Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong phát triển kinh tế xã hội: Báo cáo tốt nghiệp
Vai trò của doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Việt Nam trong phát
triển kinh tế xã hội
CHƯƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái
niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và
cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh
nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự
phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước tiên
vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn
đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng
chương trỡnh phỏt triển khỏc nhau.
Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công
văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ
và vừa là doanh nghi...
56 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong phát triển kinh tế xã hội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
Vai trò của doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Việt Nam trong phát
triển kinh tế xã hội
CHƯƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái
niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và
cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh
nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự
phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước tiên
vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn
đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng
chương trỡnh phỏt triển khỏc nhau.
Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công
văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ
và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh
doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và
USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng
một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục vụ
cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép
phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vỡ vậy, tiếp theo đó Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và
vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng
ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bỡnh hàng năm không
quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9
nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh
nghiệp nhỏ.
2.Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và
quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh
nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí
định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên
môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp...
Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng
thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở
để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực
tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá
trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
Số lao động: có thể lao động trung bỡnh trong danh sỏch, lao động
thường xuyên, lao động thực tế;
Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn)
cố định, giá trị tài sản cũn lại;
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm
(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao
động. Cũn một số tiờu chớ khỏc thỡ tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ
mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Trỡnh độ phát triển kinh tế của một nước: trỡnh độ phỏt triển càng
cao thỡ trị số cỏc tiờu chớ càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có
400 lao động ở Việt Nam không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng
lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở một số nước có trỡnh độ phát triển
kinh tế thấp thỡ cỏc chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa
và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
Tớnh chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử
dụng nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng
nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so
sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong
thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm
ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khỏi niệm
hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
Vựng lónh thổ: do trỡnh độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy
mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để
đảm bảo tính tương thích trong việc so sỏnh quy mụ doanh nghiệp giữa cỏc
vựng khỏc nhau.
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
TÊN NƯỚC TIấU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
ÚC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
MỸ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
NHẬT
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ
ĐÀI LOAN
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ
- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu,
dưới 50 LĐ
(Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web trên mạng)
Tớnh lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng
với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ.
Như vậy trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng
trưởng quy mô doanh nghiệp trung bỡnh (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này
chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỡ khỏc
nhau.
Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau
tuỳ theo mục đích công việc phân loại.
Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc
một ngành hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau:
F(Sba) = Ib* Ia*Sa/ Id
Trong đó:
F(Sba): quy mụ một doanh nghiệp thuộc một ngành và trờn một lónh thổ
cụ thể.
Ib,Ia,Id: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh
nghiệp;
Sa : quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
Cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ cú vai trũ quan trọng trong nền kinh tế một
quốc gia, khu vực và toàn cầu. Cỏc ưu thế và nhược điểm của loại hỡnh
doanh nghiệp này sẽ được trỡnh bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhỡn
sõu vào bản chất của loại hỡnh này, cho phộp ta định ra hướng đi rừ ràng
trong việc xác định hướng phát triển cho loại hỡnh này.
3.Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cú những lợi thế rừ ràng, đó là khả năng
thoả món nhu cầu cú hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh
hướng sử dụng nhiều lao động với trỡnh độ lao động kỹ thuật trung bỡnh
thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các
nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước
vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của cỏc doanh nghiệp lớn (do
quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất,
những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn
không đáp ứng vỡ mối quan tõm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng
lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hỡnh sản xuất cú địa điểm sản xuất
phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén
với thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng khụng lớn, các
điều kiện sản xuất đơn giản là đó cú thể bắt đầu hoạt động. Vũng quay sản
phẩm nhanh nờn cú thể sử dụng vốn tự cú, hoặc vay bạn bố, người thân dễ
dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng
thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cảu nó, doanh nghiệp có
thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển
đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén
trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống
động trong phát triển kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro
cao.
Đó là bởi vỡ cỏc doanh nghiệp loại này cú mức vốn đầu tư nhỏ, sử
dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong
trường hợp thất bại thỡ cũng khụng bị thiệt hại nặng nề như các doanh
nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về
quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây
chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh
doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu
quả với chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản
cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho
phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế
vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý cỏc nguồn
lực của mỡnh, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế
- xó hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có
sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Khụng cú hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người
lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số
lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động
trong xí nghiệp chưa quá mức rừ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động
và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thỡ dễ dàn
xếp.
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cỏc hạn chế của loại hỡnh doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các
hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính
các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm
của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm
vào tỡnh trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay
tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp
mà nó cung cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc
biệt là các công nghệ đũi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp,
thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản
phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không
đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao
được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngÆcác doanh nghiệp
vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập
và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương
doanh nghiệp đó đang hoạt động.
- Cũng do tớnh chất vừa và nhỏ của nú, SMEs gặp khó khăn trong
thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường
5. Vai trũ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Tạo ra nhiều việc làm với chi phớ thấp
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương
pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết
thất nghiệp hiệu quả nhất
Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp
loại này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho
nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu,
vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trỡnh
độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần
giảm dũng người chuyển về thành phố tỡm việc làm.
Thứ hai, do tớnh linh hoạt, uyển chuyển dễ thớch ứng với các thay
đổi của thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có
biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không
phải vỡ cấp quản lý bất tài mà bởi vỡ doanh nghiệp lớn thỡ khú xoay trở
nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải
bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được
trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể
thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao
động.
Bảng : Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước Châu Á
TÊN NƯỚC THU HÚT LAO ĐỘNG
(%)
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
(%)
Singapore 35.2 26.6
Malaysia 47.8 36.4
Hàn Quốc 37.2 21.1
Nhật Bản 55.2 38.8
(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động
của tự do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh,
1996)
b. Cung cấp cho xó hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất
lượng, số lượng và chủng loại
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động
và tài nguyên của xó hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh
tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung
thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có
nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường
nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vỡ doanh thu từ đó quá nhỏ.
c. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh
Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn
làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường
vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ
trong việc thử sức của mỡnh. Bờn cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói
chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoft của tỷ
phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn
cũn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp
riêng của mỡnh. Chưa đầy 30 năm sau đó trở thành người giàu nhất thế giới,
là một điển hỡnh của người làm giàu dựa vào năng lực của mỡnh.
Cỏc cụng ty nhỏ là cũn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các
công ty lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý
rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh Quan hệ với khỏch hàng
Kiểm soỏt và quản lý nhõn viờn Quy định xuất nhập khẩu
Quản lý thời gian Công nghệ thông tin hiện đại
Điều hành văn phũng Các quy định về thuế
Hậu cần Hệ thống cung cấp và phõn phối
Bỏn hàng và tiếp thị Luật lệ cụng ty
Xỳc tiến sản phẩm và dịch vụ Bỏn hàng
Định giá và lợi nhuận Quan hệ với quan chức chớnh phủ
Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào
tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực
hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh
nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu nhận.
d. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương
Nhỡn chung cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phương nào
đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các
doanh nghiệp loại đó được mở ra thỡ người dân lao động ở địa phương có
công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư
của địa phương đó được bổ sung.
e. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của
các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vỡ một nguyờn nhõn đơn giản là quy mô
của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thỡ
quỏn tớnh của nú càng lớn. Cũng vậy, cỏc đơn vị kinh tế càng to lớn thỡ
càng thiếu tớnh linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là
sức ỡ càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài
nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không
bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền
kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên
“nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ
được nâng cao.
f. Cải thiện mối quan hệ giữa cỏc khu vực kinh tế khỏc nhau
g. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng
trưởng kinh tế
Một nền kinh tế bao giờ cũng cú “vựng biờn giới”, “vùng sâu”, “vùng
xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc cỏc thị trường có quy mô nhỏ, kém phát
triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường
bỏ qua các khu vực đó vỡ cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng
nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là
chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp
lớn thỡ điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng,
không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thỡ chi phớ cơ hội của các vùng này là chấp nhận
được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vỡ vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây
nếu có các chính sách ưu đói thớch hợp của chớnh quyền địa phương.
h. Giữ gỡn và phỏt huy cỏc ngành nghề truyền thống, thể hiện bản
sắc dõn tộc
Trong quỏ trỡnh hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền
thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ
công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có
thể đóng những đôi giày rất bền dùng được hàng năm không hỏng . Nhưng
trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm
không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ công. Một
thợ thủ công hay vài người thỡ khụng thể đương đầu được với các doanh
nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành
lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tỡm đến các khách hàng
tiềm năng của các sản phẩm thủ công. Trong xó hội luụn tồn tại nhu cầu đối
với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó
biết đến sản phẩm của mỡnh.
Loại hỡnh doanh nghiệp vừa và nhỏ cú thể núi là rất thích hợp cho
sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản
xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần
tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xẩy ra
trong thời đại công nghiệp.
Cụ thể hơn ta hóy hỡnh dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày
hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ
chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng
trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này Æcầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng
được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo
trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian
các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước
liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu
dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các
nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho
việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hỡnh sản phẩm trước,... Trong
quá trỡnh phỏt triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công
nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách
hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức
của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.
6. Phỏp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Bảng : Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tờn của luật và
chớnh sỏch Luật bị thay thế Nội dung chớnh
Nghị định số 90/NĐ-
CP về chính sách trợ
giúp phát triển các
doanh nghiệp nhỏ và
vừa (2001)
Nghị định đưa ra một chính sách đặc biệt
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chính
sách hỗ trợ bổ sung cho phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Luật Doanh nghiệp
(1999)
Luật Công ty và
Luật Doanh
nghiệp tư nhân
(21-12-1990),
Nghị định số
66/HĐBT ngày 2-
3-1992 cho các
hộ kinh doanh cá
thể
Luật Doanh nghiệp 1999 và Nghị định số
02/2000 hướng dẫn việc thực thi Luật
Doanh nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp lý
hiện đại đầu tiên cho tất cả các doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh trong nước:
Luật quy định việc thành lập các công ty
qua việc đăng ký kinh doanh tự giỏc, hơn
là thông qua phê chuẩn và cấp phép của
chính phủ.
Luật Phỏ sản Doanh
nghiệp (1993)
Luật quy định cơ sở để đánh giá các doanh
nghiệp bị phá sản, các thủ tục yêu cầu và
tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Luật Thuế giá trị gia
tăng
Luật Thuế doanh
thu
Luật này xác định mức thuế giá trị gia tăng,
là mức thuế tính trên giá trị hàng hoá và
dịch vụ trong quỏ trỡnh sản xuất, lưu thông
và tiêu dùng.
Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp (1999)
Luật Thuế lợi tức Các đối tượng chịu thuế thu nhập của
doanh nghiệp được quy định bởi luật này là
thu nhập của tổ chức và cá nhân có hoạt
động sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ thuế
thu nhập của doanh nghiệp theo quy định
của Luật là 32 % ngoại trừ một số trường
hợp đặc biệt.
Bộ luật Lao động
(1999), Nghị định
77/2000/NĐ-CP có
hiệu lực từ ngày 1-1-
2001
Bộ luật Lao động điều chỉnh các mối quan
hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức lương
tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam là 210 000 VNĐ
Luật khuyến khích đầu
tư trong nước (1994)
Xác định những ưu đói đầu tư trong nước
vào các vùng có khó khăn về kinh tế-xó hội
và cỏc hoạt động kinh tế chiến lược, bao
gồm về đầu tư tạo nhiều việc làm mới.
Luật Thương mại
(1997)
Văn bản luật pháp quy định hoạt động
thương mại tại Việt Nam
Sắc lệnh về hợp tác
chuyển giao công nghệ
(1998). Nghị định
45/1998/NĐ-CP
Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho hoạt động
chuyển giao công nghệ, quy định những
chi tiết của việc chuyển giao công nghệ.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN TẠI VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ
khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường
khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính
là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm
chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống
trị của thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh
nghiệp mà lúc đó là các cơ sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào
các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng
giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng cũng đáp ứng được nhu
cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ, thậm chí
nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy
giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả
nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn
tại cả ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã
đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa
đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây
dựng lại đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất
nhanh và nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối
chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích
phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân thì bị loại trừ,
trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII.
Điểm đáng lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế
tư nhân là hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân
buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không
khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác
như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một
bước ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác
nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi
trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản
xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ,
thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể,
doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là
Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định
27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình;
Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công văn số
681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát
triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư
nhân mà nay hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999),
Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư
trong nước(1994), Luật đầu tư nước ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và
nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư
(MPI), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương
mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã
Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính
sách hỗ trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế,
các dự án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện
Friedrich Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật
bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng
hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án Mekong về
DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục
đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy
Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất
lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ
DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội(
HASMEC) ở số 418 Bạch Mai…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp
không ít những khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển kinh tế của đất nước, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND
ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy
định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm
quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ
còn giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa
phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách
phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và
phê duyệt .
Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch - Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển
DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN” làm nhiệm
vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích
phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc
các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm
thực hiện các chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả;
khuyến khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh
nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển
khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp
một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị
mở rộng thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN
trong khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực
tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng
lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu tư xã
hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư nhân cũng có
nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư
tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế
tiêu cực, là tàn dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư
nhân thực sự đã được coi là “một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế Việt nam”.
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư
nhân và hộ cá thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước
ngoặt thứ nhất có thể xem như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập
niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước
ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật doanh
nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của
nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999,
mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại
diện cho các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các
doanh nghiệp tư nhân, số lượng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng
góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư phát triển mức độ đóng góp
vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo bảng dưới đây.
Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức
riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư
nhân có thể xem như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm
các DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu
nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
Bảng : Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân
(Đại diện cho các DNVVN).
Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân
évt 1996 1997 1998 1999 2000
1. Số lượng đơn vị
1.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN 20.272 21.032 20.578 22.767 29.519
- Cụng nghiệp DN 5.832 6.073 5.927 6.049 6.979
- Thương nghiệp dịch vụ DN 12.695 13.010 12.494 14.234 17.506
- Cỏc ngành khỏc DN 1.745 1.949 2.157 2.484 5.034
1.2. Hộ cỏ thể hộ 2.016.259 1.949.836 1.981.306 2.054.178 2.137.713
- Cụng nghiệp hộ 616.855 608.250 583.352 608.314 645.801
- Thương nghiệp dịch vụ hộ 1.102.619 1.022.385 1.058.542 1.088.606 1.109.293
- Cỏc ngành khỏc hộ 296.785 319.201 339.412 357.258 382.619
2. Lao động
- Tổng số người 3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động xó
hội
% 11,2 10,3 10,3 10,9 12
2.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN 354.328 395.705 435.907 539.533 841.787
- Cụng nghiệp DN 233.078 252.657 273.819 322.496 498.847
- Thương nghiệp dịch vụ DN 60.936 63.050 62.470 96.720 151.433
- Cỏc ngành khỏc DN 60.314 79.998 99.618 120.317 191.507
2.2 Hộ cỏ thể DN 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
- Cụng nghiệp DN 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ DN 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391
- Cỏc ngành khỏc DN 454.489 479.214 575.532 592.273 595.285
3. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP)
- Tổng số toàn quốc
tỉ
đồng
272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
Trong đó doanh nghiệp của tư
nhân và cá thể
tỉ
đồng
77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
Tỷ lệ trong tổng GDP toàn quốc % 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
3.1 Doanh nghiệp tỉ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
đồng
- Cụng nghiệp
tỉ
đồng
4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ
đồng
7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
- Cỏc ngành khỏc
tỉ
đồng
7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
- Tỷ lệ trong tổng GDP % 7,21 6,44 7,01 6,99 7,14
3.2 Cỏ thể
tỉ
đồng
57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
- Cụng nghiệp
tỉ
đồng
9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ
đồng
17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
- Cỏc ngành khỏc
tỉ
đồng
31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
- Tỷ lệ trong tổng GDP % 21,28 20,90 20,31 19,52 19,72
4. Vốn đầu tư phát triển
- Tổng số toàn xó hội
tỉ
đồng
131.171 147.633
Trong đó: Doanh nghiệp của tư
nhân và cá thể
tỉ
đồng
31.542 35.894
Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó hội % 24,05 24,31
4.1 Doanh nghiệp của tư nhân
tỉ
đồng
5.628 6.627
% Trong tổng số toàn xó hội % 4.29 4.49
4.2. Cỏ thể
tỉ
đồng
25.914 29.267
Tỷ lệ trong tổng số toàn xó hội % 19,76 19,82
Nguồn: Tổng cục Thống kờ
Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban
hành vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có
hiệu lực có 14.417 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký
đến hơn 24.000 tỷ (tương đương với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn
đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang
hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lượng doanh nghiệp và hộ
kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm
2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh
nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các
doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm
2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như sau:
Bảng : Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến
năm 2001
Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001
Loại DN 31/12/98 31/12/99
Tổng
số
đăng
ký
Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Tổng
số
đăng
ký
Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Cty TNHH 9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804
Cty cổ phần 582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58
DNTN 18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466
Tổng số 28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743 2.328
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử
kinh tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế,
trong đó phần lớn tập trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh
vực công nghiệp, các DNVVN trong thương mại dịch vụ và các DNVVN
hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể các doanh
nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên.
1. DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc
doanh trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lượng DNVVN
cũng tăng dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ
Miền Nam Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm
12,6% tổng số các DNVVN trong công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại
ở 4 nhóm ngành chính sau là
+ Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời
gian qua đã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa
đã hình thành, những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các
mặt hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và
văn hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún,
quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trường xuất khẩu rất khó khăn
đòi hỏi phải tìm được những phân đoạn thị trường ngách.
+ Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: như khoáng sản,
hải sản, lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam nói chung, DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-
đây là thực trạng cần được đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lược
cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia
hội nhập bằng tài nguyên khai thác một mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái
tạo bị suy kiệt, ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
+ Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội
trong việc tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hưởng chủ yếu mới chỉ
dừng lại ở giá trị gia công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ
đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều
rủi ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế.
+ Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử,
hóa chất, thiết bị đo lường, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại
nhóm ngành này còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư tài chính, công nghệ kỹ
thuật và trình độ quản lý của nước ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công
nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành này, bởi không chỉ
lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lược lâu dài
của quá trình hội nhập cần được đặc biệt quan tâm. Chúng cần được phân
công và hợp tác một cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất
nguồn lực vào quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công
nhân< 100 người( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì
trong lĩnh vực sản xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động.
Trong lĩnh vực xây dựng là 51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh
nghiệp Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ
thấp.
Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu
công nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản
phẩm mới cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà
nước cũng như ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nướ ngoài) tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm.
Trong đó, bộ phận bộ phận DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị
sản lượng công nghiệp.
Bảng : Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1998
Doanh nghiệp trong công
nghiệp
Tổng số
(Tỷ đồng)
Ước tính phần của DNVVN trong
từng loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
trong công nghiệp
69.588,4 20% 12.917,7
Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
33.148,2 60% 19.888,9
Doanh nghiệp có vốn nước
ngoài
47.948,0 5% 2.397,4
Tổng 150.684,6 31% 46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn
Đình Hương chủ biên-NXB chính trị quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trưởng sản xuất
công nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trước
(tốc độ tăng trởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%,
khu vực nhà nước là 11,7%, khu vực nước ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy
tình hình đóng góp của các DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng đầu năm 2002 như sau:
Bảng : Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng
sản lượng công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thực hiện (Tỷ đồng)
7 tháng đầu
năm 2002
ước tính
tháng 8/2002
Cộng dồn 8
tháng đầu
năm 2002
Thỏng
8/2002 so
với thỏng
8/2001
8 tháng đầu
năm 2002 so
với cùng kỳ
2001 (%)
Tổng số 149219 23636 172855 114.2 114.0
Phõn theo khu vực và thành phần kinh tế
Khu vực doanh nghiệp
Nhà nước
59798 9379 69177 111.1 111.7
Trung ương
Địa Phương
39634
20164
6212
3617
45846
23331
111.7
109.7
112.6
110.2
Khu vực ngoài quốc
doanh
35846 5792 41638 119.6 119.2
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
53575 8465 62040 114.2 113.1
Dầu mỏ và khí đốt 15402 2100 17502 87.7 96.1
Cỏc ngành khỏc 38173 6365 44538 126.8 121.6
Nguồn
Về thị trường: Một thị trường nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là
cơ hội rất tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu
tràn lan như hiện nay thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói
chung và các DNVVN trong công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo
nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và cạnh tranh với cả
doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị
trường chưa cao, chất lượng sản phẩm hạn chế .
Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc
tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc
gia đang phát triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh
nghiệm giữa Việt nam và các nước không ngừng được tăng cường và củng
cố. Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các nước về phát triển lĩnh vực
DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật…Ngày 22/5/2000, tại Hà
nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp - kinh
nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện
của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ
với Việt nam những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển
DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của
Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực
công nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm
xúc tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên
minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia
(Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000
EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo
ra một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của
Việt nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần
thiết về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn
của các nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU.
2. DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn
đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trường đa
dạng...đã và đang thu hút được một số lượng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị
trường tài chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có,
hoặc vay mượn của ban bè, người thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất
nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình
trạng chung của các DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến nguồn vốn
của ngân hàng.
Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các
DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ lại không hoàn toàn như vậy. Xuất phát từ tính đặc thù
của ngành thương mại dịch vụ là ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN
chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lượng lao động dư
thừa nhiều ở nước ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy
chưa phải là cao nhưng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN
trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998
thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra
doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các
DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng
407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù
doanh thu rất cao nhưng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN
công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ tập trung quá đông ở các
thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty
đi sâu chuyên doanh mặt hàng ngành hàng nhưng vẫn còn trùng lặp. Một số
các công ty thực hiện chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh
doanh tổng hợp.
Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản
lí chồng chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả
kinh doanh thấp. Hoạt động của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp
tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN
tại cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh.
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trưng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là
trong chiến lược phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì vai trò của các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan
trọng. Bộ mặt của các DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do
UNDP tài trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành
nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11 triệu lao động
phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lượng,
90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh
nghiệp hộ gia đình và các doanh nghiệp tư nhân
Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối so với
các DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn
đề xã hội - NXB Khoa học và Kỹ thuật , Hà nội , 1998 thì :Với doanh
nghiệp hộ gia đình vốn bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp tư nhân thì
là 2.153 USD, vốn thấp không chỉ hiểu là như cầu về vốn ở các DNVVN
khu vực nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ trợ tín dụng.
Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Thị trường chủ yếu được phân
làm hai loại là thị trường địa phương và thị trường ở các thành phố lớn.
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn,
nhằm bắt tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày
16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội thành lập “ Hiệp hội các DNVVN khu vực
nông thôn Việt nam” do VCCI tổ chức đã khai mạc với sự tham gia của hơn
100 DNVVN khu vực nông thôn. “Hiệp hội các DNVVN khu vực nông
thôn” ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề
nông thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên
cứu khoa học, thông tin kinh tế, thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư, thúc
đẩy quan hệ hợp tác thương mại trong nước và quốc tế, giữ gìn và phát triển
các làng nghề truyền thống, đầu tư thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng
cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm
kỳ 2002-2007, tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến như thông tin kinh tế,
trao đổi góp ý về các cơ chế, chính sách, đào tạo và tư vấn, tổ chức phát
triển DNVVN ở các địa phương, tạo nhịp cầu giao thương phát triển.
II. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH VĨ MÔ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC DNVVN
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và
phát triển của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trường hành
lang pháp lý cho hoạt động của các DNVVN. Dưới đây là những nét chính
khái quát về ảnh hưởng của một số chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát
triển của DNVVN Việt nam.
1. Tác động của chính sách thương mại
Trước hết, về vấn đề khởi sự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, các DNVVN cũng đã được “cởi trói” qua quy định mới về việc tiến
hành đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp được quy định tại Luật
doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999,
có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp
theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng ký kinh
doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi
thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị
trường, việc giám sát kiểm tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng
ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các
ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối với một số ngành nghề như Ngân hàng,
Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối
thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp.
Kế đó, sự đổi mới chính sách thương mại theo hướng “mở cửa”,
không ngừng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cường
thu hút vốn đầu tư nước ngoài với chiến lược vốn đầu tư trong nước có vai
trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đã là một trong
những nhân tố quyết định trong đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào tình
hình đổi mới kinh tế ở Việt nam trong những năm gần đây.
Chính sách thương mại của Việt nam đã đạt được những tiến bộ đáng
kể trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thương mại
có hiệu lực từ 1-1-1998 và nghị định số 57/CP hướng dẫn thi hành Luật
Thương mại ngày 31/7/1998 đã cải thiện đáng kể các điều kiện tiếp cận
thương mại quốc tế của các DNVVN. Thêm vào đó là việc tham gia vào
hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới như
ASEAN(1995), APEC(1998)…và đặc biệt là ký được Hiệp định thương mại
song phương với Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đường cho việc gia nhập
WTO đã được cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp cải tổ thương mại theo
hướng tự do hơn, hội nhập hơn cũng là những thuận lợi và cũng là chứa
đựng những thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp nói chung và
DNVVN nói riêng.
a. Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN được cải
thiện theo cơ chế thông thoáng hơn.
Điều kiện tham gia hoạt động xuât nhập khẩu đã thực sự được mở ra
cho tất cả các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Nghị định
57/CP đã cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu trong phạm vi kinh doanh đã đăng ký mà không cần phải có giấy
phép xuất nhập khẩu. Có thể xem đây là một bước tiến tích cực của Việt
nam trong quá trình tự do hoá thương mại.
Trước đó, Theo quy định của Nghị định 33/TTG của Thủ tướng chính
phủ về quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ban hành ngày
19/4/1994, các DNVVN muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải
có giấy phép mà muốn có giấy phép thì phải đáp ứng các điều kiện như:
Thứ nhất, phải là một pháp nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành và hoạt động đúng theo phạm vi hoạt động kinh doanh đã
đăng ký.
Thứ hai, mức vốn lưu động không được dưới 200.000 USD vào thời
điểm đăng ký kinh doanh, trừ những doanh nghiệp ở miền núi và ở những
vùng kinh tế khó khăn khác, hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực xuất khẩu được khuyến khích đòi hỏi mức vốn thấp. Trong những
trường hợp đó, số vốn lưu động phải tương đương 100.000 USD.
Thứ ba, có bằng chứng xác nhận rằng doanh nghiệp có đội ngũ nhân
viên có đủ khả năng thích hợp để ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại
thương.
Thêm vào đó, trước khi Nghị định 57/CP được ban hành thì các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân muốn được thành lập như tổ chức xuất
nhập khẩu thì phải có giấy phép của Thủ tướng Chính phủ theo Điều 11 của
Luật công ty.
Rất nhiều các DNVVN không đáp ứng được các điều kiện kể trên và
chỉ có thể xuất khẩu các sản phẩm cuả mình thông qua một công ty được
phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc phải trả cho công ty xuất
nhập khẩu trung gian này một khoản phí thông thường là từ 0,5% đến 1%
giá trị hợp đông xuất nhập khẩu, Các DNVVN còn phải chịu thêm rủi ro khi
tiết lộ thông tin quan trọng và bí mật về các hợp đồng ngoại thương và họ
thậm chí còn bị các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu đó chiếm mất đối
tác nước ngoài.
Nghị định 57/CP chỉ yêu cầu các DNVVN phải tiến hành hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng
ký.Với một số lượng lớn các công ty có khả năng tham gia trực tiếp vào
thương mại quốc tế thì những chi phí và khó khăn trong giao dịch sẽ được
giảm đáng kể. Đến ngày 2/8/2001 thì tất cả mọi pháp nhân ( doanh nghiệp
và cá nhân) đã được xuất khẩu hầu hết mọi hàng hoá mà không phải xin
phép qua việc Chính phủ ban hành sửa đổi nghị định thực hiện Luật thương
mại theo Nghị định 44/2001/ND-CP, ngày 2-8-2001.
Bên cạnh đó, cũng trong năm 2001 Chính phủ đã tiếp tục tăng cường
hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN qua Quyết định 133/2001/QD-TTg ngày
10/9/2001 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm hỗ trợ các tổ chức
kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân tham gia xuất khẩu.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động ngoại thương của các DNVVN. Nhưng nó cũng có những thiếu sót,
những tồn tại mà chưa thực sự hỗ trợ các DNVVN. Điển hình là việc Bộ
Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ban hành ngay sau nghị định 57/CP
thông tư hướng dẫn quy định các doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu thì phải có mã số hải quan, muốn có mã số hải quan thì phải
nộp đơn đăng ký cho Bộ Tài chính, từ đó phát sinh thêm nhiều thủ tục khó
khăn.
b. Cơ chế tự do hoá thương mại qua việc nới lỏng kiểm soát phi
thuế quan.
Bên cạnh những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN
thể hiện trong điều kiện tham gia, Nhà nước cũng quản lí xuất nhập khẩu
bằng cách ban hành các danh mục hàng hoá thương mại bị cấm, hoặc hạn
chế nhập khẩu theo hạn ngạch, hoặc ban hành các danh mục hàng hoá bị tạm
ngừng xuất nhập khẩu, quy định mới nhất về các loại hàng hoá xuất nhập
khẩu được nêu rõ tại Nghị định 73/2002/NDCP ngày 20/8/2002 của Chính
phủ về danh mục các loại hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu phfu
hợp với tinh thần nêu rõ trong Nghị định 57/CP về danh mục hàng hoá cấm
xuất nhập khẩu, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu quản lí bằng hạn
ngạch, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép đặc biệt(
danh mục sẽ được điều chỉnh theo từng năm). Bên ngoài những loại hàng
hoá nêu trên là các hàng hoá được phép xuất nhập khẩu. Như vậy, nguyên
tắc ở đây là nguyên tắc không cấm( ngoài những mặt hàng cấm thì được tự
do xuất nhập khẩu) chứ không như trước kia, chỉ ban hành các mặt hàng
được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
các DNVVN trong việc tìm hiểu nguồn hàng, mặt hàng để kinh doanh xuất
nhập khẩu thành công. Qua đó càng thấy rằng Nghị định 57/CP thực sự là
một bước tiến quan trọng của chính phủ trong việc tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong việc tiếp cận thị
trường quốc tế.
Điều nổi bật gần đây nhất là vào năm 2001, Chính phủ đã công bố kế
hoạch quản lí xuất nhập khẩu trong 5 năm thay vì kế hoạch xuất nhập khẩu
trong từng năm như các năm trước đó, điều này tạo điều kiện ổn định và
thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nói chung và xuất nhập khẩu nói
riêng của các DNVVN. Quy định mới nhất đó là Quyết định 46/2001 ngày
4/4/2001 của Chính phủ về kế hoạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001-
2005.
Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, lúc này doanh nghiệp
tự kê khai tính thuế xuất nhập khẩu, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải
phóng hàng đã được rút ngắn, đã thực hiện hệ thống “hành lang xanh” với
các nước ASEAN qua việc Tổng cục Hải quan hướng dẫn áp dụng tại Thông
báo số 1184/TCHQ-GSQL ngày 20/1/1996 và 1599/TCHQ-KTTT ngày
13/8/1996).
Để phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế quốc
tế nói chung và tiến trình hội nhập CEPT/AFTA nói riêng. Chính phủ đã phê
chuẩn lộ trình tham gia giảm thuế AFTA trong giai đoạn 2001-2006, theo đó
hầu hết các dòng thuế sẽ được giảm xuống còn 20% vào cuối 2003 và xuống
còn 5% vào 2006.
Ngày 4/9/2002, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số
1062/2002/QĐ-BTM về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp C/O hàng hoá
ASEAN của Việt nam–Form D để hưởng các ưu đãi của Hiệp định về
chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung( CEPT). Đây thực sự là
một bước tiến đáng kể vì như vậy hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam
trong đó phần lớn là các DNVVN sẽ được hưởng thêm những ưu đãi để tăng
tính cạnh tranh trên thương trường khu vực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng
đang tiến hành xây dựng lại Biểu thuế xuất nhập khẩu để áp dụng cho tất cả
hàng hoá xuất nhập khẩu vào Việt nam, chuẩn bị áp dụng “Danh mục thế
quan áp dụng trong ASEAN”-AHTA (ASEAN Hamornised Tariff
Nomenclature).
Hai mặt hàng chủ chốt là gạo và phân bón trong hoạt động xuất nhập
khẩu đã được Chính phủ công khai cho phép tự do hoá xuất nhập khẩu vào
năm 2001. Trước đó, việc xuất nhập khẩu hai mặt hàng này chủ yếu được
thực hiện qua các doanh nghiệp nhà nước được uỷ quyền. Đến năm 1998,
Bộ Thương mại đã cho phép các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tham
gia xuất nhập khẩu phân bòn, và đến năm 1999, Bộ Thương mại đã công
khai việc lựa chọn các doanh nghiệp để có thể tham gia vào hoạt động xuất
nhập khẩu gạo qua Quyết định 273/1999/Qđ-TTg ngày 24/12/1999 cho phép
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Và mới nhất là quyết định bãi bỏ phân
bổ hạn ngạch xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo Quyết định
46/2001/QD-TTg ngày4/4/2001. Việc tự do hoá là một cơ hội rất lớn cho
các DNVVN, xét về mặt hàng gạo , Việt nam là một trong những quốc gia
xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và gạo được xem như mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt nam. Còn về phân bón , có ý nghĩa rất quan trọng với một
nước với 75% dân số làm nông nghiệp như Việt nam.
Bên cạnh những động thái tích cực như vậy vẫn có một số vấn đề phát
sinh như:
Thứ nhất, hiện nay Việt nam vẫn áp dụng mức tính giá tối thiểu với
20 nhóm mặt hàng, chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định hợp tác Hải
quan ASEAN và phương pháp xác định giá trị tính thuế nhập khẩu theo
nguyên tắc của GATT.
Thứ hai, việc Chính phủ ban hành danh mục các mặt hàng bị cấm
hoặc hạn chế xuất nhập khẩu tạm thời quá bất ngờ mà không được báo
trước hoặc nêu lí do một cách thoả đáng gây nên những cơn sốt về cầu (
như: xe máy...), đồng thời làm các DNVVN bị động trong công tác xuất
nhập khẩu, mất uy tín trên thị trường thế giới.
Thứ ba, việc quy định ngữ nghĩa của một số mặt hàng chưa được rõ
ràng, gây khó hiểu, hiểu lầm thậm chí hiểu sai. Chẳng hạn như “đồ chơi trẻ
em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và nhân cách”, “ hàng tiêu dùng đã qua
sử dụng” gây ra sự bất đồng vì một số nhân viên hải quan coi một số hàng
hoá đã qua tân trang là mới mặc dù chúng đã qua sử dụng. Đó là những vấn
đề mà có thể nói sẽ không bao giờ hết . Nhưng nhìn chung thì mặt tích cực
của Nghị định 57/CP vẫn là nổi bật, hỗ trợ đáng kể cho các DNVVN trong
việc tiếp cận thị trường quốc tế.
c. Việc kiểm soát ngoại hối theo hướng nới lỏng dần.
Việc nới lỏng kiểm soát ngoại hối trong những năm gần đây phần nào
đã tác động tích cực tới khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của các
DNVVN Việt nam. Cụ thể là theo quy định thi ngoại tệ vào Việt nam được
chuyển đổi thành VND, hoặc giữ trong một tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng.
Quyết định 173 yêu cầu các DNVVN bán 80% ngoại tệ cho ngân hàng, sau
đó nếu yêu cầu cần ngoại tệ thì phải mua lại và thông thường với giá cao
hơn đáng kể. Đến năm 1999, Tỷ lệ kết hối ngoại tệ đã được giảm xuống
50% thu nhập ngoại tệ theo Quyết định số 180/1999/QD-NHNN1 ngày
30/3/1999, tiếp đó là giảm xuống 40% thu nhập ngoại tệ vào năm 2001 theo
Quyết định 61/2001/QD-TTg ngày 25-4-2001, đó thể hiện những nỗ lực của
Chính theo hướng tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN
trong ngoại hối, nhưng điều đó vẫn còn phải được cải thiện hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhỏ là để có ngoại tệ nhập khẩu, các
DNVVN phải giải trình việc mình tham gia vào việc sản xuất các loại sản
phẩm nằm trong danh sách các mặt hàng thay thế nhập khẩu hoặc cho các
dự án cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp có liên quan thì được phép còn
những doanh nghiệp khác thì đương nhiên không đưọc phép mua ngoại tệ
cho hoạt động nhập khẩu.
2. Tác động của chính sách tài chính tiền tệ:
a. Chính sách đầu tư:
Về đầu tư trong nước: Luật khuyến khích đầu tư trong nước( ban
hành ngày 22/6/1994, sửa đổi ngày 20/5/1998) và Nghị định hướng dẫn Luật
đã đề ra nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước nói
chung và các DNVVN nói riêng, là một đối trọng quan trọng đối với Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt nam.
Luật đã có những quy định, những điều khoản khuyến khích đầu tư
trong nước, tạo điều kiện cho các DNVVN tiến hành đầu tư như qua việc
mở rộng chủ thể đầu tư sang cả người Việt nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài cư trú lâu tại Việt nam (Trước đó, theo Luật doanh nghiệp tư
nhân, Luật công ty 1990 giới hạn chủ thể chỉ là công dân Việt nam, tổ chức
kinh tế xã hội; Luật hợp tác xã giới hạn chỉ là công dân Việt nam và hộ gia
đình) hay là qua việc cho phép người nước ngoài, tổ chức kinh tế nước
ngoài được phép góp vốn, mua cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp Việt nam(
không qúa 30% vốn điều lệ). Bên cạnh đó là việc thành lập các quỹ hỗ trợ
như Quỹ hỗ trợ đầu tư cho vay với lãi suất ưu đãi ( hiện đã hoạt động trên 4
năm), Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ.
Luật đã qui định rõ những lĩnh vực đầu tư, các vùng được ưu
đãi kèm theo các chính sách ưu đãi như hỗ trợ mặt bằng kinh
doanh, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế, đào tạo. Bước đầu các DNVVN đã
tiếp cận được một số nguồn hỗ trợ để phát triển sản xuất. Năm
2000, khu vực này đã được cấp khoảng 1.600 giấy chứng nhận ưu
đãi đầu tư, trên 1.100 dự án được vay tín dụng từ quĩ hỗ trợ phát
triển, 400 dự án được giao đất, cho thuê đất, hơn 200 dự án được
miễn giảm tiền thuế sử dụng đất hoặc giảm tiền thuê đất.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như việc so với thực tế cần hỗ trợ
của DNVVN thì còn nhỏ bé và dàn trải. Vẫn còn thiếu cơ chế pháp lý để
khuyến khích đầu tư trong nước đối với thành phần kinh tế trang trại là các
DNVVN ở nông thôn. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước chưa tạo
cơ hội cho doanh nghiệp ít vốn, khả năng tài chính chưa cao mà chỉ quan
tâm đến các chủ thể kinh doanh những ngành nghề mà nhàn nước khuyến
khích, một số quy định tồn tại mà chỉ có DNNN và một số doanh nghiệp có
điều kiện mới thực hiện được. Còn các DNVVN nói chung thì rất khó tiếp
cận.
Về đầu tư nước ngoài: Trong điều kiện phát triển kinh tế Việt nam
hiện nay, việc khai thác và tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài
như nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn viện trợ phát triển của các tổ
chức tài chính quốc tế... có vai trò rất quan trọng. Và Chính phủ cũng có
những chính sách, những quan điểm khẳng định tầm quan trọng của nguồn
vốn bên ngoài. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành tại Việt nam vào năm
1989, được sửa đổi vào các năm 1992, 1994, 1996 và bên cạnh đó là rất
nhiều văn bản, thông tư hướng dẫn mà mới nhất là Nghị định số
24/2000/ND-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi thành
Luật đầu tư nước ngoài. Tất cả cũng đã tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ
tối đa để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài.
Bên cạnh đó không thể không nhắc tới nỗ lực của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trong việc hợp tác với Tổ chức đảm bảo đầu tư đa biên (MIGA) để
tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho cả đầu tư trong và ngoài
nước, thành quả có thể kể đến là trang web
www.khoahoc.vnn.vn/mpi_website vào 1/2002 nhằm cung cấp những thông
tin cần thiết, đầy đủ, cập nhật phục vụ các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đặc biệt, địa chỉ này còn cung cấp phương tiện xin phép đầu tư qua mạng.
Nhưng thực tế cần xét tới ở đây là bên góp vốn liên doanh với các
công ty liên doanh nước ngoài chủ yếu vẫn là nhà nước và rất ít các
DNVVN góp vốn liên doanh. Thành phần kinh tế tư nhân-phần lớn là các
DNVVN-chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong vốn liên doanh với bên ngoài và
vẫn chưa có chính sách tích cực khuyến khích khu vực các DNVVN tham
gia nhiều hơn vào các dự án liên doanh nước ngoài.
b. Chính sách tín dụng
Hoạt động hỗ trợ tín dụng của nhà nước đối với các DNVVN được
quy định cụ thể tại Nghị định 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, đây chính là một bước tiến quan trọng trong
việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển
Nhà nước, theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển cho DNVVN của
nhà nước được thực hiện thông qua Qũy hỗ trợ phát triển( được Chính phủ
thành lập theo Nghị định 50/1999/ND-CP ngày 8/7/1999) dưới ba hình thức
đầu tư hỗ trợ DNVVN là :
Cho vay đầu tư : Đối tượng được vay là các dự án phát triển có khả
năng thu hồi vốn trực tiếp bao gồm những dự án đầu tư tại các vùng khó
khăn theo danh mục ban hành kèm theo, các dự án nuôi trồng thủy sản, dự
án về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, các dự án có sử dụng vốn
ODA.Thời hạn vay tối đa là 10 năm
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Là hình thức Nhà nước thông qua quỹ hỗ
trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn để đầu tư dự
án sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ
là các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Bảo lãnh tín dụng đầu tư : Là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ
chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay.
Quỹ hỗ trợ sẽ có trách nhiệm khi bên đi vay không trả được nợ. Đối tượng
được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu
đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới chỉ được vay một phần vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Tiếp cận của DNVVN với tín dụng cũng được cải thiện hơn thông qua
việc tự do hoá lãi suất trong năm 2001. Vao tháng 6/2001, trần lãi suất cho
vay đã được xoá bỏ và được phép vay trên mức lãi suất cơ bản áp dụng đã
cải thiện việc tiếp cận tín dụng của các DNVVN.
Dưới 3 hình thức đó, nhiều các DNVVN đã tận dụng có hiệu quả và
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Tuy nhiên một thực tế là
dẫu rằng các DNVVN được quyền vay vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh của mình nhưng trên thực tế thì các DNVVN ngoài quốc
doanh có rất ít cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn tín dụng cho giai
đoạn đầu mới thành lập vì theo các điều kiện, các thể lệ tín dụng thì họ phải
có những tài sản cầm cố hoặc thế chấp cho những khoản vay này. Các
DNVVN vẫn gặp những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng
đất, thủ tục định giá tài sản cầm cố, thế chấp. Trong khi đó những doanh
nghiệp quốc doanh không hề phải ký quỹ cho những khoản vay tín dụng
tương tự. Những thể lệ tín dụng này tạo sự phân biệt đối xử giữa doanh
nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Hơn nữa, khả năng đáp ứng nhu
cầu tín dụng của ngân hàng còn hạn chế, hoạt động tín dụng của họ rất khó
mở rộng trong khi các khoản nợ xấu đang ngày càng tăng lên.
DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn
vốn tín dụng từ bên ngoài trong khi mà thị trường chứng khoán ở Việt nam
còn chưa hoạt động. Các nguồn vốn hỗ trợ như khoản hỗ trợ từ Dự án hỗ trợ
tài chính cho các DNVVN của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật bản(JBIC),
Dự án hỗ trợ DNVVN do phía Italy, Dự án UNDP rõ ràng là có hiệu quả
nhưng chưa có nhiều. Khả năng huy động vốn trong nước còn hạn chế, các
khoản tín dụng trung và dài hạn dường như nằm ngoài tầm với của các
DNVVN ngoài quốc doanh, các nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cũng không
hoàn toàn thuận lợi. Chính vì lí do đó mà nguồn vốn của các DNVVN chủ
yếu lại đến từ các nguồn tín dụng không chính thức.
c. Chính sách thuế.
Sự đổi mới trong chính sách thuế của Chính phủ đối với doanh nghiệp
nói chung và DNVVN nói riêng thể hiện rõ nhất ở việc thay thuế doanh thu
bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) kể từ ngày 1/1/1999. Theo đó, 1/3 số lượng
hàng hoá dịch vụ chịu mức thuế suất 5%, 62% chịu mức thuế suất 10%, 5%
chịu mức thuế suất 20%, tính bình quân trung bình thì mức thuế trung bình
như vậy là khá hợp lý. Tại 2 kỳ họp của Quốc hội( kỳ họp 10-1998 và kỳ
họp 4-1999), đã ra đời những nghị quyết xử lí kịp thời, tháo gỡ khó khăn
cho các DNVVN là giảm 50% mức thuế suất cho ngành du lịch, khách sạn,
ăn uống và 7 nhóm hàng hoá cơ bản khác và một số mặt hàng cơ khí phục
vụ nông nghiệp.
Việc áp dụng thuế VAT là cần thiết nhưng thời điểm bắt đầu áp dụng
lại là lúc nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoẳng tài chính
khu vực 1997-1998, các doanh nghiệp nói chung lúc đó đang gặp khó khăn.
Như vậy chưa hợp lý lắm và chưa tận dụng hiệu qủa triệt để của thuế VAT.
Hơn nữa, sự chuẩn bị cho quy trình áp dụng thuế VAT chưa kỹ lưỡng ở cả 3
cấp độ là cơ quan ban hành, cơ quan hành thu và đối tượng chịu thuế. Mặc
dù đã ban hành hơn 200 văn bản giải trình hướng dẫn nhưng cơ quan hành
thu vẫn thực hiện khá vất vả, khó khăn vẫn chưa được giải quyết tận gốc.
Đối tượng nộp thuế chủ yếu là các DNVVN, trình độ quản lí của hệ thống
thuế và cả người tiêu dùng cũng thấp, nhưng thuế lại đưa ra yêu cầu quá cao,
quản lí thu đối với toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh, đa mục tiêu như thu
ngân sách, thúc đẩy xuất khẩu, ưu tiên cho một số ngành và một số ưu tiên
cho tiêu dùng mang tính xã hội... Sự phức tạp này khiến VAT chưa thực sự
phù hợp với các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng.
Hơn nữa, trong một số trường hợp thì thuế VAT còn cao hơn thuế
doanh thu đối với các DNVVN do việc khấu trừ VAT đầu vào chưa đầy đủ.
Vì vậy có khá nhiều DNVVN phải thu hẹp hoạt động sủa xuất kinh doanh
do thiếu vốn vì phải nộp thuế VAT trước nhưng khâu hoàn thuế lại tiến hành
quá chậm. DNVVN bị thiệt hại đáng kể do số vốn bị chiếm dụng này trong
khi họ vẫn phải nộp lãi suất ngân hàng ( vốn vay ngân hàng chiếm tới 70%-
80% tổng vốn của các DNVVN). Cụ thể như trường hợp quy định hàng
nhập khẩu phải chịu thuế VAT ngay khi mới nhập về đã khiến cho giá thành
sản xuất bị đội lên ở những mặt hàng có nguyên liệu nhập khẩu.
Những nỗ lực về hỗ trợ thuế cho DNVVN còn phải nói đến các ưu đãi
về thuế được quy định tại Nghị định số 51/1999/ND-CP ngày 8/7/1999 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước(
đã sửa đổi). Tại đó, các mức thuế ưu đãi được thể hiện ở các danh mục A, B,
C về dự án đầu tư. Tại đó cũng chi tiết những quy định về thời hạn miễn
thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điển hình là các trường hợp miễn
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư mở rộng, đầu tư
chiều sâu, đối với các dự án BOT, BTO, đối với sản xuất, kinh doanh hàng
xuất khẩu. Ngoài ra còn có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị
máy móc tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập cá nhân,
miễn giảm thuế sử dụng đất.
3. Tác động của chính sách đất đai
Luật đất đai được ban hành và trực tiếp điều chỉnh vấn đề đất đai với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ năm 1993.
Một vấn đề nổi lên hàng đầu hiện nay là nếu mỗi doanh nghiệp có
một giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất thì sẽ giảm bớt được tính mập
mờ về tính hợp pháp của đất và cho phép được sự dụng đất để thế chấp
vay.Tuy vậy, hiện nay chỉ có một số ít các DNVVN có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Trong các khu vực đô thị phát triển thì quyền sử dụng
đất dài hạn lại chủ yếu được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Các
DNVVN hiện nay chủ yếu vẫn phải đi thuê đất.
Về quy định thời hạn cho thuê đất còn chưa rõ ràng, cơ quan nhà
nước thì cho rằng thời điểm cho thuê đất tính từ khi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ra quyết định cho thuê đất, còn doanh nghiệp thì lại cho rằng
thời điểm xác định hạn thuê đất tính từ thời điểm thực tế doanh nghiệp nhận
được đất thuê. Thực tế thì nền quy định tính từ thời điểm nhận được đất thuê
là hợp lý trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các văn bản pháp quy liên quan đến quyền sử dụng đất, thế chấp đất
còn nhiều bất cập, phức tạp và không rõ ràng, có sự phân biệt đối xử giữa
những doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quyền sử
dụng phần lớn đất đai chưa được xác định vì phải cung cấp một số lượng rất
lớn các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, việc có được những giấy tờ
đó hoàn toàn không dễ dàng. Hiện vẫn chưa có hệ thống công khai về các
quyền hạn cho thuê và thế chấp. Giá trị của quyền sử dụng đất do Uỷ ban
Nhân dân tỉnh, thành phố xác định chứ không phải theo giá thị trường và
được mỗi tỉnh áp dụng theo các cách khác nhau.
Về vấn đề thời hạn cho thuê đất hiện hành áp dụng cho các DNVVN
ngoài quốc doanh là 30 năm tạo một thiệt thòi cho các DNVVN trong nước
và đẩy giá thành sản phẩm của các DNVVN này lên cao hơn so với giá sản
phẩm của các doanh nghiệp có vốn FDI- loại hình có thể thuê đất đến 50
năm.
Bên cạnh đó, việc quy định giá trả tiền thuê hàng năm vào khoảng
0,5-0,7% giá trị quyền sử dụng đất như hiện nay rõ ràng là tác động hỗ trợ
của Chính phủ trong việc giảm mức đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp, Tuy
nhiên lại tồn tại một nghịch lý là nhiều doanh nghiệp chỉ muốn nộp tiền
thuê đất luôn một lần cho xong để yên tâm đầu tư ( cho dù có phải đi vay) vì
e ngại chính sách giá cho thuê đất hiện nay không ổn định. Cho ví dụ các
doanh nghiệp sẽ phải trả một khoản tiền là A để được thuê đất trong 30 năm
và mỗi năm nộp 0,5%A, nhưng rất có thể do biến động mà các doanh nghiệp
có thể phải nộp thêm một khoản B > A, lúc đó giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp sẽ phải tính thế nào cho hợp lý ? Do đó, cần quy định một giá
thuê đất ổn định hoặc dao động trong một phạm vi cho phép trong suốt thời
gian thuê. Đồng thời cũng cần hạ giá cho thuê đất tại các KCN, KCX để lấp
đầy các khu này vì theo con số thống kê hiện nay thì các doanh nghiệp chỉ
mới chiếm 19% tổng diện tích.
Nhìn chung, Những vấn đề về đất đai cũng là một trong những thách
thức lớn nhất đối với các DNVVN. Thách thức thể hiện ở việc rất khó có
được đất dùng cho mục đích đầu tư, trong khi đó hệ thống xét duyệt của
chính phủ đối với việc thực thi các quyền sử dụng đất là rất phức tạp và rắc
rối. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển khi mà cá
quyền sử dụng đất đối với các mục đích thương mại và công nghiệp không
được quy định rõ ràng và các thủ tục dụng đất để thế chấp không được nới
lỏng.
4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo.
Về công nghệ: Việc tiếp cận đến công nghệ hiện đại có vai trò rất
quan trọng trong việc các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế. Tuy
vậy, phần lớn các DNVVN Việt nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với
mức trung bình của thế giới. Máy móc trang thiết bị lạc hậu và thêm vào đó
là trình độ quản lí, kỹ năng nghiệp vụ của lao động trong nước chưa đủ khả
năng thành thạo với công nghệ hiện đại. Khó khăn trong tiếp cận công nghệ
của các DNVVN Việt nam thể hiện ở:
Thứ nhất, mặc dù vài năm gần đây đã có những bước tiến đáng kể
nhưng phải thừa nhận là kinh phí cho giáo dục đào tạo hướng nghiệp của
Việt nam luôn thấp hơn các nước khác trong khu vực, thiếu nguồn tài chính
cho giáo dục đào tạo để cho phép các sinh viên và công nhân Việt nam tiếp
thu công nghệ mới.
Thứ hai, các DNVVN khó tiếp cận đến các khoản tín dụng trung và
dài hạn nhằm giúp họ đầu tư mua thiết bị mới, công nghệ mới, đào tạo người
lao động.
Ngoài ra, khung pháp lý với công nghệ còn nhiều bất cập: Thứ nhất,
các quy định hạn chế nghiêm ngặt được quy định trong Luật Dân sự ở các
hợp đồng chuyển giao công nghệ phần nào ngăn cản việc chuyển giao công
nghệ cao mà nước ta đang cần. Thứ hai, mỗi hợp đồng chuyền giao công
nghệ được Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường phê duyệt phải mất12
tháng, thời gian này cũng đủ để công nghệ chuyển giao sắp lạc hậu. Thứ ba,
Hệ thống cấp giấy phép công ty và đầu tư làm giảm sức cạnh tranh- vốn là
một động cơ thúc đẩy đổi mới công nghệ- và làm nảy sinh tình trạng kinh
doanh không ổn định-một khó khăn lớn đối với việc đổi mới công nghệ.
Các quy định pháp lý hiện nay tạo ra nhiều khó khăn và tốn kém trong
việc nhập khẩu vác thiết bị và máy móc đã qua sử dụng vào Việt nam. Theo
quy định của Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường buộc các doanh nghiệp
phải được sự chấp thuận từ cơ quan nhà nước có liên quan và chứng chỉ của
một cơ quan giám định hợp pháp ( thường là VINACONTROL của Việt
nam và SGS của Thuỵ sỹ) là thiết bị còn mới 80% giá trị, không phải phế
liệu hoặc chát đốt tiêu thụ không được quá cao hơn 10% so với máy mới và
các máy móc thiết bị đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn và môi
trường. Các DNVVN, nếu không thể mua máy móc thiết bị mới, thì cũng
chật vật trong việc nâng cấp lên thiết bị đã qua sử dụng. Đành rằng là cần
tránh tình trạng biến Việt nam thành bãi rác công nghệ những nếu quy định
qúa khắc nghiệt thì cũng rất khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp
cận công nghệ mới.
Trong tình trạng như vậy thì hoạt động cho thuê tài chính (leasing)-
một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao, linh hoạt trong kinh doanh-có
thể được xem như cứu cánh cho vấn đề công nghệ của các DNVVN, tuy
vậy việc xúc tiến hoạt động này chưa phát triển lắm. Nghị định số 64/CP
ngày 9/10/1995 đã được Chính phủ ban hành về Qui chế tạm thời về tổ
chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nhằm mở
đường cho các công ty cho thuê tài chính tiến hành hoạt động, tạo một kênh
dẫn vốn trung và dài hạn cho các DNVVN, nhưng kết qủa vẫn chưa thu
được bao nhiêu. Cho thuê tài chính ở Việt nam vẫn còn là một cái gì đó xa
lạ.
Về giáo dục đào tạo, Những năm gần đây, Chính phủ cũng đã có rất
nhiều cố gắng nỗ lực để tạo cho các doanh nghiệp nói chung và các
DNVVN nói riêng một đội ngũ nhân lực có tay nghề và trình độ. Ngành
giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo,
bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khoá, trường lớp với nhiều hình
thức, phương thức đào tạo khác nhau. Mặc dù đó mới chỉ ban đầu hình
thành do nhu cầu bức thiết của các DNVVN nhưng nó đã giúp cho việc đào
tạo đội ngũ nhân lực trong khu vực DNVVN tích cực và thiết thực. Hàng
nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được tổ chức ở khắp nơi trên cả
nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như vậy còn
chưa được thực hiện đúng mức, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn
hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho loại đối tượng này.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số trung tâm xúc tiến, hỗ trợ DNVVN
được thành lập và thực hiện các hoạt động đào tạo và các hoạt động khác do
các nguồn quỹ quốc tế tài trợ. Có thể kể đến trong số đó là Trung tâm dịch
vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) hình thành trên khuôn khổ dự án hợp tác
giữa Liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật
Đức (GTZ), trung tâm liên tục tổ chức các lớp học trong đó bao gồm cả
những lớp học đào tạo giảng viên. Ngoài ra còn có các lớp học liên tục được
tổ chức tại Trung tâm hỗ trợ DNVVN của VCCI-SME PC với sự hỗ trợ của
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các lớp học của Trung tâm hỗ trợ DNVVN
của Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng( SMEDEC). Tuy nhiên các
trung tâm này không đủ để đáp ứng việc đào tạo hướng nghiệp và các dịch
vụ tư vấn ở quy mô các DNVVN yêu cầu. Vấn đề là có một cơ quan Chính
phủ ủng hộ hoạt động của các trung tâm này cũng như sự ủng hộ của các tổ
chức quốc tế, như vậy các trung tâm đó mới thực sự phát huy vai trò hỗ trợ
các DNVVN.
5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các DNVVN.
Việt nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và nền kinh
tế toàn cầu, thành công của tiến trình này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển
của khu vực doanh nghiệp mà chủ yếu là các DNVVN. Khu vực này chỉ
thực sự phát triển được nếu có sự hỗ trợ kịp thời, có những điều kiện ưu đãi
thích hợp, không chỉ từ phía đối nội mà còn cần nhiều những hỗ trợ quý báu
từ bên ngoài về nguồn vốn viện trợ phát triển, về các kinh nghiệm trong việc
phát triển các DNVVN. Quan hệ hợp tác của Việt nam với nhiều nước,
nhiều tổ chức, nhiều định chế tài chính vì vậy mà không ngừng được tăng
cường và phát triển, dưói đây là một vài thành quả điển hình.
Cùng chung một mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
thông qua những dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh cho các DNVVN.
Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam(VCCI) và Tổ chức hỗ trợ kỹ
thuật Đức(GTZ-German Technican Corporation) cùng hợp tác và xây dựng
và phát triển những dịch vụ thông tin cập nhật với chất lượng cao. Văn bản
hợp tác giữa VCCI và GTZ kí vào 10/2001, kế đó việc phát triển hướng đi
của SMEnet( Small and Medium Enterprises) được ghi nhận và thông qua
vào 11/2001 và kinh phí được hỗ trợ vào 12/2001. Sau đó SMEnet được thử
nghiệm vào 3/2002 và chính thức hoạt động từ 4/2002.
SMEnet-thành quả đầu tiên là trang Web
vào tháng 4/2002, đây thực sự là một bước tiến
lớn lao khi mà các DNVVN có thể tiếp cận được rất nhiều nguồn thông tin
quý báu về hoạt động kinh doanh của mình, khi mà các thông tin về
DNVVN được công bố công khai. Tại đó, các DNVVN có thể có những
thông tin cập nhật về thị trường, sản phẩm, bạn hàng, đối tác, các thông tin
về tư vấn pháp luật, khởi sự doanh nghiệp, và nhiều thông tin hữu ích khác
qua đó các DNVVN Việt nam có thể tăng sức cạnh tranh của mình.Tuy mới
hoạt động nhưng trang Web này thực sự đã là công cụ hiệu qủa cho phát
triển DNVVN.
Cũng theo kế hoạch hợp tác giữa VCCI và GTZ, Dự án thúc đẩy phát
triển DNVVN sẽ dần dần chuyển giao SMEnet cho Trung tâm thông tin
VCCI quản lí, trong quá trình chuyển giao đó, hai bên sẽ cùng hợp tác phát
triển SMEnet như một cổng thông tin về kinh tế cho các DNVVN.
Phía Việt nam cũng đã có sự hợp tác với Italia về phát triển các
DNVVN, hai bên đã ký “Biên bản ghi nhớ về sự hợp tác về các DNVVN
Việt nam- Italia” giữa Bộ công nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp
nước Cộng hoà Italia và Bộ công nghiệp nước công hoà xã hội chủ nghĩa
Việt nam vào 5/10/1999. Italia cũng đã cụ thể hoá bằng nhiều chương trình
hợp tác hỗ trợ, cụ thể là “Hội thảo DNVVN trong công nghiệp- kinh nghiệm
của Italy và Việt nam” do bộ công nghiệp Việt nam, Đại sứ quán Italy tổ
chức ngày 22/5/2002. Hay là dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN việt
nam trong công nghiệp đá ốp lát, và nhiều hoạt động khác.
Việt nam cũng luôn tham gia và thậm chí trực tiếp tổ chức các hội
nghị quốc tế về phát triển các DNVVN. Điều này thể hiện quyết tâm thực sự
của Chính phủ trong phát triển các DNVVN. Tại Bắc Kinh, việt nam tham
gia Hội nghị cấp bộ trưởng APEC về các DNVVN ngày1/9/2001 với sự
tham gia của 21 quốc gia APEC, hội nghị đã thông qua tuyên bố chung về
phát triển các DNVVN. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8/10/2002 đã
diễn ra “Hội nghị lần 7 các thành phố đối tác khu vực châu á-Thái Bình
Dương về chính sách hỗ trợ DNVVN”. Hội nghị cũng thông qua chương
trình hành động TP Hồ Chí Minh về phát triển DNVVN.
III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI CỦA CÁC DNVVN TẠI VIỆT NAM.
1. Vốn của các DNVVN.
Hiện nay các DNVVN gặp phải tình trạng khó khăn về vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh. Thị trường cung ứng vốn cho các DNVVN chủ
yếu là thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay
vốn của thân nhân, bạn bè, và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như
các DNVVN, nhất là các DNVVN ngoài quốc doanh, không tiếp cận được
với nguồn tín dụng chính thức của ngân hàng. Thực trạng này do nhiều
nguyên nhân như: Hệ thống ngân hàng, chủ yếu dành các khoản tín dụng
cho các doanh nghiệp Nhà nước; các DNVVN không đáp ứng được các đòi
hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án khả thi, thủ tục thế chấp và
mức lãi suất. Hiện nay, các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng còn rất phức tạp, dẫn đến chí phí giao dịch cao làm cho
những khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các DNVVN. Thủ tục
phức tạp và chi phí giao dịch cao lại cũng làm cho các ngân hàng không
muốn cho các DNVVN vay. Bởi vì dưới góc độ của các ngân hàng, thủ tục
cho vay các khoản vốn nhỏ cũng không kém phần phức tạp so với các khoản
vốn lớn mà lợi nhuận lại ít và các quy định quá khắt khe về tài sản thế chấp
và dự án khả thi cũng đội các chi phí lên cao. Chính vì thế ngân hàng thì
nhận được ít lợi nhuận đi còn các DNVVN thì lại không đáp ứng được các
điều kiện vay vốn, cho nên các ngân hàng không muốn cho họ vay. Trong
khi đó, các DNNN thì lại vay vốn mà không cần phải thế chấp tài sản. Đây
là một trong những phân biệt đối xử lớn hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như các phương pháp định
giá tài sản thế chấp còn không rõ ràng, thường đánh giá rất thấp giá trị của
các tài sản thế chấp so với giá trị thực của nó, và các quy định của các ngân
hàng về vấn đề này còn rất tuỳ tiện. Bên cạnh đó, một số chủ doanh nghiệp
ngoài quốc doanh không muốn vay ngân hàng vì như vậy khó trốn tránh
nghĩa vụ nộp thuế.
Các khoản hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài của các quốc gia, các tổ chức,
các dự án là rất hiệu quả nhưng chưa thấm tháp vào đâu với nhu cầu của các
DNVVN. Các chính sách tài chính tín dụng chưa được tiến hành đồng bộ và
thực thi hiệu quả nên tác động chưa thật tốt đến nhu cầu bức xúc về vốn của
các DNVVN hiện nay.
2. Tình hình thiết bị công nghệ
Trình độ thiết bị, công nghệ trong các DNVVN rất lạc hậu. Chỉ trừ
một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc
hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực. Năng lực công nghệ và kỹ
thuật hạn chế, trang bị vốn thấp ( chỉ bằng 3%) mức trang bị kỹ thuật trong
các doanh nghiệp công nghiệp lớn. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị thấp. Nếu lấy
thành phố Hồ Chí Minh- trung tâm công nghệ cao nhất cả nước làm ví dụ thì
tỷ lệ này cũng chỉ là khoảng 10% một năm tính theo vốn đầu tư. Trong khi
đó, nhiều sản phẩm công nghệ hiện nay như các sản phẩm điện tử, viễn
thông, hóa thực phẩm có chu kỳ sống rất ngắn. Với tốc độ đổi mới máy móc
thiết bị như trên thì không tránh khỏi tụt hậu; do đó mà năng suất thấp, giá
thành cao, rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Có thể
thấy tình hình tại thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Bảng : Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại các
DNVVN ở TP Hồ Chí Minh so với trình độ chung của thế giới
Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị (%)
Loại doanh nghiệp
Hiện đại Trung bình Quá lạc hậu, lạc hậu
1. Quốc doanh 11,4 53,1 35,5
2. Ngoài quốc doanh 6,7 27 66,3
-Cổ phần, TNHH 19,4 54,8 25,8
-DNTN 30,0 30,3 50,0
-HTX 16,7 33,3 50,0
-Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6
Tính chung 10 38 52
Nguồn: Báo cáo định hướng chiến lược và khuyến nghị chính sách
phát triển DNVVN đến năm 2010 ở Việt Nam, Trang 22.
Thực trạng trên cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các
DNVVN đươc định nghĩa với tiêu chí vốn tương đối thấp và gặp rất nhiều
khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu
tư nâng cấp công nghệ. Đặc biệt các doanh DNVVN còn đang gặp rất nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ,
máy móc và thiết bị do thiếu thông tin về thị trường này. Những tồn tại căn
bản trong tình hình công nghệ lạc hậu hiện nay ở khu vực DNVVN là :
- Thiếu vắng chiến lược công nghệ cho DNVVN, do đó đổi mới công
nghệ diễn ra một cách tự phát, cá biệt, thiếu định hướng, hướng dẫn và hỗ
trợ của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp lớn.
- Thiếu thông tin hướng dẫn và điều kiện tiếp cận công nghệ, năng lực
tài chính hạn hẹp. Việc đổi mới công nghệ vẫn chỉ là việc làm tự thân của
DNVVN.
- Tiến trình thay đổi công nghệ diễn ra chậm chạp, chưa tương xứng
với tốc độ gia tăng của thị trường. Việc đổi mới công nghệ chỉ tập trung vào
một số ngành và chủ yếu ở các thành phố lớn, các ngành này đã đạt được
những tiến bộ nhất định về công nghệ và từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường (ngành may mặc, thủ công mỹ nghệ, hóa mỹ phẩm, chất tẩy rửa,
sản xuất đồ nhựa, sản xuất công cụ chế biến lương thực, đồ gia dụng...).
- Thiếu những giải pháp đồng bộ trong việc tiếp thu công nghệ ngoại
nhập, thiếu thông tin tư vấn, trình độ và tổ chức đánh giá thẩm định cho nên
khoảng 70% máy móc thiết bị mua về ở mức trung bình, trong đó một bộ
phận đáng kể ở dạng second-hand. Việc quản lý công nghệ nhập còn nhiều
sơ hở, quy chế giám định công nghệ chưa chặt chẽ gây tổn thất lớn về kinh
tế.
- Vai trò hướng dẫn quản lý của các ngành kinh tế- kỹ thuật, của các
cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tư vấn về công nghệ còn thiếu và
lúng túng. Cơ chế chính sách, cơ chế chuyển giao công nghệ không đồng bộ;
quy trình, quy phạm, thiếu sự hỗ trợ trong chính sách tài chính tín dụng do
đó DNVVN không đủ sức đổi mới công nghệ hoặc tiếp thu công nghệ mới
kém hiệu quả, cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa chặt chẽ.
- Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu triển khai với các
DNVVN, tiềm năng nghiên cứu của các viện, trung tâm, các trường đại học
chưa được khai thác phục vụ cho các chương trình đổi mới công nghệ, thiếu
sự hỗ trợ về công nghệ giữa các doanh nghiệp lớn với DNVVN.
- Thiếu đội ngũ chuyên gia, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, những
nhà hoạch định chính sách và tổ chức ứng dụng công nghệ mới.
- Thiếu những điều kiện chuẩn bị cho quá trình thay đổi công nghệ
một cách cơ bản, đồng bộ để thích ứng với sự biến đổi của thị trường khi hội
nhập đầy đủ với các nước ASEAN vào năm 2006.
Kế đó, còn có một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hoạt
động chuyển giao công nghệ cuả các DNVVN như:
- Các doanh nghiệp chưa được phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị
do đó chưa khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
- Việc yêu cầu các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được Chính
phủ phê chuẩn với các thủ tục, quy định hiện hành gây khó khăn, phiền hà
và mất rất nhiều thời gian cho các doanh nghiệp. Và cũng các chính quy
định hiện hành làm cho các DNVVN không đủ điều tài chính mua máy móc
thiết bị mới cũng không thể nâng cao công nghệ của mình bằng cách nhập
máy móc thiết bị cũ nhưng phù hợp với năng lực sản xuất của họ.
- Các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và Internet còn quá cao. Đây
là một trong những cản trở đầu tiên để tiếp cận với thông tin thị trường công
nghệ quốc tế.
- Các thủ tục cồng kềnh, tốn kém trong việc cấp thị thực nhập cảnh
cho các chuyên gia nước ngoài, những người chuyển tải công nghệ vào Việt
Nam, và thuế thu nhập cao mà các chuyên gia này phải chịu so với các nước
Đông Nam á đã không khuyến khích họ đến Việt Nam.
- Nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện nay của các DNVVN đang phải
chịu các mức thuế suất cao. Trong khi đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài lại được miễn thuế nhập khẩu.
3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý.
Nhìn chung lao động trong các DNVVN ít được đào tạo cơ bản qua
các trường lớp chính thống mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, trình
độ văn hóa thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Sở
dĩ như vậy là do cơ cấu lao động đã qua đào tạo rất bất hợp lý, cụ thể là: Tỷ
lệ giữa đào tạo đại học- trung học- công nhân kỹ thuật là 1-1,5-2,5 trong khi
ở các nước đang phát triển trong khu vực tỷ lệ là 1- 4 -10. Điều đó dẫn đến
tổng số lao động qua đào tạo đã ít, tổng số công nhân kỹ thuật lại càng ít hơn
so với nhu cầu thực tế. Hơn nữa, chất lượng dạy nghề lại yếu, nguyên nhân
là do trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình, giáo án
đều rất thiếu thốn và lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu.
Về chủ doanh nghiệp : Thực trạng trình độ của chủ DNVVN ở nước
ta được biểu hiện trên một số mặt sau đây:
- Về cơ cấu trình độ của chủ DNVVN: Theo kết quả điều tra thì 30%
chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân, viên chức thuộc khu vực kinh tế
nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản
xuất, một số ít có tay nghề và hiểu biết về quản lý kinh tế. Động cơ hoạt
động sản xuất- kinh doanh là để tự tạo việc làm, có thu nhập cho cuộc sống.
Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực
kinh tế cá thể, tư nhân, có truyền thống của gia đình. Đây là lực lượng khá
lớn, có kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ quản lý sản xuất- kinh
doanh , tài chính, kế toán... còn thiếu. Khoảng 10% là học sinh, sinh viên
các trường phổ thông, các trường trung học, đại học tìm được việc làm, có
vốn hoặc vay vốn tự lập doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh.
- Về trình độ văn hóa: 40% chủ doanh nghiệp có trình độ lớp 7; 35%
trình độ lớp 10 (hệ cũ) và 25% có trình độ lớp 12 (hệ mới). Trình độ này còn
được chứng minh qua số liệu điều tra 300 doanh nghiệp nhỏ ở 3 thành phố:
Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh của Viện khoa học lao động
Nhật Bản kết hợp với Viện khoa học lao động của Bộ lao động- thương
binh và xã hội Việt nam; hơn 70% có trình độ cấp II ( hệ cũ) và khoảng 25%
có trình độ cấp III trở lên.
- Về trình độ chuyên môn: Trong số các chủ doanh nghiệp được điều
tra, cứ 100 người thì có một người có trình độ trên đại học, 3 người có trình
độ đại học, 14 người có trình độ trung học hoặc tương đương. Hơn nữa,
trong số trình độ trung học và đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ tay
nghề đào tạo phù hợp với nghề hoạt động sản xuất- kinh doanh thấp, chỉ
khoảng 7%. Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân,
mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách đổi mới đã nắm cơ hội tạo lập
cơ sở riêng hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Số chủ doanh
nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch
vụ văn hóa, sửa chữa cơ khí, điện tử. Một số các chủ doanh nghiệp có tay
nghề phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp nhưng ở trình độ thấp, chủ
yếu dựa vào đào tạo từ cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc kèm cặp qua thực tế,
hay được gia đình truyền lại. Có một số chủ doanh nghiệp loại này đã làm
trong khu vực kinh tế Nhà nước, nhưng khi lập nghiệp, kiến thức cũ không
đáp ứng được mà phải tự học lại, hoặc nâng cao kiến thức nghề nghiệp qua
các lớp bồi dưỡng ngắn. Một số ít trong các chủ doanh nghiệp đã qua quá
trình đi làm cho các chủ doanh nghiệp khác từ khi còn ít tuổi, tự học nghề
trong thực tế, sau đó trưởng thành, có vốn và tự đứng ra tạo lập doanh
nghiệp.
Qua phần thực trạng trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp nêu
trên, có thể kết luận rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về
trình độ. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này, trước hết là do sự chuyển
biến về cơ chế quản lý, các DNVVN đang ở giai đoạn đầu của quá trình
hình thành, phát triển, việc đào tạo bồi dưỡng chưa được chú ý đúng mức
hoặc đã được chú ý nhưng chưa triệt để.
Từ năm 1991 trở lại đây, ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của
các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo
các khóa, trường lớp với nhiều hình thức và phương thức đào tạo khác nhau.
Có thể kể đến trong số đó là các lớp đào tạo liên tục của Trung tâm hỗ trợ
DNVVN, các lớp về khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp của
Trung tâm xúc tiến DNVVN SME-PC/VCCI với sự trợ giúp của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO), các khoá học đào tạo ngắn hạn của Trung tâm hỗ
trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng(SMEDEC).
Mặc dù đó mới chỉ là ban đầu hình thành do nhu cầu cấp thiết của các
DNVVN, nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ
quản lý trong doanh nghiệp khá tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học
ngắn hạn và các hội thảo đã được các cơ quan, các tổ chức khác nhau tổ
chức cho hàng vạn các lượt chủ doanh nghiệp ở các thành phố lớn và nhiều
tỉnh trong cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh
nghiệp như thế còn chưa được thực hiện đúng mức, còn manh mún, chương
trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cho
loại đối tượng này.
Về lao động phổ thông trong các DNVVN: Lao động trong các
DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng,
trình độ văn hoá thấp, tình trạng này còn trầm trọng hơn đối với số lao động
trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy chỉ có 5,13% lao
động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong khi đó chủ
yếu tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ
phần,74,8% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học.
4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các DNVVN về sản
phẩm, thị trường.
Hạn chế về sản phẩm và chất lượng sản phẩm: Một trong những
hạn chế lớn nhất của DNVVN Việt nam là trên con đường đi tìm đầu ra cho
sản phẩm của mình, rất nhiều DNVVN vẫn đang duy trì những mặt hàng có
giá trị gia tăng thấp, chất lượng không cao và chủ yếu dựa trên lợi thế chi
phí nhân công rẻ.
Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Các
doanh nghiệp hiện nay chưa tìm được lợi thế so sánh bằng những sản phẩm
“độc đáo” riêng, hầu như DNVVN mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế
mạnh thì tập trung vào kinh doanh và đem ra chào bán, nếu không thì cũng
là sản xuất theo kiểu làm nhái lại các sản phẩm uy tín nước ngoài. Ngay cả
trong ngành dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu…- những
lĩnh vực ưu thế của Việt Nam, việc đa dạng chủng loại, mẫu mã vẫn còn
nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp DNVVN chỉ làm theo catalogue, hoặc là
cóp nhặt, nhái kiểu sản phẩm cạnh tranh, kết cục vừa làm mình rơi vào thế
bị động, vừa ảnh hưởng xấu đến diễn biến thị trường. Sản phẩm có quá
nhiều sự trùng lắp, cả về mẫu mã lẫn chủng loại mặt hàng, dịch vụ giữa các
doanh nghiệp nhỏ với nhau, giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn, nên thị
phần bị thu hẹp và lợi thế cạnh tranh tương đối lại càng mờ nhạt. Đó là
nguyên nhân từ hai phía: trước hết, DNVVN yếu kém cả về năng lực sản
xuất lẫn công nghệ và kiến thức thương trường và thậm chí chưa thực sự
quan tâm đúng mức đến cải tiến sản phẩm; sau đến, Nhà nước thiếu một cơ
chế kích thích tốt, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về ngành nghề và thị
trường đối với loại hình doanh nghiệp này.
Hơn nữa, trong xuất khẩu, phần lớn các doanh nghiệp đang sản xuất
các loại sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, dễ gia nhập thị trường. Sản phẩm
dưới dạng thô, sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%) trong khi lao động ở các
DNVVN nói chung dư thừa rất nhiều. Về lâu dài không chỉ các nguồn tài
nguyên bị cạn kiệt mà cả lợi ích do giá cả thấp cũng thuộc về khách hàng
nước nhập khẩu. Trong mấy năm gần đây, việc đầu tư vào ngành công
nghiệp chế biến cũng như vào mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng cao đã có
những cố gắng đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa tương xứng. ở đây lại xuất
hiện một nghịch lý là, nếu sản xuất và xuất khẩu hàng thô thì vốn ít, dễ tìm
thị trường, nhưng giá trị thấp. Còn nếu đầu tư vào hàng chế biến thì cần vốn
lớn và khó tìm thị trường, mà vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế
hoạt động của các DNVVN hiện nay. Thực tế là nhiều sản phẩm xuất khẩu
thô thì lãi nhưng chế biến sâu khi bán ra lại lỗ.
Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định, rất
khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội địa chứ không
nói đến thị trường nước ngoài. Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam luôn
đứng ở thế yếu trước hàng nhập khẩu tiểu ngạch, chất lượng trung bình từ
Trung Quốc, Thái Lan… ngay tại thị trường nội địa bởi chất lượng, giá cả,
mẫu mã. Điều đáng lo ngại đối với DNVVN Việt Nam là nhiều hàng nước
ngoài tại thị trường Việt Nam và trên thị trường quốc tế liên tục thay đổi
mẫu mã và giảm giá mà chất lượng không giảm. Vô hình chung, doanh
nghiệp Việt Nam tự rơi vào "cái bẫy của chí phí lao động thấp": bị qui luật
cạnh tranh dồn ép vào những ngành có lợi nhuận cận biên thấp và bị cạnh
tranh gay gắt về chi phí.
Qua điều tra trên 146 doanh nghiệp, các chuyên gia Viện chiến lược
phát triển và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc đã rút ra nhận
xét: "Trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong phát triển kinh tế xã hội.pdf