Tài liệu Bảo đảm quyền làm việc của lao động nữ từ thực tiễn tại Gia Lai: KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ42
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Gia Lai là tỉnh có tổng dân số khoảng 1,39 triệu người với 34 dân tộc cùng sinh sống, tỷ lệ người dân tộc thiểu số
chiếm tỷ lệ 45,08%. Tính đến hết 31/12/2017,
toàn tỉnh có 199.300 người lao động làm việc ở
các đơn vị kinh tế, riêng khối doanh nghiệp có
60.628 người (trong đó lao động nữ chỉ chiếm
23,19%)1. Lao động nữ trên địa bàn tỉnh Gia Lai
gắn liền với những đặc điểm chung vốn có về
giới, chẳng hạn như quan niệm cố hữu về vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội luôn
là phái yếu, phù hợp với công việc nhẹ nhàng,
an phận. Mặt khác, họ luôn có những những
đặc điểm khác biệt về sức khỏe, giới tính, thể
lực nên quyền lợi của lao động nữ sẽ có những
bất lợi nhất định trong việc tìm kiếm cơ hội việc
làm, duy trì và thăng tiến trong công việc.
Để cụ thể hóa những chủ trương, đường lối
của Đảng về bảo vệ người lao động (NLĐ) nói ...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền làm việc của lao động nữ từ thực tiễn tại Gia Lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ42
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Gia Lai là tỉnh có tổng dân số khoảng 1,39 triệu người với 34 dân tộc cùng sinh sống, tỷ lệ người dân tộc thiểu số
chiếm tỷ lệ 45,08%. Tính đến hết 31/12/2017,
toàn tỉnh có 199.300 người lao động làm việc ở
các đơn vị kinh tế, riêng khối doanh nghiệp có
60.628 người (trong đó lao động nữ chỉ chiếm
23,19%)1. Lao động nữ trên địa bàn tỉnh Gia Lai
gắn liền với những đặc điểm chung vốn có về
giới, chẳng hạn như quan niệm cố hữu về vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội luôn
là phái yếu, phù hợp với công việc nhẹ nhàng,
an phận. Mặt khác, họ luôn có những những
đặc điểm khác biệt về sức khỏe, giới tính, thể
lực nên quyền lợi của lao động nữ sẽ có những
bất lợi nhất định trong việc tìm kiếm cơ hội việc
làm, duy trì và thăng tiến trong công việc.
Để cụ thể hóa những chủ trương, đường lối
của Đảng về bảo vệ người lao động (NLĐ) nói
chung, lao động nữ nói riêng như: Bộ luật Lao
động (2012), Luật Bình đẳng giới (2006), Luật
bảo hiểm xã hội (2014), tỉnh Gia Lai đã ban hành
và thực hiện nhiều chương trình hành động
rất thiết thực và đạt được nhiều thành tựu. Tuy
nhiên, vấn đề bảo vệ NLĐ nữ trên địa bàn tỉnh
Gia Lai, đặc biệt là lao động trong khối doanh
nghiệp cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất
cập cần được đánh giá, xem xét và có hướng
khắc phục.
1. Quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền về việc làm đối với lao động nữ
Khoản 7 Điều 4 Bộ Luật Lao động 2012 quy
định về chính sách đối với NLĐ như sau: “Bảo
Bảo đảm quyền làm việc của
lao động nữ từ thực tiễn tại Gia Lai
TRỊNH THỊ THU HIỀN
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
đảm nguyên tắc bình đẳng giới; quy định chế độ
lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao
động nữ, lao động là người khuyết tật, NLĐ cao
tuổi, lao động chưa thành niên”. Lao động nữ là
một đối tượng đặc biệt luôn được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm bảo vệ. Theo đó, Bộ Luật Lao
động 2012 dành chương X để quy định những
chính sách riêng cho lao động nữ. Ngoài những
quyền của NLĐ nói chung, Chính phủ ban hành
Nghị định 85/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
chi tiết Bộ Luật Lao động về chính sách với lao
động nữ. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng
thể hiện sự nghiêm túc của Việt Nam trong việc
thực hiện những cam kết quốc tế về lao động
như: Công ước Xoá bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW 1979); Công ước
100 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) năm
1951 về Trả lương bình đẳng giữa lao động nam
và nữ cho loại công việc có giá trị ngang nhau;
Công ước số 111 (năm 1958) về chống phân
biệt đối xử tại nơi làm việc...
Phụ nữ luôn được xác định là đối tượng yếu
thế trong xã hội, cần có sự quan tâm đặc biệt
bởi đặc điểm sinh lý của nữ giới và trách nhiệm
thực hiện thiên chức làm mẹ. Do đó Nhà nước
ta đã có nhiều quy định nhằm đảm bảo cho
phụ nữ những quyền lợi nhất định. Chẳng hạn
với đặc thù về sinh lý nên Điều 160 Bộ Luật lao
động 2012 còn quy định một số công việc phụ
nữ không được làm bao gồm2: (1) Công việc có
ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi
con theo danh mục do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 43
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19hành. (2) Công việc phải ngâm mình thường
xuyên dưới nước. (3) Công việc làm thường
xuyên dưới hầm mỏ.
Trên tinh thần của Bộ Luật Lao động 2012,
Nghị định 85/2015/NĐ-CP quy định: “Người sử
dụng lao động (NSDLĐ) có trách nhiệm thực
hiện quyền bình đẳng giữa lao động nữ và lao
động nam trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo,
tiền lương, khen thưởng, thăng tiến, trả công
lao động, các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện lao
động, an toàn lao động, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, các chế độ phúc lợi khác về vật
chất và tinh thần” (điểm a Khoản 1 Điều 5).
Đồng thời, Điều 154 Bộ Luật Lao động 2012
quy định, NSDLĐ phải có các nghĩa vụ sau đây:
“1. Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các
biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong tuyển
dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác.
2. Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc
đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên
quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ...”
Như vậy, có thể khẳng định rằng: quyền
của lao động nữ về việc làm theo pháp luật
Việt Nam được hiểu là quyền được bình đẳng
trong việc lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học
nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không
bị phân biệt đối xử. NSDLĐ phải có những biện
pháp tích cực trong việc tạo điều kiện cho phụ
nữ có việc làm. Nghiêm cấm NSDLĐ có những
biểu hiện phân biệt đối xử đối với NLĐ nữ trong
quan hệ lao động.
2. Thực trạng vấn đề bảo đảm quyền về
việc làm của lao động nữ tại Gia Lai
Số liệu thống kê cho thấy, trong năm
2018, tỉnh Gia Lai đã giải quyết việc làm mới
cho NLĐ ước đạt 25.550/25.000 lao động đạt
102,2% kế hoạch, so với cùng kỳ năm 2017 là
25.550/25.060 người tăng 1,9% so với cùng
kỳ3. Có thể nói, đây là những kết quả rất tích
cực trong công tác tạo việc làm nói chung, việc
làm cho lao động nữ nói riêng trên địa bàn tỉnh
ta. Kết quả này là sự nỗ lực của các cấp, ngành
đoàn thể và đặc biệt là Trung tâm Dịch vụ việc
làm4 trên tinh thần thực hiện tốt các chương
trình, kế hoạch hành động thiết thực như: Chiến
lược quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 -
2020, phấn đấu đạt Chỉ tiêu số 4 Nghị quyết Đại
hội phụ nữ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII “Hàng năm,
các cấp Hội phối hợp đào tạo nghề cho 1.500 lao
động nữ, hỗ trợ phụ nữ khởi sự kinh doanh và
khởi nghiệp, mỗi cơ sở giúp được ít nhất 01 hộ
gia đình phụ nữ thoát nghèo/năm theo tiêu chí
đa chiều”; Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai
đoạn 2017-2025 trên địa bàn tỉnh Gia Lai” theo
Quyết định số 893/QĐ-UBND ngày 26/12/2017
của UBND tỉnh Gia Lai...
Tuy nhiên, đảm bảo thực hiện quyền về
việc làm với lao động nữ nói chung, trên địa
bàn tỉnh Gia Lai nói riêng cũng còn tồn tại một
số bất cập, hạn chế xuất phát từ các quy định
của pháp luật cũng như từ phía xã hội.
Thứ nhất, bất cập xuất phát từ quy định
của pháp luật liên quan đến bình đẳng giới
đối với phụ nữ về tự do lựa chọn việc làm.
Một là, quy định cấm trong lựa chọn việc làm
cho lao động nữ
Điều 160 Bộ Luật lao động 2012 quy định
một số công việc phụ nữ không được làm bao
gồm: (1) Công việc có ảnh hưởng xấu tới chức
năng sinh đẻ và nuôi con theo danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối
hợp với Bộ Y tế ban hành; (2) Công việc phải
ngâm mình thường xuyên dưới nước; (3) Công
việc làm thường xuyên dưới hầm mỏ. Quy định
riêng này đối với lao động nữ với mục tiêu bảo
vệ lao động nữ, nhưng thực tế lại có tác động
bất lợi với phụ nữ, hạn chế quyền làm việc có
thu nhập và phát triển nghề nghiệp của lao
động nữ.
Số liệu tại Báo cáo cung - cầu lao động năm
2017 của Trung tâm Dịch vụ việc làm Gia Lai
cho thấy: nhu cầu tìm việc trong năm 2017 có
1.003 lao động nữ - chiếm tỉ lệ 63,76% (chiếm
gần gấp đôi) so với 570 lao động nam - chiếm
36,24%. Ngoài ra, lao động nữ ở Gia Lai thường
lựa chọn việc làm trong các lĩnh vực có trình độ
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ44
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G chuyên môn thấp, chủ yếu làm việc trong các
ngành thâm dụng lao động như may - giày da
- dệt - nhuộm - thiết kế thời trang. Như vậy, nữ
giới luôn trong tình trạng “cần việc” hơn nam
giới rất nhiều, trong khi đó, một số lĩnh vực
gần như không có sự tham gia của nữ giới như
nhóm ngành nhựa - bao bì - in.
Thực tế này cho thấy, nữ giới có ít cơ hội
về lựa chọn ngành nghề so với nam giới. Trong
khi đó, Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH lại quy
định tới 38 nhóm công việc không được sử
dụng lao động nữ. Mặc dù điều này xuất phát
từ sự bảo vệ cho nữ giới tránh sự ảnh hưởng tới
sức khỏe, sinh lý... Tuy nhiên, quy định này lại
cho thấy sự bất tiện cho lao động nữ dưới góc
độ bình đẳng giới trong cơ hội tìm kiếm việc
làm. Bởi lẽ, với điều kiện của lao động nữ hiện
nay, tìm được công việc để kiếm thu nhập là
không dễ dàng, hơn nữa một vài bộ phận nữ
giới đã đảm bảo mặt thể chất cùng tinh thần
để đảm nhận được những công việc này hoặc
những lao động nữ đã có gia đình và sinh con
đầy đủ không có nhu cầu sinh con nữa lại mất
cơ hội lựa chọn những ngành nghề này để được
hưởng lương và phụ cấp tốt hơn.
Tác giả cho rằng, bảo vệ chế độ sinh sản
cho phụ nữ là một chủ trương đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, nếu pháp luật
cho phép lao động nữ có quyền tự quyết định
lựa chọn làm các công việc có rủi ro ảnh hưởng
xấu đến chức năng sinh sản và nuôi con nhỏ
trên cơ sở được thông tin đầy đủ về các công
việc đó và điều kiện bảo hộ lao động, thì nên
chăng sửa đổi quy định “cấm” theo hướng được
“lựa chọn” sẽ là hợp lý hơn.
Hai là, quy định về độ tuổi nghỉ hưu của lao
động nữ
Bộ Luật Lao động 2012 quy định tuổi nghỉ
hưu của lao động nữ là 55, nam giới là 60. Mặc
dù quy định này nhằm bảo vệ cho lao động
nữ, tuy nhiên dưới góc độ luật pháp quốc tế thì
đây lại là quy định có thể gây hạn chế quyền
có việc làm và hưởng thu nhập hợp pháp của
lao động nữ. Quy định này dường như không
còn phù hợp với cách tiếp cận hiện đại về bình
đẳng giới5. Sự khác biệt này không đảm bảo
bình đẳng với nữ bởi lẽ, giảm độ tuổi nghỉ hưu
đồng nghĩa với giảm thời gian làm việc của lao
động nữ so với nam giới và cũng đồng nghĩa với
bất bình đẳng với lao động nam (do họ bị kéo
dài thời gian làm việc so với lao động nữ). Điều
này có thể dẫn đến nhiều hình thức phân biệt
đối xử về phát triển nghề nghiệp, cơ hội thăng
tiến và khả năng tích luỹ lương hưu sau này.
Thứ hai, bất cập từ khâu tuyển dụng của
người sử dụng lao động
Phụ nữ Việt Nam thường được xã hội gán
cho một địa vị thấp hơn và đặt gánh nặng làm
công việc nhà không lương, do đó họ ít được
tiếp cận đến các nguồn lực sản xuất, giáo dục,
phát triển kỹ năng và cơ hội việc làm hơn so
với nam giới. Có thể nhận thấy, thực tế trên
thị trường lao động người phụ nữ vẫn đang
bất lợi hơn so với nam giới trong quá trình tìm
kiếm việc làm bền vững. Ngay cả khi Bộ Luật
Lao động có chính sách ưu đãi đối với doanh
nghiệp sử dụng nhiều NLĐ, nhưng thực tế triển
khai luật còn nhiều vướng mắc nên vẫn không
khuyến khích doanh nghiệp. Mặt khác, nhận
thức của NSDLĐ vẫn chưa xóa bỏ được định
kiến giới trong việc tạo cơ hội làm việc cho nữ
giới. Chính vì thế, với tư cách là người có quyền
lựa chọn, nhà tuyển dụng luôn có xu hướng
lựa chọn nam giới để bớt đi gánh nặng về các
khoản chi phí nếu sử dụng lao động nữ.
Tại Gia Lai, qua khảo sát năm 2017 cho
thấy, nhu cầu tuyển dụng theo giới tính cũng
có sự chênh lệch khá lớn: nam chiếm 60,66%
trong tổng số tuyển dụng của doanh nghiệp
(gần gấp đôi so với nhu cầu tuyển dụng lao
động là nữ giới - 39,34%)6.
Có thể nói, một trong những nguyên nhân
gây ra sự bất bình đẳng trong cơ hội tìm kiếm
việc làm giữa nam và nữ tại Gia Lai xuất phát từ
chính nhu cầu của NSDLĐ. Cơ hội được lựa chọn
nghề nghiệp của nữ giới luôn hạn chế hơn nam
giới. Mặc dù, Luật có đưa ra quy định khuyến
khích NSDLĐ: “ưu tiên tuyển dụng, sử dụng
phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ điều
kiện, tiêu chuẩn làm công việc phù hợp với
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 45
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19cả nam và nữ” nhưng có lẽ vì là “khuyến khích”
nên dường như doanh nghiệp không mấy quan
tâm tới vấn đề này!
Thứ ba, tình trạng thất nghiệp, việc
làm không được duy trì ổn định đối với lao
động nữ.
Rà soát thông tin tuyển dụng của doanh
nghiệp được thống kê thông báo công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng trên địa
bàn Gia Lai như: website của Trung tâm Dịch vụ
việc làm, website của Báo điện tử Gia Lai và các
rao vặt tuyển dụng được dán công khai trên các
bảng tin tại trụ sở cơ quan hành chính... rất dễ
nhận thấy nhiều doanh nghiệp đưa ra điều kiện
về độ tuổi lao động thường từ 18 - 35. Lý do có
lẽ là ở độ tuổi này sức khỏe của NLĐ là tốt nhất,
là thời điểm tốt nhất để NSDLĐ trao đổi hàng
hóa sức lao động của NLĐ. Kết hợp với số liệu
về cung - cầu lao động như đã phân tích trên
cho thấy, lao động nữ thuộc nhóm đối tượng
yếu thế rất dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp và
việc làm không được duy trì ổn định.
Thực tế cho thấy, vấn đề này cũng là hiện
tượng phổ biến ở Việt Nam khi nhiều doanh
nghiệp chỉ tuyển dụng lao động nữ trong một
thời gian nhất định rồi sa thải đã và đang diễn
ra ngày càng phổ biến, có những nơi 80% lao
động nữ trên 35 tuổi buộc phải nghỉ việc7. Vấn
đề này ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội tìm kiếm
việc làm của NLĐ nói chung và NLĐ nữ nói
riêng. Để chấm dứt hợp đồng với lao động lớn
tuổi, doanh nghiệp thực hiện “lách luật” một
cách công khai với nhiều cách thức để chấm
dứt hợp đồng với lao động lớn tuổi như: tăng
định mức, sản lượng phải hoàn thành để số lao
động lớn tuổi không đáp ứng được và bị chấm
dứt hợp đồng, hoặc họ tự nghỉ; hoặc bố trí dây
chuyền có số lao động lớn tuổi ít người hơn so
với dây chuyền có lao động trẻ, với lý do lao
động lớn tuổi làm lâu thạo nghề, quen tay hơn
người trẻ...8
Vấn đề đáng quan tâm ở đây là cho tới nay
chưa ghi nhận trường hợp doanh nghiệp nào
loại công nhân ở tuổi trên 35 bị xử lý, thậm chí
một khảo sát trên diện rộng cũng chưa được
thực hiện. Ngược lại, cơ quan quản lý nhà nước
lại chưa áp dụng chế tài với những trường hợp
này. Chính vì thế, quyền lợi của lao động nữ luôn
bị đe dọa, không được đảm bảo quyền được làm
việc lâu dài, ổn định, gây khó khăn trong vấn
đề tìm kiếm việc làm của lao động nữ lớn tuổi.
Thứ tư, về vấn đề đào tạo nghề, nâng
cao trình độ nghề nghiệp cho lao động nữ.
Theo số liệu năm 2017 của Gia Lai cho thấy
lĩnh vực cần lao động nữ chủ yếu chỉ yêu cầu
lao động nữ chưa qua đào tạo chuyên môn
kỹ thuật. Trong đó, ngành May - Giày da - Dệt
- Nhuộm - Thiết kế thời trang cần 1.023 lao
động, nhưng có đến 1.106 chỉ tiêu không cần
qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Năm 2018,
tổng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp là
5,622 người, trong đó, không yêu cầu về trình
độ chuyên môn là 3,534 người (chiếm 62,68%).
Điều này cho thấy, nhu cầu của doanh nghiệp
Gia Lai dường như chỉ cần sử dụng lao động
“chân tay” mà không cần tới chuyên sâu về
chuyên môn kỹ thuật. Xuất phát từ tính đặc
thù của một số ngành nghề, đặc biệt là các
ngành nghề trong các doanh nghiệp ở khu
công nghiệp như dệt may, chế biến lương thực,
thực phẩm,... thường có xu hướng sử dụng lao
động giản đơn, tay nghề thấp, chưa qua đào
tạo. Do đó, doanh nghiệp chủ yếu tuyển dụng
lao động nữ chưa qua đào tạo từ các vùng xa
khu trung tâm thành phố tới để tìm kiếm việc
làm. Và doanh nghiệp cũng không có nhu cầu
phải đào tạo lao động nâng cao tay nghề, thực
tế này vô hình chung đã làm hạn chế quyền
được “nâng cao trình độ nghề nghiệp” của lao
động nói chung. Đây cũng là một trong những
chỉ tiêu của Gia Lai bị đánh giá rất thấp theo kết
quả công bố chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
PCI năm 2018 của VCCI9.
3. Vài đề xuất góp ý trong dự thảo Bộ
Luật Lao động 2012 (sửa đổi)
Cần thống nhất quan điểm về hoàn thiện
pháp luật lao động đối với quyền về việc làm
của lao động nữ trên tinh thần sửa đổi Bộ luật
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ46
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G Lao động hiện hành theo hướng chuyển từ tư
duy “bảo vệ lao động nữ” sang “thúc đẩy bình
đẳng giới”. Tác giả cho rằng cần tập trung chủ
yếu vào những nội dung sau:
Một là, ghi nhận quyền tự do bình đẳng
trong tìm kiếm cơ hội việc làm, học nghề, nâng
cao kỹ thuật chuyên môn giữa lao động nam và
nữ. Nên loại bỏ quy định cấm sử dụng lao động
nữ với một số ngành nghề đặc thù, và sửa đổi
theo hướng cho phép lao động nữ tự quyết định
và lựa chọn lĩnh vực việc làm phù hợp với khả
năng, hoàn cảnh của họ.
Hai là, nghiên cứu chính sách và kinh
nghiệm của các quốc gia trên thế giới để áp
dụng tại thực tiễn Việt Nam về độ tuổi nghỉ
hưu giữa nam và nữ sao cho sát với thực tế và
vừa tiệm cận với quốc tế và phù hợp với Nghị
quyết 28-NQ/TW 2018 về cải cách chính sách
bảo hiểm xã hội: Từ năm 2021, thực hiện điều
chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ
hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong
quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề
đặc biệt, NLĐ được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc
muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung.
Ba là, bổ sung thêm các quy định trong
dự thảo nhằm tăng cường sự quản lý của cơ
quan nhà nước, đặc biệt là việc xử lý vi phạm,
áp dụng các chế tài cần thiết để răn đe NSDLĐ
khi vi phạm nghĩa vụ bảo vệ lao động nữ về
quyền có việc làm.
Chẳng hạn, quy định những biện pháp
nhằm kiểm soát thực hiện bình đẳng giới trong
tuyển dụng lao động. Đặc biệt từ khâu tuyển
dụng trong vấn đề công khai về giới tính, độ
tuổi nhất định, thậm chí trong khâu ký kết hợp
đồng lao động giữa NSDLĐ với lao động nữ
nhằm hạn chế những điều khoản có khả năng
gây bất lợi cho lao động nữ.
Bốn là, xây dựng cơ chế cộng đồng trách
nhiệm giữa Nhà nước và NSDLĐ trong việc thực
hiện các biện pháp bảo vệ lao động nữ, hướng
tới thúc đẩy bình đẳng giới.
Để giải quyết gánh nặng tiềm ẩn cho chủ
sử dụng lao động và giảm tối đa nguy cơ gây
nên tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ, cần
phải có một chính sách tổng thể và thực thi một
cách nghiêm túc. Chẳng hạn, việc miễn giảm
thuế, nên quy định được tính trên số lao động
nữ có ký kết hợp đồng lao động, có tham gia
bảo hiểm xã hội để tính tỷ lệ phần trăm giảm
thuế. Tương tự cũng có thể tính theo tỷ lệ lao
động nữ để áp dụng chính sách ưu đãi đối với
những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
nữ.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng về giới
tính cũng như tâm lý sinh lý của lao động nữ là
khác biệt với lao động nam, vô hình chung đã
làm cho lao động nữ trở thành đối tượng dễ bị
tổn thương hơn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
rằng lao động nữ đã và đang là một lực lượng
đông đảo trên thị trường lao động, góp phần
không nhỏ vào sự phát triển chung trong nền
kinh tế. Do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống pháp luật nhất là các quy định của Bộ
Luật Lao động trên cơ sở có tiếp thu và chọn lọc
các quan điểm về bảo vệ lao động nữ nói chung,
bảo đảm quyền về việc làm nói riêng trong các
Công ước quốc tế mà nước ta đã và đang tham
gia là cách hiệu quả nhất nhằm thúc đẩy bình
đẳng giới là hoạt động mang ý nghĩa rất thiết
thực trong giai đoạn hiện nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Lao động 2012;
2. Nghị định 85/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều của Bộ Luật Lao động về chính sách với lao động nữ;
3. Thông tư 26/2013/ TT-BLĐTBXH về danh mục công
việc không được sử dụng lao động nữ;
4. Nghị quyết 28-NQ/TW năm 2018 về cải cách chính
sách bảo hiểm xã hội;
5. Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh
Gia Lai về tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2018;
6. Báo cáo tình hình cung - cầu lao động Gia Lai năm 2017;
7. Báo cáo Kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2017 tỉnh
Gia Lai;
8.
asp?pid=95
9. https://news.zing.vn/co-noi-80-lao-dong-nu-tren-35-
tuoi-bi-buoc-nghi-viec-post779371.html
10. https://news.zing.vn/du-chieu-thai-loai-lao-dong-
tren-tuoi-35-post764795.html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7_6323_2207513.pdf