Bạo lực gia đình đối với nữ cán bộ công chức viên chức nhân viên đã lập gia đình tại quận 8 thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017

Tài liệu Bạo lực gia đình đối với nữ cán bộ công chức viên chức nhân viên đã lập gia đình tại quận 8 thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 403 BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI NỮ CÁN BỘ CÔNG CHỨC VIÊN CHỨC NHÂN VIÊN ĐÃ LẬP GIA ĐÌNH TẠI QUẬN 8 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017 Nguyễn Thị Tuyết Vân*, Đặng Văn Chính* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bạo lực gia đình (BLGĐ)là một vấn đề xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ. Nghiên cứu tại Việt Nam, năm 2010 cho thấy có đến 58% phụ nữ bị BLGĐ. BLGĐ không chỉ diễn ra ở những phụ nữ có trình độ thấp thiếu thốn về kinh tế, mà ở những ở các gia đình trí thức, nơi có trình độ học vấn cao, BLGĐ đang xảy ra và có xu hướng phát triển. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ BLGĐ, các yếu tố liên quan đến tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua của nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình tại quận 8, thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2017. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 359 nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình từ 18 – 55 tuổi hiện đang làm v...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bạo lực gia đình đối với nữ cán bộ công chức viên chức nhân viên đã lập gia đình tại quận 8 thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 403 BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI NỮ CÁN BỘ CÔNG CHỨC VIÊN CHỨC NHÂN VIÊN ĐÃ LẬP GIA ĐÌNH TẠI QUẬN 8 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017 Nguyễn Thị Tuyết Vân*, Đặng Văn Chính* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bạo lực gia đình (BLGĐ)là một vấn đề xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ. Nghiên cứu tại Việt Nam, năm 2010 cho thấy có đến 58% phụ nữ bị BLGĐ. BLGĐ không chỉ diễn ra ở những phụ nữ có trình độ thấp thiếu thốn về kinh tế, mà ở những ở các gia đình trí thức, nơi có trình độ học vấn cao, BLGĐ đang xảy ra và có xu hướng phát triển. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ BLGĐ, các yếu tố liên quan đến tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua của nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình tại quận 8, thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2017. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 359 nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình từ 18 – 55 tuổi hiện đang làm việc tại các cơ quan, đơn vị và đoàn thể trực thuộc Ủy ban Nhân dân quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi cấu trúc từ nghiên cứu quốc gia của Việt Nam về bạo lực đối với phụ nữ năm 2010. Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập số liệu phỏng vấn mặt đối mặt với đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Tỷ lệ BLGĐ trong đời là 27,6% và tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua là19,2%. Trong đó tỷ lệ bạo lực tinh thần cao hơn bạo lực thể chất và tình dục. Các yếu tố có liên quan đến tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua là vấn đề hút thuốc lá của người chồng, vấn đề xay xỉn của người chồng, vấn đề ngoại tình của người chồng. Kết luận: Tạo điều kiện cho phụ nữ học tập nâng cao trình độ và có công việc ổn định. Vận động tuyên truyền tác hại của hút thuốc lá, say xỉn do uống rượu bia, duy trì hôn nhân một vợ một chồng. Từ khóa: bạo lực gia đình, bạo lực đối với phụ nữ ABSTRACT DOMESTIC VIOLENCE OF MARRIED FEMALE GOVERNMENT EMPLOYEES AT DISTRICT 8 IN HO CHI MINH CITY IN VIETNAM Nguyen Thi Tuyet Van, Dang Van Chinh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 403 – 411 Background: Domestic violence was a serious public health problem. A study in Vietnam in 2010 showed that 58% of women suffered violence. Domestic violence occurred not only in families with lack of education and poor, but in families with high education. Domestic violence has been developing. Objectives: This study aimed to determine the prevalence of domestic violence in lifetime and in the past 12 months and to assess association between domestic violence in the past 12 months with socio-demographic factors of female government employeesand their husbandsat district 8 in Ho Chi Minh City. Methods: A cross-sectional study was conducted on 359 married women who had been working at the People’s Committee of district 8, Ho Chi Minh City. The questionnaire of World Health Organization about health and experience in life was used to collect data by interviewing participants. The questionnaire had been translated to Vietnamese and validated by the national research in Vietnam in 2010. *Viện Y tế Công cộng Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Tuyết Vân ĐT: 039 680 8876 Email: nguyenthituyetvan@iph.org.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 404 Results: Prevalence of domestic violence in lifetime was 27.6% and in the past 12 months was 19.2%. Prevalence of psychological abusewas higher than physical and sexual violence. Many characters associated with domestic violence in the past 12 months, such as husbands’ smoking, husbands’ binge, husbands’ relationships with other women. Conclusion: Creating educationalenvironment for women to improve their knowledge and to supply stable jobs. Communicating them about the harmful effects of smoking, drunkenness due to drinking alcohol, and maintaining a monogamous marriage. Keywords: domestic violence, violence against wome ĐẶT VẤN ĐỀ Bạo lực gia đình (BLGĐ) là một vấn đề xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ. Tổ chức Y tế thế giới ước tính có khoảng một phần ba (35%) phụ nữ từng bị bạo lực thể chất hoặc tình dục bởi bạn tình của họ(18). Khu vực Đông Nam Á có tỷ lệ BLGĐ cao nhất (37,7%)(17). Riêng tại Việt Nam, năm 2010 nghiên cứu quốc gia về BLGĐ đối với phụ nữ cho kết quả có đến 58% phụ nữ trả lời từng bị ít nhất một trong ba hình thức bạo lực là thể xác, tình dục hoặc tinh thần(11). Bạo lực đối với phụ nữ thường gây ra những hậu quả nặng nề về sức khỏe thể chất và tinh thần, đồng thời còn làm tăng gánh nặng chi phí kinh tế và xã hội(18). Vấn đề bạo lực đối với phụ nữ còn là một trong các yếu tố văn hóa xã hội ngăn cản phụ nữ tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe(20). Nó còn liên quan chặt chẽ đến vị trí, vai trò của phụ nữ trong hoạt động chính trị, kinh tế và văn hóa. Đã có nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm ước tính tỷ lệ BLGĐ. Kết quả từ các nghiên cứu trước đây cho thấy phụ nữ có trình độ cao có tỷ lệ BLGĐ thấp hơn so với những phụ nữ có trình độ thấp(1,2,6). Do đó đa số các nghiên cứu đều tập trung ở các gia đình nghèo, thiếu thốn về vật chất, học vấn. Tuy nhiên trong nghiên cứu gần đây trên đối tượng là phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh thì phụ nữ có trình độ học vấn cao đẳng, đại học lại có tỷ lệ BLGĐ cao hơn nhóm còn lại, với tỷ lệ lần lượt là 59,4% và 22,2%(7). Hơn nữa theo một số tác giả cho rằng, ở các gia đình trí thức, nơi có trình độ học vấn cao, loại bạo lực không nhìn thấy đang xảy ra và có xu hướng phát triển, đây là loại bạo lực âm thầm, chủ yếu là dùng ngôn từ để dày vò tinh thần người phụ nữ(8).Như vậy, vấn đề BLGĐ ở những gia đình trí thức đang diễn biến phức tạp nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về vấn đề này một cách rõ ràng. Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nơi có tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua cao nhất cả nước (11,8%)(11). Đây là một quận vùng ven của thành phố, đang trong quá trình đô thị hóa, thu hút nhiều lao động nhập cư từ các tỉnh về đây sinh sống, học tập và làm việc dẫn đến quá tải về nhà ở, trường học, giao thông và công việc, tình hình kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn, điều này dễ làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong gia đình. Hơn nữa địa phương cũng như khu vực chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về vấn đề BLGĐ trên đối tượng là nữ có nghề nghiệp ổn định. Đây được xem là nhóm đối tượng ngày càng phổ biến trong xã hội khi nền kinh kinh tế ngày càng phát triển. Chính vì vậy mục tiêu trong nghiên cứu này là nhằm tìm hiểu về thực trạng BLGĐ ở đối tượng là nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình tại Quận 8, TP. Hồ Chí Minh. Mục tiêu Xác định tỷ lệ BLGĐ và các hình thức BLGĐ đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình tại Quận 8, TP. Hồ Chí Minh, năm 2017. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên đã lập gia đình từ 18 – 55 tuổi thuộc Ủy ban Nhân dân Quận 8, TP. Hồ Chí Minh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 405 Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cỡ mẫu Được tính dựa trên công thức ước lượng một tỷ lệ trong quần thể với độ chính xác tuyệt đối: n=Z2(1-α/2) [p(1-p)]/d2 Với tỷ lệ ước lượng (p=0,36)(7), xác xuất sai lầm loại I (α = 0,05), sai số ước lượng mong muốn được lấy ở mức 0,05 và với độ tin cậy 95% thì Z(1-α/2) = 1,96. Sau khi dự trù mất mẫu dựa theo tỷ lệ từ chối trả lời ở đối tượng sống tại thành thị trong nghiên cứu quốc gia năm 2010 là 2,4%(11), cỡ mẫu cần thu thập trong nghiên cứu là 363 người. Phương pháp chọn mẫu Phân tầng kết hợp với ngẫu nhiên đơn. Các đơn vị chọn mẫu được chia làm 3 tầng bao gồm: tầng 1(các phòng Ủy ban quận, Ủy ban 16 phường, các đoàn thể), tầng 2 (giáo dục), tầng 3 (y tế). Ở mỗi tầng bằng phương pháp ngẫu nhiên đơn để chọn ra số lượng nữ cần thu thập tương ứng với tỷ lệ nữ đã lập gia đình ở mẫu tầng. Thu thập số liệu Dữ liệu được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn mặt đối mặt với đối tượng nghiên cứu. Địa điểm phỏng vấn được sự đồng ý của đối tượng nhằm đảm bảo những thông tin mà đối tượng cung cấp trong quá trình phỏng vấn chỉ có phỏng vấn viên biết, những người khác không thể nghe thấy. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi cấu trúc từ nghiên cứu quốc gia của Việt Nam về bạo lực đối với phụ nữ năm 2010(11). Tuy nhiên trong nghiên cứu này chỉ sử dụng 4 phần có liên quan đến mục tiêu nghiên cứu, trong mỗi phần số lượng câu hỏi đã được chỉnh sửa. Do đó bộ câu hỏi đã được tiến hành nghiên cứu thử trên 30 phụ nữ đã lập gia đình tại Viện Y tế Công cộng TP. Hồ Chí Minh trước khi tiến hành thu thập số liệu. Phân tích số liệu Sử dụng phép kiểm chi bình phương và kiểm định chính xác Fisher để xét mối liên quan giữa tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua với các biến số về đặc điểm của đối tượng, đặc điểm của người chồng. Sử dụng phép kiểm hồi quy logistic đơn biến để kiểm định mức độ liên quan giữa vấn đề BLGĐ trong 12 tháng qua với các biến số về đặc điểm của đối tượng, đặc điểm của người chồng bằng tỷ số số chênh OR (Odds ratio) ở khoảng tin cậy 95% với mức ý nghĩa thống kê (p <0,05). Định nghĩa biến BLGĐ trong đời: là việc người phụ nữ có bị ít nhất một trong ba hình thức bạo lực (bạo lực thể xác, bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần) trong đời từ người chồng. BLGĐ trong 12 tháng qua:là việc người phụ nữ có bị ít nhất một trong ba hình thức bạo lực (bạo lực thể xác, bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần) trong 12 tháng qua từ người chồng. KẾT QUẢ Đối tượng tham gia nghiên cứu là 359 người. Tỷ lệ từ chối trả lời phỏng vấn là 1,1%. Bảng 1: Đặc điểm tuổi, dân tộc, tôn giáo, học vấn nữ cán bộ, công chức, viên chức đã lập gia đình tham gia nghiên cứu tại quận 8, TP. Hồ Chí Minh(n=359) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi 18 – 29 30 –39 40 –49 ≥ 50 48 139 114 58 13,4 38,7 31,7 16,2 Dân tộc Kinh Hoa, Tày, Nùng, Mường 351 8 97,8 2,2 Tôn giáo Không tôn giáo Phật giáo Thiên chúa giáo Tin lành, Cao đài 224 82 46 7 62,4 22,8 12,8 2 Trình độ học vấn Từ trung học phổ thông trở xuống Trên trung học phổ thông 34 325 9,5 90,5 Thu nhập hàng tháng (triệu): 6 (4,2-7,8)* 2-20** Quyền quyết định chi tiêu của bản thân Có Không 353 6 98,3 1,7 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 406 Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Chức vụ tại nơi làm việc Nhân viên Lãnh đạo, quản lý 334 25 93 7 Tình trạng nhà ở Có nhà riêng Sống cùng gia đình chồng Sống cùng gia đình bố mẹ đẻ Ở trọ, nhà thuê 157 101 68 33 43,7 28,2 18,9 9,2 Tình trạng con cái Không có con Chỉ có con trai Chỉ có con gái Có đủ trai và gái 28 107 115 109 7,8 29,8 32 30,4 Tình trạng hôn nhân Hiện đang sống cùng chồng Đã ly thân/ly dị/góa 338 21 94,2 5,8 Thời gian sống chung Dưới 5 năm Từ 5-9 năm Từ 10 năm trở lên 75 83 201 20,9 23,1 56 Hoàn cảnh kết hôn Hai người yêu nhau Do gia đình sắp xếp 343 16 95,5 4,5 *Trung vị (khoảng tứ vị), **Giá trị nhỏ nhất-giá trị lớn nhất Độ tuổi tập trung từ 30 đến 49 tuổi, trình độ học vấn trung học phổ thông (90,5%), hầu hết quyến định chi tiêu từ thu nhập của chính bản thân (98,3%), đang sống cùng chồng (94,2%) và đã có con. Thời gian sống chung chủ yếu của phụ nữ với chồng của mình là từ 10 năm trở lên (56%). Có 95,5% đã kết hôn là do yêu nhau (Bảng 1). Bảng 2: Đặc điểm tuổi, học vấn, nghề nghiệp, thu nhập của người chồng đối tượng tham gia nghiên cứu tại Quận 8, TP. Hồ Chí Minh (n=359) Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%) Tuổi 18 – 29 30 –39 40 –49 ≥ 50 30 127 117 85 8,4 35,4 32,6 23,6 Trình độ học vấn Từ Trung học phổ thông trở xuống Trên trung học phổ thông 140 219 39 61 Nghề nghiệp Cán bộ viên chức, kỹ tuật, kinh doanh, buôn bán Công nhân Thất nghiệp, tự do 247 52 60 68,8 14,5 16,7 Thu nhập/tháng (triệu): 7 (5-10)* 0-50** Hút thuốc lá Hàng ngày Thỉnh thoảng Không 107 49 203 29,8 13,7 56,5 Say xỉn Hàng ngày 11 3,5 Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%) Thỉnh thoảng Không 217 91 68 28,5 Đánh cờ bạc Có Không 40 319 11,2 88,8 Sử dụng ma túy Có Không Không biết 1 356 2 0,3 99,2 0,5 Đánh nhau với người khác Có Không Không biết 5 353 1 1,4 98,3 0,3 Đánh nhau với người khác trong 12 tháng qua Không 1-2 lần >5 lần 1 3 1 0,3 0,8 0,3 Có quan hệ với người phụ nữ khác Có Không Không biết 19 309 31 5,3 86,1 8,6 Có con với người phụ nữ khác Có Không Không biết 8 329 22 2,2 91,7 6,1 *Trung vị (khoảng tứ vị), **Giá trị nhỏ nhất-giá trị lớn nhất Chồng của các đối tượng tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 30 đến 49 tuổi, có trình độ trung học chuyên nghiệp trở lên (61%). Nghề nghiệp của người chồng tương đối đa dạng. Thu nhập hàng tháng của người chồng dưới 50 triệu, với giá trị trung vị 7 triệu/tháng. Có (29,8%) người chồng có hút thuốc lá hàng ngày. Đa phần các người chồng đều có say xỉn khi uống rượu, mức độ say xỉn của người chồng là thỉnh thoảng (68%). Tuy nhiên vấn đề có đánh cờ bạc của các người chồng thì tương đối ít và đa số các người chồng đều không sử dụng ma túy (99,2%) và không đánh nhau với người khác (98,3%). Có (5,3%) người chồng có quan hệ với người phụ nữ khác qua sự trả lời của người vợ, đặc biệt có đến 31 người vợ (8,6%) trả lời là không biết. Tương tự khi được hỏi về việc người chồng có con riêng với người phụ nữ khác thì đa phần các người vợ đều trả lời là không (91,7%), tuy nhiên cũng có đến 6,1% trả lời là không biết (Bảng 2). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ BLGĐ trong đời là 27,6% cao hơn tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua (19,2%). Trong các hình thức BLGĐ thì tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực tinh thần chiếm tỷ lệ cao nhất (27,3%), tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực thể xác và bạo lực tình dục rất thấp, lần lượt là 24 người (6,7%) và 3 người (0,6%) (Bảng 3). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 407 Bảng 3: Thực trạng BLGĐ đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức đã lập gia đình tham gia nghiên cứutại Quận 8, TP. Hồ Chí Minh (n=359). Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%) Bạo lực tinh thần trong đời (có) 98 27,3 Bạo lực thể xác trong đời (có) 24 6,7 Bạo lực tình dục trong đời (có) 3 0,6 Bạo lực gia đình trong đời (có) 99 27,6 Bạo lực trong 12 tháng qua (có) 69 19,2 Các yếu tố có ảnh hường đến vấn đề BLGĐ trong 12 tháng qua đối với phụ nữ là trình độ học vấn của phụ nữ, việc hút thuốc lá của người chồng, việc say xỉn của người chồng và việc người chồng có quan hệ với người phụ nữ khác (Bảng 4). Bảng 4: Mối liên quan giữa tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua với các đặc điểmcủa phụ nữ và người chồng của họ (n=359) Đặc điểm Bị BLGĐ 12 tháng qua Giá trị p + Có Không Nhóm tuổi của phụ nữ 18 – 29 30 – 39 40 – 49 ≥ 50 8 (16,7) 26 (18,7) 25 (21,9) 10 (17,2) 40 (83,3) 113 (81,3) 89 (78,1) 48 (82,8) 0,823 Trình độ học vấn của phụ nữ Từ trung học phổ thông trở xuống Trên trung học phổ thông 11 (32,4) 58 (17,9) 23 (67,6) 267 (82,1) 0,041 Thu nhập hàng tháng của phụ nữ: 6 (4,2-7,8)*** 0,227** Quyền quyết định chi tiêu của phụ nữ Có Không 66 (18,7) 3 (50) 287 (81,3) 3 (50) 0,088* Chức vụ tại nơi làm việc Lãnh đạo, quản lý Nhân viên 3 (12) 66 (19,8) 22 (88) 268 (80,2) 0,438* Tình trạng nhà ở của phụ nữ Có nhà riêng Sống cùng gia đình chồng Sống cùng gia đình bố mẹ đẻ Ở trọ, nhà thuê 32 (20,4) 10 (30,3) 16 (15,8) 11 (16,2) 125 (79,6) 23 (69,7) 85 (84,2) 57 (83,8) 0,273 Tình trạng con cái Không có con Chỉ có con trai Chỉ có con gái Có cả trai lẫn gái 6 (21,4) 20 (18,7) 21 (18,3) 22 (20,2) 22 (78,6) 87 (81,3) 94 (81,7) 87 (79,8) 0,971 Tình trạng hôn nhân Hiện đang sống cùng chồng Đã ly thân/ly dị/góa 65 (19,2) 4 (19) 273 (80,8) 17 (81) >0,999* Thời gian kết hôn Dưới 5 năm Từ 5-9 năm Từ 10 năm trở lên 11 (14,7) 17 (20,5) 41 (20,4) 64 (85,3) 66 (79,5) 160 (79,6) 0,531 Hoàn cảnh kết hôn Hai người yêu nhau Do gia đình sắp xếp 63 (18,4) 6 (37,5) 280 (81,6) 10 (62,5) 0,095* Nhóm tuổi của chồng 18 – 29 30 – 39 40 – 49 ≥ 50 6 (20) 23 (18,1) 23 (19,7) 17 (20) 24 (80) 104 (81,9) 94 (80,3) 68 (80) 0,984 Trình độ học vấn của chồng Từ trung học phổ thông trở xuống Trên trung học phổ thông 32 (22,9) 37 (16,9) 108 (77,1) 182 (83,1) 0,162 Nghề nghiệp của chồng Cán bộ viên chức, kỹ tuật, kinh doanh, buôn bán Công nhân Thất nghiệp, tự do 43 (17,4) 14 (26,9) 12 (20) 204 (82,6) 38 (73,1) 48 (80) 0,282 Thu nhập hàng tháng của chồng: 7 (5-10)*** 0,316** Hút thuốc lá của chồng Có Không 28 (26,2) 41 (16,3) 79 (73,8) 211 (83,7) 0,029 Say xỉn của chồng Hàng ngày Thỉnh thoảng 8 (72,7) 42 (19,4) 3 (27,3) 175 (80,6) <0,001* Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 408 Đặc điểm Bị BLGĐ 12 tháng qua Giá trị p + Có Không Không 12 (13,2) 79 (86,8) Đánh cờ bạc của chồng Có Không 6 (15) 63 (19,8) 34 (85) 256 (80,2) 0,472 Chồng có quan hệ với người phụ nữ khác Có Không 16 (32) 53 (17,2) 34 (68) 256 (82,8) 0,013 +Kiểm định Chi bình phương, *Kiểm định chính xác Fisher, **Hồi quy logistic, ***Trung bình (khoảng tứ vị) Bảng 5: Mối liên quan giữa BLGĐ trong 12 tháng qua với các đặc điểm của người vợ và người chồng trong nghiên cứu bằng mô hình đa biến. Đặc điểm OR hiệu chỉnh KTC 95% hiệu chỉnh Hút thuốc lá Có Không 1,91 1 1,03-3,54 Say xỉn Hàng ngày Thỉnh thoảng Không 23,63 1,6 1 4,74-117,72 0,78-3,28 Có quan hệ với người phụ nữ khác Có Không 2,64 1 1,26-5,54 Nghề nghiệp của người chồng Cán bộ viên chức, kỹ thuật, kinh doanh, buôn bán Công nhân Thất nghiệp, tự do 1,78 0,47 1 0,84-3,8 0,18-1,24 Sử dụng mô hình hồi quy đa biến cho thấy các đặc điểm của người chồng thật sự có liên quan có ý nghĩa thống kê đến BLGĐ trong 12 tháng qua, bao gồm việc hút thuốc lá, say xỉn, có quan hệ với phụ nữ khác với các giá trị p <0,05 (Bảng 5). Cụ thể ở những người có chồng có các đặc điểm về say xỉn, có quan hệ với phụ nữ khác và tình trạng nghề nghiệp giống nhau, thì những phụ nữ có chồng hút thuốc lá có tỷ số số chênh BLGĐ trong 12 tháng qua gấp 1,91 lần so với những phụ nữ có chồng không hút thuốc lá với (KTC 95%:1,03-3,54). Tương tự những phụ nữ có chồng có các đặc điểm về hút thuốc lá, có quan hệ với phụ nữ khác và tình trạng nghề nghiệp giống nhau, thì những phụ nữ có chồng say xỉn hàng ngày có tỷ số số chênh BLGĐ trong 12 tháng qua gấp 23,63 lần so với những phụ nữ có chồng không say xỉn (KTC 95%: 4,74-117,72). Đồng thời những phụ nữ có chồng có các đặc điểm về hút thuốc lá, say xỉn và tình trạng nghề nghiệp giống nhau, thì những phụ nữ có chồng có quan hệ với người phụ nữ khác có tỷ số số chênh BLGĐ trong 12 tháng qua cao gấp 2,64 lần so với những người phụ nữ có chồng không có quan hệ với người phụ nữ khác (KTC 95%:1,26-5,54). BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ BLGĐ trong đời trong số phụ nữ tham gia nghiên cứu là thấp (27,65) (Bảng 3). Các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, tỷ lệ BLGĐ đối với phụ nữ dao động trong khoảng từ 49,2% trong nghiên cứu năm 2012 tại Bà Rịa-Vũng Tàu cho đến 91% trong nghiên cứu năm 2013 tại 5 tỉnh thành của Việt Nam(4,9,11,15). Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, trong 3 phụ nữ sẽ có ít nhất 1 phụ nữ bị bạo lực thể xác hoặc tình dục trong cuộc đời bởi bạn tình của họ, riêng tại khu vực Đông Nam Á tỷ lệ này là (37,7%)(18). Tỷ lệ BLGĐ trong nghiên cứu tương đối thấp, điều này được lý giải là do sự khác biệt về đối tượng và địa điểm nghiên cứu. Nghiên cứu này được tiến hành tại một quận thuộc khu vực nội thành của TP. Hồ Chí Minh, và theo nhận định thì tỷ lệ BLGĐ ở vùng thành thị sẽ thấp hơn so với nông thôn(10). Trong nghiên cứu quốc gia năm 2010 tại Việt Nam, tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng qua ở vùng nông thôn là 9,6% và ở vùng thành thị là 7,9%, và riêng khu vực Đông Nam Á là 11,8%(5). Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ BLGĐ trong 12 tháng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 409 qua là 19,2%, kết quả này gần bằng với kết quả nghiên cứu tại Bà Rịa-Vũng Tàu năm 2012 (21,6%) và thấp hơn kết quả từ nghiên cứu quốc gia năm 2010 (27%)(11). Nghiên cứu quan tâm đến ba hình thức bạo lực bao gồm bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần và bạo lực tình dục, trong đó tỷ lệ nữ cán bộ, công chức, viên chức đã lập gia đình tại quận 8 có tỷ lệ bạo lực tinh thần nhiều nhất (27,3%) (Bảng 3). Các kết quả nghiên cứu tại Việt Nam trước đây cho thấy tỷ lệ bạo lực tinh thần là cao nhất trong các hình thức BLGĐ dao động trong khoảng từ 47%-80%(6,9,11,15). Nghiên cứu tại Thượng Hải thuộc Trung Quốc, xét riêng trong 12 tháng qua thì tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực tinh thần cao hơn bạo lực thể xác hoặc tình dục, lần lượt là 15,3% và 7,0%(13). Năm 2016, nghiên cứu tại Iran cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực tinh thần là 59,7%, bạo lực tình dục là 39,3%, và bạo lực thể xác là 33,2%(1). Như vậy, mặc dù có sự khác biệt về đối tượng, địa điểm và phương pháp nghiên cứu ở tất cả các nghiên cứu về BLGĐ, tuy nhiên tất cả kết quả đều cho thấy tỷ lệ bạo lực tinh thần đối với phụ nữ là cao nhất. Điều này là do đời sống ngày càng hiện đại đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống gia đình, khiến cho con người hay căng thẳng và không giữ được bình tĩnh để tìm ra cách giải quyết tốt nhất cho những xung đột trong gia đình. Với sự phát triển của nền kinh tế như hiện nay, theo một số tác giả cho rằng, ở các gia đình trí thức, nơi có trình độ học vấn cao, loại bạo lực không nhìn thấy đang xảy ra và có xu hướng phát triển, đây là loại bạo lực âm thầm, chủ yếu là dùng ngôn từ để dày vò tinh thần người phụ nữ(15). Qua đó cho thấy bạo lực tinh thần thường xảy ra và tồn tại một cách tinh vi với nhiều hình thức khác nhau, chỉ có người trong cuộc mới cảm nhận được. Bạo lực đối với phụ nữ thường có liên quan đến bạn tình của họ, và là nguyên nhân gây ra bạo lực thể xác và tình dục cho 30% phụ nữ trên toàn thế giới, đặc biệt có khu vực lên đến 38%(17). Các nghiên cứu trước đây về BLGĐ từng đưa ra kết luận rằng tuổi và nghề nghiệp của người chồng có ảnh hưởng đến vấn đề BLGĐ(5-7,10,14). Kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy các đặc điểm về tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập của người chồng không có ảnh hưởng đến vấn đề BLGĐ trong 12 tháng qua của đối tượng (Bảng 4). Lý giải sự khác nhau này là do bản chất của đối tượng tham gia nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu là một quận nội thành của thành phố Hồ Chí Minh. Người chồng của đối tượng chủ yếu có trình độ từ trung học phổ thông trở lên và bản chất công việc tương đối ổn định đòi hỏi kỹ năng và kiến thức, thu nhập của riêng người chồng trong nghiên cứu ở mức 7 triệu đồng/tháng, cao hơn rất nhiều so với số liệu thống kê trung bình ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2014, thu nhập bình quân hàng tháng của người dân vào khoảng 4.840.000 đồng/tháng(12). Tuy nhiên kết quả ở (Bảng 5) cho thấy các đặc tính về hành vi của người chồng có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trong 12 tháng qua. Tỷ lệ bạo lực trong 12 tháng qua đối với phụ nữ ở những người chồng hàng ngày say xỉn cao hơn rất nhiều so với những người chồng chỉ thỉnh thoảng say xỉn hoặc không bao giờ say xỉn. Số chênh bạo lực đối với phụ nữ 12 tháng qua ở nhóm những người chồng say xỉn hàng ngày gấp 23,7 lần so với nhóm những người chồng không say xỉn (khoảng tin cậy 95%: 4,74-117,72). Hành vi say xỉn của người chồng là một yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề BLGĐ. Việc uống quá nhiều rượu trong một lần có liên quan đến vấn đề bạo lực bạn tình của nam đối với nữ, và vấn đề bạo lực sẽ trở nên nghiêm trọng hơn khi một trong hai hoặc cả hai người nam và nữ đều có uống rượu, chính nồng độ cồn có trong rượu/bia là yếu tố chính đóng góp vào việc xảy ra bạo lực giữa họ(16). Kết quả từ nghiên cứu quốc gia 2010 cũng cho thấy mức độ sử dụng rượu của người chồng càng nhiều thì tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ càng gia tăng, việc người chồng hàng ngày đều có sử dụng rượu thì tỷ số số chênh bạo lực đối với vợ gấp 8,21 lần (khoảng tin cậy 95%:4,07-16,55) so với những người chồng không sử dụng rượu(5). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 410 Việc sử dụng rượu của người chồng làm gia tăng nguy cơ bạo lực đối với phụ nữ(4,10). Và tần suất uống rượu của người chồng có ảnh hưởng đến vấn đề bạo lực thể xác hoặc tình dục trong 12 tháng qua(13). Rượu được cho là có ảnh hưởng đến hành vi hung hăng thông qua những ảnh hưởng bất lợi lên chức năng điều hành nhận thức của người uống rượu, và khả năng giải quyết vấn đề, thu hẹp sự tập trung về ý thức, gia tăng sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Trong bối cảnh mối quan hệ vợ chồng, khi một trong hai người đã uống rượu, họ sẽ không thể giải quyết mâu thuẫn mang tính xây dựng vì ảnh hưởng của rượu đối với hoạt động nhận thức và giải quyết vấn đề. Hơn nữa với nhận thức của xã hội và văn hoá của rượu cũng có thể đóng vai trò chấp nhận và khoan dung đối với hành vi sai trái liên quan đến rượu, điều này có thể ảnh hưởng đến sự kỳ vọng của người uống rượu, một số người khi đã uống rượu có thể cố tình gây hấn hoặc gây bạo lực đối với bạn tình vì họ có kỳ vọng hành vi của họ sẽ được tha thứ do họ đã từng uống rượu vào thời điểm đó(16). Ngoài rượu, việc người chồng hút thuốc lá cũng là một yếu tố có liên quan đến vấn đề bạo lực trong 12 tháng qua đối với phụ nữ trong nghiên cứu. Số chênh bạo lực đối với phụ nữ trong 12 tháng qua ở nhóm có chồng hút thuốc lá gấp 1,91 lần so với nhóm có chồng chỉ thỉnh thoảng hút thuốc lá (khoảng tin cậy 95%: 1,02- 3,58). Chỉ có một vài nghiên cứu có đề cặp đến ảnh hưởng về việc hút thuốc lá của người chồng đến vấn đề BLGĐ. Nghiên cứu ở Ethiopia năm 2012 có từng đề cặp đến việc người chồng có từng sử dụng ma túy hoặc hút thuốc lá thì tỷ lệ bạo lực đối với bạn tình sẽ cao hơn những người còn lại với OR=3,6 (khoảng tin cậy 95%: 2-6,2)(10). Nghiên cứu ở Bà Rịa-Vũng Tàu năm 2012 cho thấy việc hút thuốc lá của người chồng có ảnh hưởng đến tỷ lệ bạo lực trong 12 tháng qua đối với phụ nữ với PR=1,41 (khoảng tin cậy 95%:1,11-1,8)(6). Tại Việt Nam, việc hút thuốc lá khá phổ biến trong cộng đồng, nhưng hầu như chỉ có nam giới hút thuốc lá, và đối tượng gây bạo lực đối với phụ nữ cũng chủ yếu là người chồng hoặc bạn tình, do đó mối liên quan trong trường hợp này đang bị ảnh hưởng bởi vấn đề giới tính. Cần có một nghiên cứu về vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trên đối tượng tham gia nghiên cứu là cả nam lẫn nữ, khi đó yếu tố giới tính sẽ được xem xét trong các mối liên hệ với với đề BLGĐ. Việc người chồng có quan hệ với người phụ nữ khác là một yếu tố nguy cơ của việc đỗ vỡ hạnh phúc gia đình và là lý do tất yếu dẫn đến các mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc người chồng có quan hệ với người phụ nữ khác thật sự có ảnh hưởng đến vấn đề bạo lực trong 12 tháng qua đối với phụ nữ. Tuy nhiên do cỡ mẫu của nghiên cứu chưa đủ lớn do đó việc thể hiện mối liên quan chưa thật sự rõ ràng. Một nghiên cứu tổng quan hệ thống cũng đưa ra kết luận rằng, sự kém hài lòng trong mối quan hệ là một yếu tố dự đoán cho vấn đề bạo lực đối với bạn tình(3). Những phát hiện từ nghiên cứu đa quốc gia của Tổ chức Y tế thế giới về sức khoẻ phụ nữ và BLGĐ cũng cho thấy việc bạn tình có quan hệ với người phụ nữ khác là một yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ bạo lực đối với bạn tình của nam giới(2). Nghiên cứu tại Việt Nam năm 2010 cũng kết luận, việc người chồng có hoặc có thể có mối quan hệ với người phụ nữ khác thì tỷ số số chênh bạo lực đối với phụ nữ trong 12 tháng qua sẽ cao gấp 4,24 lần so với những người chồng không có hoặc vợ không biết việc chồng có quan hệ với người phụ nữ khác (khoảng tin cậy 95%: 2,78-6,46)(9). KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ BLGĐ đối với phụ nữ đã lập gia đình trong đời và trong 12 tháng qua l2 rất thấp lần lượt là 27,6% và 19,2%. Đối tượng trong nghiên cứu là những phụ nữ đã lập gia đình và có công việc ổn định. Tuy nhiên, tỷ lệ trên cũng cho thấy rằng BLGĐ không chỉ diễn ra ở những gia đình có thu nhập thấp với trình độ học vấn thấp mà ở những gia đình có thu nhập cao có trình độ học vấn thì BLGĐ vẫn đang phát triển. Hiện tại với sự phát triển của Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 411 nền kinh tế, ở thành thị, phụ nữ có trình độ học vấn và công việc ổn định đang ngày càng phát triển. Do đó, BLGĐ ở vùng thành thị sẽ ngày càng có liên quan đến phụ nữ có trình độ và công việc ổn định. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abbaspoor Z, Momtazpour M (2016). Domestic Violence and Its Related Factors Based a Prevalence Study in Iran. Glob J Health Sci, 8(12):55206. 2. Abramsky T, et al (2011). What factors are associated with recent intimate partner violence? findings from the WHO multi- country study on women's health and domestic violence. BMC Public Health, 11(1):109. 3. Capaldi DM, Knoble NB, et al (2012). A Systematic Review of Risk Factors for Intimate Partner Violence. Partner Abuse, 3(2):231-280. 4. Fulu E, Rachel J, Tim R, Claudia GM (2013). Prevalence of and factors associated with male perpetration of intimate partner violence: findings from the UN Multi-country Cross-sectional Study on Men and Violence in Asia and the Pacific. Lancet Global Health, 1(4):e187-e207. 5. Jansen HA., Nguyen TV, Hoang TA (2016). Exploring risk factors associated with intimate partner violence in Vietnam: results from a cross-sectional national survey. Int J Public Health, 61(8):923-934. 6. Nguyễn Tấn Thanh Tuyền, Đỗ Văn Dũng (2014). Tỷ lệ bạo hành gia đình đối với phụ nữ từ 18-60 tuổi tại Bà Rịa- Vũng Tàu. Y học Thành phố Hồ Chí Minh-Chuyên đề Y tế Công cộng, 18(S66):463-467. 7. Nguyễn Thanh Hiệp, Nguyễn Thị Như Ngọc (2011). Bạo hành gia đình trong thai kỳ và các yếu tố liên quan trên sản phụ ở thành phố Hồ Chí Minh. Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(2):9-16. 8. Nguyễn Thị Thảo (2005). Vấn đề bạo lực trong gia đình trí thức ở nước ta hiện nay. Tạp chí Tâm lý học, 5(74):44-49. 9. Ngyễn Thị Như Ngọc (2012). Mối tương quan giữa bạo hành gia đình và trầm cảm ở thai phụ thành phố Hồ Chí Minh. URL: spx?List=f73cebc3-9669-400e-b5fd-9e63a89949f0&ID=1367. 10. Ngyễn Thị Như Ngọc (2012). Mối tương quan giữa bạo hành gia đình và trầm cảm ở thai phụ thànhphố Hồ Chí Minh. URL: spx?List=f73cebc3-9669-400e-b5fd-9e63a89949f0&ID=1367. 11. Semahegn A, Mengistie B (2015). Domestic violence against women and associated factors in Ethiopia; systematic review. Reproductive Health, 12:78. 12. Tổng cục thống kê (2010). Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về bạo hành gia đình với phụ nữ Việt Nam, 39-65, 80-86, 103-105. 13. Tổng cục thống kê (2014). Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân theo nguồn thu và phân theo địa phương. URL: 14. Tu X, Lou C (2017). Risk factors associated with current intimate partner violence at individual and relationship levels: a cross- sectional study among married rural migrant women in Shanghai, China. BMJ Open, 7(4):e012264. 15. Trinh Thi Hoang Oanh, Juhwan Oh, Sugy Choi, To Gia Kien, Do Van Dung (2016). Changes and socioeconomic factors associated with attitudes towards domestic violence among Vietnamese women aged 15–49: findings from the Multiple Indicator Cluster Surveys, 2006–2011. Global Health Action, doi:10.3402/gha. v9.29577. 16. Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên (2012). Báo cáo giám sát và đánh giá thực thi luật phòng chống bạo lực gia đình tại 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Nam. CSAGA, pp.19-38. 17. Wilson IM, Graham K, Taft A (2014). Alcohol interventions, alcohol policy and intimate partner violence: a systematic review". BMC Public Health, 14:881. 18. World Health Organization (2013). Global and regional estimates of violence against women: prevalence and health effects of intimate partner violence and non-partner sexual violence. WHO, pp.16-47. 19. World Health Organization (2013). Responding to intimate partner violence and sexual violence against women - WHO clinical and policy guidelines. URL: https://apps.who.int/iris/bitstream/handle/10665/85240/97892415 48595_eng.pdf?sequence=1 20. World Health Organization (2016). Violence against women. URL: accessed on 3rd july 2016. 21. World Health Organization (2017). Women's health. URL: accessed on 3rd march 2017. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf403_6296_2212119.pdf
Tài liệu liên quan