cao nhận thức cho cộng đồng về dịch bệnh nguy hiểm này. Ngoài tuyên truyền phòng bệnh dại ở cấp trung ương, mỗi địa phương cần triển khai công tác truyền thông phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của địa phương mình, truyền thông cho chủ vật nuôi, học sinh phổ thông, những người tham gia buôn bán, vận chuyển, giết mổ chó, thậm chí truyền thông cho lãnh đạo chính quyền các cấp bởi họ là những người có vai trò quan trọng trong công Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 53Số 16 - Tháng 12 năm 2016 tác phòng, chống bệnh dại. Phương thức truyền thông có nhiều hình thức như: truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các cuộc hội thảo, giáo dục học đường, dùng các panô, áp phích, tờ rơi phân phát cho người dân. Phương thức truyền thông tốt nhất là thường xuyên phát trên các loa phóng thanh của các huyện, thị và xã, phường vào các thời điểm thích hợp. Trước khi triển khai tiêm phòng từ 3 đến 7 ngày truyền thông cho chủ vật nuôi ngày tiêm phòng, địa điểm tiêm phòng để Chủ vật nuôi đưa chó đến điểm tiêm phòng. Nếu là phương thức tiêm phòng mà các Đội tiêm đến từng nhà, thì Chủ vật nuôi phải có người ở nhà bắt giữ chó, hỗ trợ cho Đội tiêm phòng, đưa phiếu đăng ký chó cho đội tiêm ghi chép, theo dõi, nhận giấy chứng nhận tiêm phòng. Công tác quản lý đàn chó nuôi cũng rất cần thiết và cần được quan tâm nhiều hơn ở các địa phương. Để công tác quản lý đàn chó được tốt, chúng ta cần truyền thông và khuyến cáo cho Chủ vật nuôi: Khi mới nuôi chó, chó cần được huấn luyện từ đầu, chó mới mua về, gia đình phải có vòng đeo cổ hoặc có dây buộc cổ để chó có thói quen đeo vòng, có xích chó hoặc dây buộc chó, để được quản lý trong nhà, khi đến đợt tiêm phòng chủ vật nuôi dễ dàng dắt chó đi tiêm phòng. Chủ nuôi chó cần khai báo với Trưởng thôn để có phiếu đăng ký nuôi chó và cam kết với chính quyền địa phương thực hiện 5 không: - Không nuôi chó, mèo chưa khai báo với chính quyền địa phương ; - Không nuôi chó, mèo không tiêm phòng bệnh dại; - Không nuôi chó thả rông; - Không để chó cắn người; - Không nuôi chó, mèo gây ô nhiễm môi trường Hàng năm thực hiện tiêm phòng định kỳ cho đàn chó, kinh nghiệm cho thấy chó được tiêm phòng hàng năm sẽ không có bệnh dại. Tuy nhiên, tiêm phòng đạt tỷ lệ > 70% so với tổng đàn không hề dễ thực hiện. Để tiêm phòng có kết quả tốt cần có sự chuẩn bị kỹ càng và rất cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền. Các chủ vật nuôi phải nhận thức được nuôi chó là phải tiêm phòng, nếu không tiêm phòng, chó của gia đình mình sẽ bị dại và ảnh hướng đến sức khỏe của gia đình mình và cộng đồng. Trước các đợt tiêm phòng cần có lớp tập huấn cho đội ngũ đi tiêm phòng. Có ba hình thức tiêm phòng hiện đang thực hiện ở các địa phương. Hình thức thứ nhất là tiêm đồng loạt. Mỗi huyện tập trung tiêm phòng trong 2-3 ngày là hoàn thành, trước khi tiêm phòng yêu cầu thú y thôn, bản, xã phải thống kê tổng đàn chó để Trạm Thú y huyện chuẩn bị cung ứng vắc xin, sau đó Thú y xã thống nhất với chính quyền địa phương xác định các điểm tiêm phòng, trước 3-7 ngày thông báo cho các hộ gia đình ngày, giờ mang chó đến điểm tiêm. Trong thời gian tiêm phòng, thành lập các Đoàn kiểm tra, đôn đốc, giám sát công tác tiêm phòng, hàng ngày họp và rút kinh nghiệm khắc phục khó khăn tại các địa phương, hỗ trợ cho công tác tiêm phòng. Cuối các đợt tiêm phòng họp rút kinh nghiệm, nếu chưa đạt yêu cầu tiêm phòng bổ xung ngay. Hình thức tiêm phòng này đã thực hiện ở tỉnh Thái Nguyên, trong thời gian 2 tuần toàn tỉnh đã tiêm phòng xong và đạt tỷ lệ >70% so với tổng đàn. Hình thức thứ 2 là tiêm phòng cuốn chiếu: các huyện thành lập các đội tiêm phòng đến tiêm phòng từ xã này đến xã khác; chó được tập trung đến các điểm tiêm của thôn theo quy định của từng thôn, công tác tiêm phòng này thường kéo dài từ 1-1,5 tháng tùy theo địa bàn địa phương rộng hay hẹp và địa hình miền núi, trung du hay đồng bằng. Hình thức thứ 3 là các xã thành lập đội tiêm phòng và đến từng nhà để tiêm, phương thức tiêm phòng này thường áp dụng cho vùng sâu vùng xa, chó nuôi thả rông, phải dùng vợt bắt chó mới tiêm phòng được, thời gian tiêm phòng từ 1 đến 2 tháng. Qua kiểm tra, đôn đốc, giám sát công tác tiêm phòng cho thấy: hình thức tiêm phòng thứ nhất cho kết quả tiêm phòng tốt nhất, thời gian ngắn có sự tham gia của chính quyền các cấp, các ban ngành và cộng đồng. Hai hình thức tiêm phòng cuốn chiếu và đội tiêm phòng đến từng hộ nuôi chó, hiệu quả không cao, thời gian tiêm phòng kéo dài, hai hình thức này chỉ áp dụng ở vùng sâu vùng xa, chủ vật nuôi không mang chó đến điểm tiêm được, nhưng muốn đạt kết quả theo mong muốn cần có sự hợp tác của chủ vật nuôi: nhốt chó, bắt giữ chó khi có đội tiêm phòng đến và hỗ trợ cho đội tiêm phòng, thì kết quả mới đạt tỷ lệ cao trên 70% so với tổng đàn. Ngoài công tác tiêm phòng, công tác giám sát đàn chó rất quan trọng, giám sát tình hình sức khỏe của đàn chó, khi thấy đàn chó có biểu hiện Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 54 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 khác thường như: chó bị thể điên cuồng, cho hung dữ khác thường, hàm trễ, thè lưỡi ra ngoài, chảy nhiều nước dãi, sùi bọt mép, giọng sủa khàn, mắt đỏ, đi lại siêu vẹo, sợ gió, sợ nước. Chó thể bại liệt (thể câm) chó buồn bã, thích nằm trong tối, liệt hàm dưới, liệt chi, toàn thân và chết. Vì vậy, chủ vật nuôi khi thấy có chó có biểu hiện khác thường, cắn người cần sớm báo cáo cho cơ quan thú y và Trưởng thôn để phản ứng kịp thời như nhốt xích chó theo dõi, nếu chó có triệu chứng nghi bệnh dại lấy mẫu bằng việc cắt đầu chó gửi phòng xét nghiệm dại, chẩn đoán xác định bệnh, xử lý chó nghi mắc bệnh, tiêm phòng bao vây ổ dịch, khuyến cáo những người tiếp xúc với chó nghi dại, bị chó cắn đi tiêm phòng để giảm rủi ro, cần có sự phối hợp các 2 ngành Thú y và y tế, như chia sẻ thông tin, phối hợp điều tra ổ dịch và cùng nhau phòng, chống dịch. Qua theo dõi cho thấy địa phương nào giám sát tốt bệnh dại trên đàn chó đã phát hiện sớm các ổ dịch dại, tiêm phòng bao vây vắc xin dại xung quanh ổ dịch, khuyên cáo người dân có nguy cơ mắc bệnh dại để các điểm tiêm để được tư vấn, đã giảm được nguy cơ mắc bệnh dại. Bệnh dại là bệnh lây truyền từ động vật sang người là bệnh rất nguy hiểm, hàng năm cả nước có hàng trăm người tử vong. Những năm gần đây, bệnh dại có xu hướng gia tăng do người dân chưa nhận thức được tính chất nguy hiểm của bệnh, nuôi chó không có vòng cổ, nuôi chó thả rông không nhốt xích, đàn chó không quản lý được, không biết được số lượng tổng đàn, chủ vật nuôi nuôi chó không tiêm phòng và không có trách nhiệm với việc để chó cắn người. Muốn chó là con vật nuôi có ích, không mang bệnh cần phải tập cho chó có thói quen đeo vòng cổ và xích chó, nuôi trong khuôn viên của gia đình sẽ giảm nguy cơ chó cắn người, khi cần thiết là xích nhốt chó, khi có đợt tiêm phòng có thể dắt chó đến điểm tiêm phòng bệnh dại dễ dàng. Khi chó có biểu hiện khác thường hoặc cắn người phải báo cáo ngay cho Trưởng thôn, cán bộ thú y, người bị chó cắn, tiếp xúc với chó nghi bệnh dại phải rửa vết thương bằng nước xà phòng đặc dưới vòi nước chảy ít nhất 15 phút và đến Trung tâm y tế huyện để được tư vấn tiêm dự phòng vắc xin dại và kháng huyết thanh phòng chống dại. Việc khống chế và loại trừ bệnh dại phải có sự vào cuộc của chính quyền các cấp, có sự phối hợp chặt chẽ của ngành thú y và y tế, phải nêu cao trách nhiệm của chủ vật nuôi. Với thông điệp chó được quản lý, nhốt xích, được tiêm phòng vắc xin sẽ không có bệnh dại, không có bệnh dại trên đàn chó sẽ không có bệnh dại trên người, tiêm phòng bệnh dại hàng năm sẽ bảo vệ bạn, gia đình bạn và chó của bạn, toàn dân “Hãy chung tay phòng, chống bệnh dại”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế, Viện Pasteur TPHCM (2010), Tài liệu tập huấn Nâng cao chất lượng phòng chống bệnh dại khu vực phía Nam, năm 2010. 2. Bộ Y tế, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (2010), Lớp tập huấn Kiểm soát và phòng chống bệnh Dại ở Việt Nam. 3. Thiên Chương (2007), Liệt toàn thân sau khi tiêm phòng dại, doisong/2007/06/3b9f228/,20/10/2010. 4. Chương trình phòng chống bệnh dại, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung Ương. 5. Dự án phòng chống dại khu vực phía Nam, Viện Pasteur TPHCM, ytecongcong/chongdich/dai.htm, 12/10/2010. ABSTRACT RABIES IN ANIMALS AND METHODS OF EFFECTIVE RABIES PREVENTION IN THE ETHNIC MINORITIES AND MOUNTAINOUS EREAS Rabies is a disease transmitted from animal to animal and from animal to human, transmission by the bite, scratch or by direct contact with saliva from the patients. Vietnam is one of the countries affected by rabies. If in the 1990s, rabies tends to decrease, then from 2004 onwards, rabies tends to increase, particularly rabies due dog bites. Preventing transmission of rabies in animals to play an important role in the eradication of rabies in Vietnam in general and in ethnic minority and mountainous areas in particular. Keywords: Rabies, Rabies in animals, methods of prevention of rabies, rabies prevention methods in ethnic minority and mountainous areas.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf114_514_1_pb_2798_2222019.pdf
Tài liệu liên quan