Tài liệu Báo cáo trường hợp lâm sàng: Hội chứng asherson: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 149
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG: HỘI CHỨNG ASHERSON
Đinh Hiếu Nhân*, Suzanne Monivong Cheanh Beaupha**
TÓM TẮT
Bệnh nhân nam, 40 tuổi nhập viện do đau bụng cấp. Bệnh nhân được chẩn đoán hoại tử ruột do
tắc động mạch mạc treo tràng trên, choáng nhiễm trùng. Điều trị cấp cứu bằng phẫu thuật và hồi sức
với kết quả thành công. Bệnh cảnh huyết khối nội mạch các hệ thống tĩnh mạch mạc treo tràng trên,
tĩnh mạch lách, tĩnh mạch thận, tĩnh mạch cữa, tĩnh mạch chi dưới, động mạch mạc treo tràng trên
xuất hiện cấp tính trong thời gian ngắn cùng với kết quả xét nghiệm lupus anticoagulant dương tính
đã gợi ý chẩn đoán hội chứng Asherson. Điều trị với thuốc kháng đông đường uống kéo dài có thể giúp
kiểm soát tình trạng tăng đông bất thường và cải thiện được tiên lượng.
Từ khóa: Hội chứng Asherson, Hội chứng kháng phospholipid.
ABSTRACT
A CLINICAL CASE REPORT: ASHERSON SYNDROME
Dinh H...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo trường hợp lâm sàng: Hội chứng asherson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 149
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG: HỘI CHỨNG ASHERSON
Đinh Hiếu Nhân*, Suzanne Monivong Cheanh Beaupha**
TÓM TẮT
Bệnh nhân nam, 40 tuổi nhập viện do đau bụng cấp. Bệnh nhân được chẩn đoán hoại tử ruột do
tắc động mạch mạc treo tràng trên, choáng nhiễm trùng. Điều trị cấp cứu bằng phẫu thuật và hồi sức
với kết quả thành công. Bệnh cảnh huyết khối nội mạch các hệ thống tĩnh mạch mạc treo tràng trên,
tĩnh mạch lách, tĩnh mạch thận, tĩnh mạch cữa, tĩnh mạch chi dưới, động mạch mạc treo tràng trên
xuất hiện cấp tính trong thời gian ngắn cùng với kết quả xét nghiệm lupus anticoagulant dương tính
đã gợi ý chẩn đoán hội chứng Asherson. Điều trị với thuốc kháng đông đường uống kéo dài có thể giúp
kiểm soát tình trạng tăng đông bất thường và cải thiện được tiên lượng.
Từ khóa: Hội chứng Asherson, Hội chứng kháng phospholipid.
ABSTRACT
A CLINICAL CASE REPORT: ASHERSON SYNDROME
Dinh Hieu Nhan, Suzanne Monivong Cheanh Beaupha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 149 - 156
A male patient, 40 years old admitted to hospital due to acute abdominal pain. Diagnosis was
intestinal necrosis from acute superior mesenteric thrombosis and septic shock. Emergency treatment
was operations and the results was successful. Clinical setting was acute intravascular thrombosis in
many vascular systems such as portal, lower limbs, splenic, mesenteric, renal vein and superior
mesenteric artery in2 days combined with positive lupus anticoagulant suggested for diagnosis of
Asherson syndrome. Treatment for during life-time with oral anti- coagulants can control abnormal
hypercoagulation status and improve prognosis.
Key words: Asherson syndrome, Antiphospholipid syndrome.
GIỚI THIỆU.
Hội chứng kháng phospholipid là một
bệnh lý liên quan đến rối loạn miễn dịch của
cơ thể được đặc trưng bởi huyết khối động
mạch và tĩnh mạch do kháng thể kháng
phospholipid. Hội chứng Asherson là một
bệnh cảnh đe doạ tính mạng hiếm gặp của
hội chứng kháng phospholipid (còn được
gọi là hội chứng phospholipid cực kỳ nặng –
catastrophic antiphospholipid syndrome),
xảy ra với tỉ lệ 1% so với hội chứng kháng
phospholipid, được Ronald Asherson mô tả
đầu tiên vào năm 1992 với biểu hiện huyết
khối nội mạch lan rộng xảy ra cấp tính trong
vòng 1 tuần lễ dẫn đến thiếu máu cục bộ cơ
quan và suy đa cơ quan. Đây là một bệnh
cảnh hiếm gặp, dễ bị bỏ sót chẩn đoándo
thường bệnh nhân nhập viện trong bệnh
cảnh cấp cứu với biểu hiện suy đa cơ quan.
Yếu tố liên quan đến bùng phát hội chứng
thường ít được chú ý đến do đó rất khó
kiểm soát được bệnh. Điều trị hội chứng
Asherson còn rất khó khăn và tỉ lệ tử vong
còn caohơn 50% các trường hợp(8,10,11).
Báo cáo trường hợp.
Phần hành chánh.
Bệnh nhân nam, sinh năm 1977
Địa chỉ: 266 Linh Trung, Phường Linh
*Bộ môn Nội Tổng quát – Bộ môn Dược lý học - Đại học Y Dược TP.HCM
**Bộ môn Huyết Học– Đại học Y Dược TpHCM; Khoa Huyết Học - Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. Đinh Hiếu Nhân ĐT: 0903649222 Email: dinhhieunhan@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 150
Trung, Quận Thủ Đức, TpHCM, Việt Nam.
Nghề nghiệp: Tài xế.
Nhập bệnh viện Đại học Y Dược TpHCM
– Cơ sở 1 vào ngày: 8/7/2017 lúc 24g.
Số hồ sơ: N17-0212805.
Số nhập viện: 17-0039644
Lý do vào viện
Đau bụng.
Bệnh sử
Bệnh khởi phát 2 ngày.
- Ngày 1: bệnh nhân đang lái xe đột ngột
đau vùng thượng vị kéo dài 1 ngày được nội
soi dạ dày cho kết quả bình thường, điều trị
không rõ nhưng không giảm đau.
- Ngày 2: Đau thượng vị liên tục, kèm
buồn nôn, sau đó kèm theo đi tiêu ra máu,
nhập Bệnh viện Thủ Đức lúc 23 giờ được
chẩn đoán: Hoại tử ruột do tắc mạch mạc
treo tràng trên và chuyển bệnh nhân sang
Bệnh viện Đại học Y Dược TpHCM – Cơ sở 1
cùng ngày.
Tiền căn
Huyết khối tĩnh mạch 2 chân > 10 năm,
điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy với Sintrom
(điều chỉnh liều theo INR) kéo dài 2 năm +
Daflon, sau đó ngưng Sintrom. 2 chân vẫn
còn sưng phù được điều trị bằng mang vớ
áp lực và Daflon.
Tiền căn gia đình: Chị bị đột quỵ nhũn
não – tăng huyết áp năm 49 tuổi.
Khám lâm sàng lúc nhập viện
Tỉnh tiếp xúc tốt, da xanh, niêm nhợt, vẻ
mặt nhiễm trùng.
Mạch 160 lần/ phút, Huyết áp : 95/70
mmHg (đang truyền Nor-Adrenalin)
Nhịp thở 24 lần/ phút. Nhiệt độ 37 độ C.
Nước tiểu =0 ml.
Chiều cao 162cm, Cân nặng 80Kg, BMI =
32
Đang tiếp tục đi tiêu ra máu đỏ bầm,
lượng nhiều.
Ống thông dạ dày ra dịch xanh rêu.
Bụng chướng, ấn đau khắp bụng, dấu đề
kháng thành bụng (+)
Tim đều nhanh 160 lần / phút.
Phổi không ran.
Phù 2 chân.
Kết quả cận lâm sàng
* Xét nghiệm máu(9/7/2017):
- Công thức máu:
Bạch cầu 29.710/mm3
Neutro 74,6%
Hb 15,1g/dL.
Hct 0,47 L/L
Tiểu cầu 119,000/mm3.
- Glucose: 121mg/dL
- Ure 54,53 mg/dL
- Creatinine: 2,31mg/dL.
- eGFR: 32 ml/phút/1,73m2.
- Điện giải đồ:
Na 141mmol/L
K 3,58 mmol/L
Cl 102 mmol/L
- AST 47 U/L ; ALT 46 U/L.
- Bilirubin toàn phần 21,47µmol/L ;
- Bilirubin trực tiếp 11,22 µmol/L
- CKMB 40 U/L
-hsTroponin I 56,34 ng/L
- Xét nghiệm đông máu:
Prothrombin Time 54,9 giây, INR 1,91
aPTT 45,8 giây (25-35 giây)
Tiểu cầu: 119.000/mm3.
- CRP 67,9 mg/L
- NT-proBNP 368,6pg/mL
- HBsAg (-), Anti HCV (-)
* Chẩn đoán hình ảnh:
- ECG: Nhịp xoang đều.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 151
- X quang tim phổi thẳng: Bình thường.
- Siêu âm tim: Bình thường. EF 67%.
- Siêu âm mạch máu chân: Huyết khối
bán phần tĩnh mạch sâu hai chi dưới từ tĩnh
mạch khoeo đến tĩnh mạch chậu ngoài và
tĩnh mạch hiển lớn hai bên gần chỗ nối với
tĩnh mạch đùi.
- Chụp cắt lớp điện toán vùng bụng có
cản quang:
Vùng giảm đậm độ hình chêm 1/3 dưới
lách, nghĩ nhồi máu.
Huyết khối gần hoàn toàn động mạch
mạc treo tràng trên.
Huyết khối bán phần tĩnh mạch mạc treo
tràng trên, tĩnh mạch cửa nhánh chính, một
phần tĩnh mạch cửa nhánh trái ngay gần vị trí
chia đôi, huyết khối tĩnh mạch thận trái.
Huyết khối hoàn toàn tĩnh mạch lách, tĩnh
mạch cửa nhánh phải.
Tĩnh mạch chủ dưới xẹp.
A/ B/
C/ D/
Hình 1. Kết quả CT Scan bụng có cản quang: Huyết khối tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch mạc treo tràng
trên và tổn thương cực dưới của lách.
* Xét nghiệm mô bệnh học: Bệnh phẩm
gồm 2 đoạn ruột dài khoảng 1cm.
Kết luận: Viêm loét ruột sung huyết, xuất
huyết từ niêm mạc đến thanh mạc.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 152
Hình 2. Kết quả giải phẫu bệnh xuất huyết từ niêm mạc đến thanh mạc ruột.
* Xét nghiệm chẩn đoán hội chứng
antiphospholipid (11/10/2017):
Định lượng kháng thể Beta2-
Glycoprotein I IgM : <1,1 U/mL
Cardiolipin IgG : âm tính (6,67GZ)
Cardiolipin IgM : âm tính (4,14GZ)
Lupus Anticoagulant
Lupus Anticoagulant Screen 49
Lupus Anticoagulant Screen Ratio 1,51
Lupus Anticoagulant Confirm 42,4
Lupus Anticoagulant Confirm Ratio
1,35
Lupus Anticoagulant 1,12
Kết luận: Có sự hiện diện của kháng
đông lupus ở nồng độ thấp.
7. Điều trị:
- Phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột non hoại
tử (Hình 3)
- Kháng sinh.
- Thuốc kháng đông: Heparin trọng
lượng phân tử thấp (Lovenox 0,6 ml x 2 lần
tiêm dưới da cách mỗi 12 giờ), khi bệnh
cảnh lâm sàng ổn định chuyển sang sử dụng
Sintrom với liều thuốc điều chỉnh theo INR
(Mục tiêu INR = 2-3).
* Xuất viện ngày: 7/9/2017.
* Khám hiện tại:
Tỉnh, tiếp xúc tốt.
Sinh hiệu: Mạch 80 lần/ phút, Huyết áp
120/70 mmHg.
Chiều cao 162cm, Cân nặng 61 Kg, BMI =
23,2 kg/m2.
Vết mổ lành tốt. Không phù. Không dấu
xuất huyết dưới da.
Niêm hồng.
Tim đều rõ. Phổi trong.
Bụng mềm. Không điểm đau khu trú.
* Điều trị hiện tại:
- Pradaxa 150mg x 2 lần / ngày.
- Dinh dưỡng theo chế độ điều trị của
chuyên khoa dinh dưỡng.
- Tái khám và theo dõi định kỳ (sau phẫu
thuật) tại chuyên khoa Ngoại Tiêu hoá, Tim
mạch và Dinh Dưỡng, Bệnh viện Đại học Y
Dược TpHCM – Cơ sở 1.
BÀN LUẬN
1. Chẩn đoán.
Bệnh nhân trẻ tuổi với tiền căn huyết khối
tĩnh mạch chi dưới hơn 10 năm, được điều trị
liên tục với thuốc chống đông kháng vitamin
K trong 2 năm sau đó. Yếu tố nguy cơ cho
bệnh lý huyết khối tĩnh mạch chi dưới trên
bệnh nhân là béo phì và nghề nghiệp phải
ngồi lâu một chỗ. Nguy cơ huyết khối tĩnh
mạch sâu chi dưới chưa được kiểm soát tốt
mặc dù đã được theo dõi và điều trị liên tục 2
năm. Đợt khởi phát bệnh lần này xảy ra đột
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 153
ngột với biểu hiện cấp tính của tắc các hệ
thống tĩnh mạch: tĩnh mạch chi dưới2 bên,
tĩnh mạch lách, tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch mạc
treo tràng trên, tĩnh mạch thận và động mạch
mạc treo tràng trên chỉ trong thời gian 2 ngày
đã đe doạ tính mạng bệnh nhân với bệnh cảnh
bụng ngoại khoa, tổn thương thận cấp, suy
chức năng gan, choáng nhiễm trùng nhiễm
độc. Bệnh cảnh huyết khối cấp tính xuất hiện
nhanh trong thời gian ngắn, tổn thương đa cơ
quan, đe doạ đến tính mạng bệnh nhân. Theo
tiêu chuẩn Sydney 2006 chẩn đoán hội chứng
kháng phospholipid(1,3), bệnh nhân có đủ 2 tiêu
chuẩn:
(1). Tiêu chuẩn lâm sàng: Huyết khối tĩnh
mạch nhiều vị trí và huyết khối động mạch.
(2). Tiêu chuẩn cận lâm sàng: Có sự hiện
diện của kháng đông lupus trong huyết thanh.
Tuy nhiên do bệnh cảnh xuất hiện cấp
tính, diễn tiến rất nhanh, huyết khối tĩnh
mạch nhiều vị trí và huyết khối động mạch
mạc treo tràng trên, đe doạ tính mạng bệnh
nhân nên được chẩn đoán là hội chứng
kháng phospholipid cực kỳ nghiêm trọng
(very extreme or catastropic
antiphospholipid syndrome) hay còn được
gọi là hội chứng Asherson.
Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng
Asherson(2,4,5,6):
(1). Huyết khối mạch máu ít nhất 3 cơ
quan, hệ thống hay mô.
(2). Triệu chứng xuất hiện nhanh trong
vòng 1 tuần lễ.
(3). Bằng chứng mô học huyết khối nội
mạch ít nhất ở 1 cơ quan, hay mô.
(4). Hiện diện của kháng thể kháng
phospholipid hai lần cách nhau 12 tuần lễ.
Chẩn đoán xác định hội chứng Asherson
cần cả 4 tiêu chuẩn trên.
Chẩn đoán có khả năng hội chứng
Asherson khi thỏa các nhóm tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn 2,3 và 4 nhưng chỉ liên
quan đến 2 cơ quan, hệ thống hay mô.
- 1,2 và 4.
- 1,3, và 4; và xuất hiện biến cố thứ 3 xảy
ra từ 1 tuần đến 1 tháng, bất chấp đã sử
dụng thuốc kháng đông.
- 1,2, và 3, nhưng không xác định trên
xét nghiệm kháng thể kháng phospholipid
thực hiện cách nhau 12 tuần lễ do bệnh
nhân tử vong nên không có xét nghiệm
trước đó.
Như vậy trên bệnh cảnh lâm sàng bệnh
nhân đã thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán của hội
chứng Asherson. Trên kết quả xét nghiệm
giúp xác định hội chứng kháng
phospholipid, bệnh nhân đã được thực hiện
cả 3 xét nghiệm: định lượng kháng thể
Beta2-Glycoprotein I IgM, Cardiolipin IgG
và IgM, Lupus Anticoagulant. Chỉ có xét
nghiện Lupus Anticoagulant cho kết quả
dương tính với ý nghĩa có sự hiện diện của
kháng đông lupus ở nồng độ thấp trong
huyết tương. Hai xét nghiệm còn lại cho kết
quả âm tính, tuy nhiên chỉ cần 1 xét nghiệm
cho kết quả dương tính cũng đủ giúp kết
luận chẩn đoán hội chứng kháng
phospholipid trong bệnh cảnh lâm sàng phù
hợp. Theo tiêu chuẩn chẩn đoán cần phải có
2 lần xét nghiệm các nhau 12 tuần lễ chokết
quả dương tính, nhưng trên bệnh nhân do
nhập trong bệnh cảnh rất nặng đe doạ tử
vong cần phải xử trí cấp cứu nên chưa thể
thực hiện xét nghiệm lúc nhập viện, các xét
nghiệm giúp chẩn đoán chỉ được thực hiện
sau khi bệnh nhân tạm ổn định. Kết quả xét
nghiệm lupus anticoagulant dương tính
thường gặp nhất trong bệnh cảnh hội chứng
kháng phospholipid, nhưng kết quả này
cũng có thể dương tính ở bệnh nhân có bệnh
lý lupus ban đỏ hệ thống hay bệnh lý tự
miễn, ung thư hay đang sử dụng một số
thuốc như phenothiazines, penicillin,
quinidine, hydralazine, procainamide, và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 154
fansidar. Bệnh cảnh lâm sàng của bệnh nhân
không phù hợp với các bệnh cảnh cần phân
biệt khi có xét nghiệm lupus anticoagulant
dương tính. Các xét nghiệm đánh giá về tình
trạng rối loạn đông cầm máu aPTT, PT, INR,
số lượng tiểu cầu được thực hiện ngay sau
khi nhập Bệnh viện Thủ Đức chưa được
điều trị thuốc kháng đông cũng như chưa
được truyền máu. Do đó những bất thường
về xét nghiệm aPTT kéo dài, PT kéo dài, INR
bất thường, số lượng tiểu cầu giảm ghi nhận
được chính là những rối loạn về đông máu
trong hội chứng kháng phospholipid. Phản
ứng viêm cấp trong bệnh cảnh cũng đã được
thấy qua kết quả xét nghiệm CRP tăng cao
trong máu(2,7,9).
Chẩn đoán hội chứng Asherson trên
bệnh nhân này đã bị chậm trễ do bệnh nhân
nhập viện trong bệnh cảnh cấp cứu suy đa
cơ quan và choáng nhiễm trùng-nhiễm độc.
Bệnh nhân chỉ được chẩn đoán là hội chứng
Asherson khi tái khám sau xuất viện từ
Khoa Ngoại Tiêu hóa – Bệnh viện Đại học Y
Dược TpHCM sau hơn 2 tháng điều trị, sự
chậm trễ trong chẩn đoán có thể do:
- Bệnh cảnh cấp cứu khi bệnh nhân nhập
viện.
- Bệnh cảnh hiếm gặp nên ít được chú ý
đến.
- Có thể lầm lẫn với bệnh cảnh đông máu
nội mạch lan tỏa sau nhiễm trùng.
Điều trị
Bệnh nhân đã được điều trị tích cực:
- Điều trị bệnh cảnh cấp cứu: do bệnh
cảnh hoại tử ruột do tắc mạch động mạch và
tĩnh mạch mạc treo tràng trên và choáng
nhiễm trùng – nhiễm độc đe dọa tính mạng
nên đã được phẫu thuật cấp cứu cắt bỏ đoạn
ruột non hoại tử (hình 3).
Song song với điều trị hồi sức tích cực,
thuốc kháng sinh, thuốc vận mạch, truyền
máu, truyền dịch v.v
Hình 3. Minh hoạ sau phẫu thuật cắt đoạn ruột
hoại tử.
- Điều trị huyết khối hệ thống mạch máu
bằng heparin trọng lượng phân tử thấp
(Lovenox) với liều 0,6ml x 2 lần, tiêm dưới da
cách mỗi 12 giờ. Khi bệnh nhân ổn định xuất
viện, được chuyển sang sử dụng thuốc kháng
đông kháng vitamin K (Sintrom) và điều chỉnh
theo kết quả xét nghiệm INR. Tuy nhiên khi
tái khám sau xuất viện, bệnh nhân ổn định
nhưng giá trị xét nghiệm INR không đạt
ngưỡng điều trị và khó kiểm soát nên bệnh
nhân đã được chuyển sang sử dụng thuốc
kháng đông đường uống thế hệ mới
Dabigatran (Pradaxa) 150mg x 2 lần mỗi ngày.
Theo các báo cáo gần đây trong điều trị
hội chứng Asherson, các chuyên gia đều cho
rằng việc điều trị cực kỳ khó khăn và tỉ lệ tử
vong còn cao khoảng 50% các trường hợp.
Các phương thức trong điều trị bao gồm:
thuốc kháng đông, thuốc ức chế miễn dịch
(Methylprednisolone 1000mg/ ngày trong 3
ngày hay có thể sử dụng kéo dài), thay
huyết tương, cyclophosphamide,
immunoglobulin tiêm tĩnh mạch, thuốc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 155
kháng tiểu cầu v.v(4,9). Tuy nhiên, do bệnh
cảnh cấp cứu nên bệnh nhân chỉ được sử
dụng thuốc kháng đông kèm với các biện
pháp điều trị cấp cứu, hồi sức cho bệnh
nhân. Khi bệnh cảnh ổn định, bệnh nhân
được sử dụng thuốc kháng đông đường
uống để tiếp tục kiểm soát tình trạng tăng
đông bất thường. Trong thời gian điều trị và
theo dõi sau xuất viện, bệnh nhân diễn tiến
ổn định.
Mặc dù được chẩn đoán hội chứng
Asherson trễ, nhưng do trong thời gian nằm
viện bệnh nhân đã được điều trị với thuốc
kháng đông đường tiêm và đường uống nên
đã kiểm soát được tình trạng tăng đông bất
thường. Sau khi xuất viện bệnh nhân được
theo dõi và điều trị ngoại trú bằng thuốc
kháng đông đường uốngvà khuyến cáo nên
điều trị kéo dài suốt đời.
3. Yếu tố khởi phát.
Bệnh cảnh lâm sàng của hội chứng
kháng phospholipid đa dạng, có thể biểu
hiện ở các cơ quan khác nhau như thận,
phổi, hệ thần kinh trung ương, tim, da,
đường tiêu hoá, gan, tĩnh mạch, đông mạch,
lách, tuỵ, tuyến thượng thận v.vTuổi
trung bình thường gặp khoảng thập niên 30
(11 – 60 tuổi), xảy ra ở nữ nhiều hơn nam.
Một số yếu tố có thể thúc đẩy xuất hiện hội
chứng Asherson như nhiễm trùng, tương tác
thuốc, thai kỳ, phẫu thuật, ngưng thuốc
kháng đông, ung thư. Do vậy cần phải chú ý
đến chẩn đoán hội chứng kháng
phospholipid trong những bệnh cảnh huyết
khối nội mạch bất thường, không tìm được
nguyên nhân, không có yếu tố nguy cơ, tái
phát. Điều trị còn nhiều khó khăn, cần được
theo dõi suốt đời, cần kiểm soát tốt các yếu
tố có thể khởi phát hội chứng Asherson.
Thuốc kháng đông là một trong những
phương thức điều trị nền tảng và quan
trọng nhất(6,10,12).
KẾT LUẬN
Hội chứng Asherson là một thể bệnh
trầm trọng hiếm gặp, đe doạ tử vong của hội
chứng kháng phospholipid. Chẩn đoán
thường bị bỏ sót do bệnh cảnh cấp cứu khi
vào viện, do đó cần chú ý đến những trường
hợp tắc mạch nhiều nơi, tắc mạch tái phát
nhằm hướng đến chẩn đoán sớm và điều trị
tích cực để có thể cải thiện được tiên lượng.
Chú ý đến những yếu tố khởi phát hội
chứng có thể giúp phòng ngừa xuất hiện đợt
bùng phát. Điều trị bằng thuốc kháng đông
là một trong những điều trị nền tảng, quan
trọng nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agnieszka F, Ewa KL, Wioletta G, Jerzy W, Magdalena
D (2009) “Catastrophic antiphospholipid syndrome”,
Pol Arch Med Wewn,119(6):427-430.
2. Ali N, Luis MO (2014) “Catastrophic antiphospholipid
syndrome: a clinical review” J Nephropathol; 3(1): 9–17.
3. Asherson RA (1992) “The catastrophic
antiphospholipid syndrome” J Rheumatol,19: 508–512
4. Asherson RA (2004) “The catastrophic
antiphospholipid (Asherson's) syndrome in 2004—a
review”, Autoimmun Rev,4: 48–54.
5. Carmi O, Berla M, Shoenfeld Y, Levy Y (2017)
“Diagnosis and management of catastrophic
antiphospholipid syndrome”, Expert Rev Hematol,
10(4):365-374. doi: 10.1080/17474086.2017.1300522.
Epub 2017 Mar 13.
6. CostedoatCN, Coutte L, Guern V, Morel N, Leroux G,
Paule R, Mouthon L, Piette JC (2016) “2016 review on
catastrophic antiphospholipid syndrome”, Presse Med,
45(12 Pt 1):1084-1092. doi: 10.1016/j.lpm.2016.07.023.
Epub 2016 Sep 9.
7. Gerard E, Silvia B, Ricard C, et al, “Laboratory studies
on pathophysiology of the catastrophic
antiphospholipid syndrome” Autoimmunity Reviews,
Volume 6, Issue 2, December 2006, Pages 68-71.
8. Joan TM, Asherson RA (2006), “Catastrophic
antiphospholipid syndrome” Nature Reviews
Rheumatology, 2, 81–89. doi:10.1038/ncprheum0069.
9. Luci MS, Fernanda DE, Letícia GF, Danyelle RAR,
Sandra CA, Milena SM (2014), “Antiphospholipid
syndrome: a clinical and laboratorial challenge” Rev
Assoc Med Bras, 60(2):181-186.
10. Rodriguez PI, Espinosa G, Cervera R (2016)
“Catastrophic antiphospholipid syndrome: The
current management approach”, Best Pract Res Clin
Rheumatol, 30(2):239-249. doi:
10.1016/j.berh.2016.07.004. Epub 2016 Sep 12.
11. Sciascia S, Lopez PC, Roccatello D, Cuadrado MJ
(2012) “Catastrophic antiphospholipid syndrome
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 156
(CAPS)” Best Pract Res Clin Rheumatol, 26(4):535-41.
doi: 10.1016/j.berh.2012.07.005.
12. Vieregge GB, Harrington TJ, Andrews DM, Carpintero
MF, Green DF, Nayer A (2013), “Catastrophic
antiphospholipid syndrome with severe acute
thrombotic microangiopathy and hemorrhagic
complications”,Case Rep Med, 2013:915309. doi:
10.1155/2013/915309.
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo:22/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_truong_hop_lam_sang_hoi_chung_asherson.pdf