Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại công ty tài chính dầu khí: 1
Báo cáo tốt nghiệp
Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại
Công ty Tài chính Dầu khí
2
Mục lục
Trang
Chương I:
Công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ uỷ thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty
tài chính trong tập đoàn đó.
1
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn 1
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty 3
1.2. Nghiệp vụ uỷ thác 7
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ uỷ thác 7
1.2.2. Khái niệm về uỷ thác 12
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng uỷ thác 13
1.2.4. Phân loại uỷ thác 16
1.3. Uỷ thác quản lý vốn 19
1.3.1. Khái niệm 19
1.3.2. Phân loại uỷ thác vốn 20
1.3.3. Cơ sở luật pháp đối với nghiệp vụ uỷ thác quản lý vốn
24
Chương II: Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại
công ty Tài chính Dầu khí
2.1. Khái quát một số nét về Tổng công ty Dầu khí và công ty Tài chính
Dầu khí
30
2.1.1. Một số nét về Tổng công ty Dầu khí 30
2.1.2. Công ty...
92 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1102 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại công ty tài chính dầu khí, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Báo cáo tốt nghiệp
Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại
Công ty Tài chính Dầu khí
2
Mục lục
Trang
Chương I:
Công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ uỷ thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty
tài chính trong tập đoàn đó.
1
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn 1
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty 3
1.2. Nghiệp vụ uỷ thác 7
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ uỷ thác 7
1.2.2. Khái niệm về uỷ thác 12
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng uỷ thác 13
1.2.4. Phân loại uỷ thác 16
1.3. Uỷ thác quản lý vốn 19
1.3.1. Khái niệm 19
1.3.2. Phân loại uỷ thác vốn 20
1.3.3. Cơ sở luật pháp đối với nghiệp vụ uỷ thác quản lý vốn
24
Chương II: Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại
công ty Tài chính Dầu khí
2.1. Khái quát một số nét về Tổng công ty Dầu khí và công ty Tài chính
Dầu khí
30
2.1.1. Một số nét về Tổng công ty Dầu khí 30
2.1.2. Công ty Tài chính Dầu khí 32
2.2. Thực trạng hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí qua hơn 1
37
3
năm hoạt động
2.2.1. Kết quả kinh doanh năm 2001 37
2.2.2. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu 40
2.2.3. Đánh giá các hoạt động năm 2001 41
2.3. Nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí 43
2.3.1. Quá trình hình thành nghiệp vụ uỷ thác ở Việt Nam 43
2.3.2. Thực trạng nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí 46
2.3.3. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và triển vọng của nghiệp vụ uỷ
thác tại công ty Tài chính Dầu khí
68
Chương III: Một số kiến nghị và giảt pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí
3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76
3.1.1. Nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên
quan
76
3.1.2. Cho phép công ty tài chính Dầu khí thực hiện các nghiệp vụ mới 77
3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
3.2.1. Tổng công ty xem xét nhanh chóng thực hiện ủy thác vốn của tổng
công ty cho công ty tài chính
77
78
3.2.2. Tổng công ty xem xét, tin tưởng giao cho công ty tài chính quản lý
tài khoản trung tâm của tổng công ty
3.2.3. Hỗ trợ công ty một cách tối đa trong công tác đào tạo đội ngũ
chuyên gia
3.2.4. Xem xét tăng vốn pháp định cho công ty
3.3. Giải pháp đối với công ty Tài chính Dầu khí
79
82
83
83
3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động Marketing 84
4
3.3.2. Phát triển thêm các nguồn uỷ thác mới
3.3.3. Nhanh chóng thực hiện vai trò người uỷ thác
86
87
3.3.4. Đa dạng hoá các dịch vụ uỷ thác
Kết luận
88
Tài liệu tham khảo
Chứng nhận của cơ quan thực tập
5
Lời mở đầu
Việt Nam đã và đang trên con đường đổi mới nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Một trong những vấn đề được mọi người quan tâm nhất
hiện nay là làm sao để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các tổng công ty Nhà
nước nhằm có thể cạnh tranh hiệu quả trên thị trường thế giới và giữ được vị trí
chủ đạo trong nền kinh tế đất nước.
Việc giải quyết vấn đề trên theo hướng thành lập các tập đoàn kinh tế Nhà
nước hiện nay đòi hỏi các tổng công ty phải tự hoàn thiện mình về cơ cấu tổ chức
dẫn tới sự thành lập các công ty tài chính thuộc Tổng công ty. Vấn đề có thành lập
hay không các công ty tài chính này là một vấn đề nhạy cảm nhưng thực tế là các
công ty này muốn chứng tỏ sự tồn tại của mình là một sự tất yếu phù hợp các qui
luật kinh tế thì phải chứng tỏ chúng thực sự hoạt động có hiệu quả.
Kết quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào kết quả hoạt động của các
nghiệp vụ chủ yếu mà một trong số đó là nghiệp vụ ủy thác. Đây vốn là một
nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại nhưng ngày càng được mở rộng
cho các tổ chức tài chính trung gian khác và riêng vốn ủy thác được coi là một
trong những nguồn tạo vốn cơ bản cho các công ty tài chính thuộc tổng công ty tại
Việt Nam. Nghiệp vụ ủy thác bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ làm đầu mối
trong quá trình chu chuyển vốn trong ngành còn thể hiện được rõ nét tính trung
gian của công ty tài chính, tách quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn phù hợp với
sự phát triển của nền kinh tế đang trong quá trình chuyên môn hóa cao độ.
Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty tài chính dầu khí em đã rất quan
tâm tới nghiệp vụ này và được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Kim
Quý và sự giúp đỡ, hướng dẫn của các anh chị tại công ty tài chính dầu khí em đã
quyết định chọn vấn đề này làm đề tài tất nghiệpvới mong muốn tìm hiều xem
nghiệp vụ này là gì, đóng góp như thế nào cho sự phát triển của công ty tài chính
dầu khí nói riêng và cho những mục đích thành lập công ty tài chính thuộc tổng
công ty, hy vọng đóng góp được chút gì cho sự phát triển của công ty.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dụng luận văn được trình bày theo 3
chương:
6
Chương I: Công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ uỷ thác
Chương II: Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu
khí
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí.
7
Chương một
Tổng quan về công ty tài chính thuộc tập đoàn và
nghiệp vụ ủy thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty tài
chính trong tập đoàn đó
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn
Dựa trên những giác độ nghiên cứu và phân tích khác nhau người ta đưa ra
một số định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Đó là một thực thể kinh tế
thực hiện sự liên kết kinh tế giữa các thành viên là các doanh nghiệp có quan hệ
với nhau về công nghệ và lợi ích được gọi bằng các tên khác nhau như: hiệp hội,
liên hiệp, tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh... Theo các tác
giả của từ điển thương mại Anh Pháp Việt thì khái niệm “Group” (tức tập đoàn) có
thể hiều như sau: Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và tài chính gồm một công ty
mẹ và các công ty khác mà nó kiểm soát hay trong đó có nó tham gia. Mỗi công
ty bản thân cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác.
Theo quan niệm này đặc trưng chủ yếu của tập đoàn kinh doanh là cấu trúcvà sự
kiểm soát của một công ty lớn nhất (công ty mẹ ) trong tổ hợp các công ty đó.
Dưới giác độ của văn bản pháp luật, theo điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt
động của tổng công ty nhà nước ban hành tại nghị định số 39CP ngày 27-6-1999,
điều lệ ghi rõ:
“Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn bao gồm
các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính,
công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động trong một hoặc một
số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, do nhà nước thành lập nhằm tăng cường
tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện
nhiệm vụ nhà nước giao; nâng cao khả năng hiệu quả kinh doanh của các đơn vị
thành viên và của toàn tổng công ty đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế”
Tổng quát các tập đoàn có ba loại hình tổ chức:
Loại hình thứ nhất: Quan hệ giữa các thành viên tương đối lỏng lẻo thông
qua các thoả thuận hoặc các cam kết hợp tác, trong hình thức này các công ty
thành viên tham gia tập đoàn có tính độc lập cao; thông thường cơ sở tồn tại của
8
loại hình tập đoàn này là các thoả thuận hoặc hợp đồng tạo ra sự liên kết mèm giữa
các thành viên để tăng thêm lợi thế cho nhóm các thành viên đó.
Loại hình thứ hai: Mối liên kết giữa các thành viên rất chặt chẽ, mức độ
phụ thuộc lẫn nhau cao, các đơn vị thành viên bị hạn chế tính độc lập, cơ sở kinh
tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập đoàn là quyền sở hữu giữa các công ty
thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có một công ty mạnh nhất chi
phối cả tập đoàn.
Loại hình thứ ba: Do sự phát triển cao của thị trường tài chính, hình thành
kiểu tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính. Công ty mẹ (Holding
Company) là công ty tài chính nắm giữ cổ phần chi phối của các công ty con. Sự
phát triển cao của thị trường tài chính và công nghệ thông tin cho phép một công
ty chi phối một hoặc nhiều công ty khác thông qua quyền sở hữu cổ phiếu do vậy
các công ty trong tập đoàn không nhất thiết phải có mối liên hệ về sản phẩm hay
công nghệ kỹ thuật.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về thành lập các tổng công ty
theo quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3 /1994 của thủ tướng chính phủ, cả
nước đã có 92 tổng công ty lớn trong đó có 17 tổng công ty 91 là các tổng công ty
được thành lập thí điểm xây dựng theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Tuy nhiên có
thể nhận thấy việc phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam còn rất
mới mẻ và đang gặp nhiều khó khăn. Các tổng công ty có sức cạnh trạnh quốc tế
chưa cao, hàng hoá dịch vụ xuất khẩu rất khó khăn, qui mô và tiềm lực so với các
tập đoàn kinh tế tương tự của các nước là quá nhỏ bé. Vì vậy có thể thấy giữa các
tổng công ty hướng tập đoàn kinh doanh của ta và các tập đoàn kinh tế còn có một
khoảng cách khá xa. Một nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các tổng công
ty không có đủ vốn thích hợp để phát triển, để đổi mới công nghệ và mở rộng sản
xuất. Do thị trường vốn của ta còn rất sơ khai và kém phát triển, nguồn vốn từ nhà
nước thì lại rất hạn hẹp, nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại thì không đủ qui
mô và chủ yếu là ngắn hạn nên không đáp ứng đủ yêu cầu đầu tư và phát triển của
các tổng công ty. Công ty tài chính trong các tổng công ty ra đời với nhiệm vụ
quan trọng là điều hoà vốn trong tổng công ty và tạo lập, sử dụng nguồn vốn phù
hợp, hiệu quả nhất để phát triển tổng công ty.
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty
9
Tuy các ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của các trung
gian tài chính nhưng các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng đóng một vai
trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn từ những người cho vay - người tiết
kiệm tới những người vay- những người cần chi tiêu. Quá trình đổi mới tài chính
đã làm cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng trở nên quan trọng hơn rất nhiều.
Các tổ chức này ngày nay cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các dịch vụ
tương tự như hoạt động của ngân hàng.
Những năm đầu của thế kỷ 20 các trung gian tài chính phi ngân hàng, trong
đó có công ty tài chính được hình thành trên cơ sở chuyên môn hoá một số hoạt
động của ngân hàng nhằm khắc phục, hạn chế các khiếm khuyết của các ngân
hàng thương mại và đa dạng hoá các định chế tài chính trong nền kinh tế thị
trường. Trong sự phát triển của các tổ chức tài chính phi ngân hàng các công ty tài
chính ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình như một định chế tài chính
không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là:
- Thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu, trái phiếu và cổ
phiếu.
- Cho vay chủ yếu la trung và dài hạn
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua
- Cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các
vật bảo đảm khác
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán
chuyển nhượng chứng khoán
Cho đến thập kỷ 70, có 3 loại hình công ty tài chính hoạt động phổ biến là
tài trợ tiêu dùng, tài trợ bán lẻ,và tài trợ thương mại.Từ thập niên 80 trở lại đây,
các công ty tài chính không ngừng thực hiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực như thuê mua, đầu tư tài chính, phát hành và kinh doanh
chứng khoán,.. đồng thời thực hiện sáp nhập, thôn tính lẫn nhau để tạo thành các
công ty tài chính có qui mô hoạt động lớn, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả
kinh doanh.
Hoạt động của các công ty tài chính là rất đa dạng và phong phú nhưng
nhìn chung có thể phân loại như sau:
10
Căn cứ vào các hoạt động nghiệp vụ, công ty tài chính được chia thành:
+ Các công ty tài chính bán hàng: cho những người tiêu dùng vay để mua
các hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các công ty tài
chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu dùng và
được người tiêu dùng sử dụng vì các món vay thường được thực hiện nhanh hơn
và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng.
+ Các công ty tài chính người tiêu dùng: cho người tiêu dùng vay để mua
những món hàng riêng, ví dụ như đồ đạc và các dụng cụ gia đình để cải thiệ nhà
cửa hay để giúp thanh toán các món nợ nhỏ.
+ Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt
cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có chiết khấu; việc
cung cấp các tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, các công ty tài
chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị là những thứ
công ty mua sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
Căn cứ vào quan hệ về sở hữu, các công ty tài chính được chia thành:
+ Các công ty tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh như:
nghiệp vụ tín dụng (cho vay và bảo lãnh cho các khách hàng thương mại và sản
xuất công nghiệp ); các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua; nghiệp vụ bao thanh
toán; kinh doanh tiền tệ; tư vấn tài chính...
+ Các công ty tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu
các hoạt động như: tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành
viên trong tập đoàn; quản lý và đầu tư các khoản vốn chưa sử dụng trong tập
đoàn; quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa các thành viên;
làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các công ty thành viên trong quan hệ với
các ngân hàng, các đối tác đầu tư; quản lý rủi ro và áp dụng các biện pháp phòng
ngừa rủi ro tài chính trong tập đoàn; cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính khác...
Sự khác biệt cơ bản giữa các ngân hàng thương mại và các công ty tài
chính là các ngân hàng có nhận tiền gửi thường xuyên trong khi các công ty tài
chính thì sử dụng vốn tự có để cho vay và đầu tư, không nhận tiền gửi của dân
chúng và các tổ chức với thời hạn ngắn và dưới hình thức mở tài khoản, không
thực hiện dịch vụ thanh toán và sử dụng vốn vay để làm phương tiện thanh toán
trong khi đó quá trình trung gian tài chính của các công ty tài chính được mô tả
rằng họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay các món tiền nhỏ, một
11
quá trình hoàn toàn khác với quá trình trung gian của các ngân hàng thương mại.
Chính vì vậy quá trình cho vay của các công ty tài chính đặc biệt thích hợp với
các nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tuy vậy, trong các quốc
gia có nền kinh tế phát triển, do yêu cầu mở rộng phạm vi hoạt động nên các
công ty tài chính đều muốn mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ để phục vụ
khách hàng của mình nhiều hơn dẫn đến sự phân chia giữa các tổ chức ngân hàng
và các công ty tài chính ngày càng mờ nhạt.
Các công ty tài chính đang ngày càng phát triển và là một định chế tài
chính không thể thiếu của mỗi quốc gia. Các công ty tài chính có một lợi thế là
họ không gặp phải một hạn chế nào từ phía chính phủ về việc mở chi nhánh, về
những tài sản mà họ có và cách thức huy động vốn. Việc không có hạn chế giúp
cho các công ty tài chính có thể làm phù hợp một cách tốt hơn các món vay của
họ với những nhu cầu của khách hàng hơn là các tổ chức ngân hàng.Thông qua
các công ty tài chính các nguồn vốn nhỏ hệp trong dân cư có thể được tập trung
lại phục vụ cho nhu cầu về vốn của đất nước cũng như các hoạt động đầu tư dài
hạn khác.
Các công ty tài chính trong tập đoàn là sản phẩm tất yếu của thị trường và
là bước phát triển cao hơn của các tập đoàn kinh doanh, góp phần làm đa dạng
hoá các dịch vụ tài chính và các loại hình tổ chức tín dụng. Sự ra đời của các
công ty tài chính làm tăng thêm nguồn vốn huy động, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn trong tập đoàn và nhất là phát huy triệt để sức mạnh của tập đoàn trên thị
trường tài chính trong và ngoài nước.
Các công ty tài chính trong tập đoàn được thành lập với mục đích ban đầu
là cung cấp các dịch vụ tài chính trợ giúp cho các hoạt động kinh doanh chủ yếu
của tập đoàn như tài trợ bán hàng, huy động vốn tập trung, quản lý vốn đầu tư ủy
thác, điều hoà vốn nhàn rỗi, tư vấn và làm đại lý phát hành trái phiếu trên thị
trường tài chính...; sau đó các công ty tài chính đã từng bước đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh, mở rộng đối tượng phục vụ ra bên ngoài tập đoàn như cho
khách vay để mua hàng hoá do tập đoàn sản xuất, cho các doanh nghiệp trong
cùng ngành kinh tế - kỹ thuật vay vốn, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, tài chính,
kinh doanh địa ốc...
Sở hữu vốn của công ty tài chính là sở hữu hỗn hợp nhưng có một chủ
đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính. Tập đoàn tiến hành hoạt động và
12
quản lý tập trung một số mặt như huy động, điều hoà, quản lý vốn; nghiên cứu
triển khai; đào tạo; xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến
lược sản phẩm, chiến lược đầu tư...
Các công ty tài chính chiếm một vị trí quan trọng thiết yếu trong dây
chuyền vốn - tín dụng của các tập đoàn, là trung gian tài chính-cầu nối giữa tập
đoàn với thị trường tài chính. Một nguồn vốn kinh doanh quan trọng của các
công ty tài chính là nguồn vốn được cấp hoặc đi vay từ tập đoàn và các công ty
thành viên; đồng thời doanh thu từ các hoạt động tài trợ để mua hàng hóa do tập
đoàn sản xuất, cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn vay, chiếm tỷ lệ đáng kể
trong tổng doanh thu của các công ty tài chính.
Trong qua trình hoạt động, các công ty tài chính trong tập đoàn thường
phát triển theo hai xu hướng:
- Một là: phát triển trở thành một tổ hợp các công ty gồm công ty mẹ
và các công ty con phần lớn mang họ của công ty mẹ. Công ty mẹ chi phối
các công ty con về mặt tài chính và chiến lược thông qua quyền biểu quyết do
sở hữu một phần khống chế trong tổng cổ phần đang lưu hành của công ty
con.
- Hai là: hình thành các công ty tài chính độc lập trực thuộc tập đoàn,
có chức năng hoạt động giống nhau nhưng kinh doanh trên trên các vùng địa
lý khác nhau; hoặc có chức năng hoạt động khác nhau nhưng cùng hoạt động
trên cùng một địa bàn.
Là thành viên trong tập đoàn nên các công ty tài chính có nhiều lợi thế nhờ
hiểu được rõ các đặc tính kinh tế -kỹ thuật của tập đoàn, các mối quan hệ trong nội
bộ tập đoàn; có khả năng tiếp cận nhiều nguồn thông tin với chi phí thấp để nắm
bắt hoạt động ản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên; từ đó rút ngắn thời
gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác.
1.2. Nghiệp vụ ủy thác
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ ủy thác
Nghiệp vụ ủy thác có nguồn gốc, xuất xứ từ rất lâu, gần như là cùng với sự
hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại.
Trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế thị trường, đã có những nhà buôn, địa
chủ hay thợ kim hoàn,.. là những người có tiền và phát sinh nhu cầu được bảo đảm
13
an toàn về những khoản tiền hay tài sản của mình. Từ đó xuất hiện những người
giầu hơn hay có khả năng, được kính trọng hơn những người khác đứng ra giữ hộ
của cải của người khác và nhận được một khoản tiền phí nhất định của những
người gửi,khi đó nghiệp vụ ủy thác nảy sinh. Sau đó những người này nhận thấy
có thể lợi dụng tiền của mọi người để cho vay những người có nhu cầu và có lợi
hơn nhiều so với nhận phí và do vậy từ việc nhận phí họ đã tiến tới trả cho những
người gửi tiền một khoản để thu hút tiền gửi và hình thành những ngân hàng
thương mại sơ khai. Vậy có thể thấy nghiệp vụ ủy thác đã xuất hiện từ rất sớm tuy
rằng còn sơ khai và khác nhiều so với ngày nay.
Dễ thấy, ban đầu nghiệp vụ ủy thác dựa trên cơ sở sự tin tưởng lẫn nhau
giữa những người có quan hệ ủy thác. Vì vậy trong tiếng Anh có thuật ngữ “Trust”
(có nghĩa là đúng, tín nhiệm, tin tưởng ) được sử dụng để chỉ tới nghiệp vụ ủy thác
và nó đã cho thấy bản chất của nghiệp vụ ủy thác là nghiệp vụ được thực hiện trên
cơ sở của sự tin tưởng và sự tín nhiệm lẫn nhau giữa các bên trong xã hội.
Ban đầu, nghiệp vụ ủy thác đa số chỉ xuất hiện trong những quan hệ cá nhân
với cá nhân và dựa nhiều vào sự tin tưởng mang tính cá nhân cao giữa hai bên. Cá
nhân có tài sản trên cơ sở nhận thấy một người khác có uy tín cao, có khả năng
đảm bảo an toàn hay có khả năng làm cho tài sản của mình sinh lợi sẽ giao cho
người đó tài sản của mình để quản lý hay kinh doanh hộ mình. Người có tài sản thì
có thể an tâm về số tài sản của mình không lo bị cướp hay thất lạc và trong một số
trường hợp họ còn có thể nhận được một khoản lợi nhuận nhỏ. Trong khi đó thì
người nhận quản lý tài sản vừa có thể nâng cao được uy tín của mình vừa nhận
được một khoản phí hay có thể mang tài sản đó ra kinh doanh sinh lời (nếu chủ sở
hữu đồng ý ) tuy trong giai đoạn đầu thì loại hình này ít khi xảy ra. trong giai
đoạn này thì ủy thác được hiểu là việc bảo đảm, quản lý hộ tài sản của người khác
và được tiến hành dựa trên cơ sở sự tin tưởng cá nhân giữa hai bên.
Ngay từ giai đoạn này của nghiệp vụ ủy thác thì đối tượng của các hợp đồng
ủy thác đã khá đa dạng bao gồm tiền, nhà đất, vàng bạc, đồ trang sức,... và có đặc
điểm rất quan trọng là chưa có sự tham gia của luật pháp mà chỉ là sự thoả thuận
miệng giữa hai bên tham gia ủy thác trên cơ sở tin tưởng và hai bên cùng có lợi.
Dần dần cùng với sự phát triển của sản xuất, nghiệp vụ ủy thác có nhiều
thay đổi. Lúc này, không chỉ còn là mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau mà còn
là mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức hay giữa tổ chức với tổ chức. Trong kinh
14
tế thị trường xuất hiện nhu cầu của các công ty có lượng vốn nhàn rỗi, hay có tài
sản chưa sử dụng mong muốn tài sản của mình gặp ít rủi ro nhất hay mong sinh lời
một cách hợp lý đã tìm đến những người có khả năng đáp ứng một cách tốt nhất
những đòi hỏi đó. Khi đó nghiệp vụ ủy thác phát triển tới một mức độ cao, xuất
hiện những tổ chức chuyên nghiệp cung ứng dịch vụ ủy thác cho toàn xã hội và
lúc này hoạt động ủy thác không còn đơn thuần là quản lý tài sản để nhận phí mà
chuyển sang chủ yếu là lĩnh vực quản lý tài sản nhằm sinh lời và thực hiện các
công việc mà khách hàng yêu cầu.
Trong giai đoạn phát triển này, các loại hinh tổ chức tín dụng đã phát triển
mạnh mẽ với hàng loạt các công ty mới như công ty bảo hiểm, các quỹ tiết kiệm
tín thác dành cho người nghèo... Với đặc điểm khách hàng đến với công ty bảo
hiểm luôn e ngại với các rủi ro mà họ có thể gặp phải, các công ty bảo hiểm đã
nhanh chân hơn các tổ chức tín dụng khác trong việc phát triển nghiệp vụ ủy thác
cho phép khách hàng có thể yên tâm về sự an toàn của các tài sản của họ khi ủy
thác chúng cho công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, nghiệp vụ ủy thác của công ty bảo
hiểm chỉ được phép dừng ở mức độ quản lý tài sản để hưởng phí chứ chưa nghĩ tới
việc sử dụng chúng để sinh lợi.
Trong khi đó thì hệ thống các quỹ tín thác dành cho người nghèo đã nghĩ tới
việc sinh lợi cho tài sản của khách hàng khi thực hiện thu gom những đồng tiền
nhỏ bé của người nghèo tập trung lại và ủy thác cho người quản lý quỹ để gửi
ngân hàng lấy lãi hay đầu tư vào chứng khoán để sinh lợi. Lãi thu được sẽ chia
theo tỷ lệ tiền gửi của từng người. Quỹ này trao cho những người nghèo một cơ
hội sinh lợi từ số tiền nhỏ bé của họ, hình thức này được coi như sự phát triển bậc
thấp của dịch vụ ủy thác vốn.
Ngân hàng tuy có chậm hơn trong việc phát triển nghiệp vụ ủy thác nhưng
lại là tổ chức thực hiện mạnh nhất và trong những năm 50 của thế kỷ 20 nghiệp vụ
ủy thác được coi là chìa khóa mở ra các hướng hoạt động mới của ngân hàng
thương mại trong tương lai. Tại ngân hàng, các tài khoản ủy thác thường được
chia rõ tài khoản nào được phép mang ra đầu tư, cho vay tài khoản nào chỉ được
phép quản lý.
Với sự đa dạng của các tổ chức có thực hiện nghiệp vụ ủy thác thì những
người có nhu cầu đã có thêm nhiều phương hướng lựa chọn để họ có thể lựa chọn
được người nhận ủy thác phù hợp với yêu cầu của họ nhất.
15
Khi nền kinh tế thị trường phát triển tới đỉnh cao kéo theo sự phát triển của
mọi mặt và sự phân công lao động sản xuất làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới
với sự chuyên môn hóa cao Đặc trưng của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh,
tự do sản xuất, tự do kinh doanh và tự do mậu dịch. Sự phát triển của nghiệp vụ ủy
thác cũng vậy, tự những hình thức sơ khai ban đầu, dần dần các nghiệp vụ đã được
hoàn thiện, phát triển thành nhiều loại hình mới như ủy thác công việc, ủy thác
hàng hoá xuất nhập khẩu,... mà trong đó ủy thác vốn ngày càng trở nên quan trọng
và thu hút được nhiều sự quan tâm của khách hàng. Vốn cũng là một loại hàng hóa
và có cung, cầu cùng một mức giá cả cho quyền sử dụng vốn. Vì vậy thị trường
vốn đã được tạo lập và ngày càng phát triển các công cụ vốn đa dạng, phức tạp.
Kinh tế càng phát triển càng có nhiều luồng vốn dịch chuyển trong nước và quốc
tế, từ đó xuất hiện nhu cầu những tổ chức chuyên môn với hiểu biết chuyên sâu và
khả năng nắm vững những công cụ vốn để phục vụ cho thị trường này, đó là trung
gian tài chính.Hệ thống các tổ chức này càng lành mạnh và hoàn chỉnh thì thị
trường vốn càng có hiệu quả, đóng vai trò đòn bẩy kinh tế, tạo chất xúc tác cho các
phản ứng dây chuyền phát triển nền kinh tế, theo cách này các trung gian tài chính
có thể giúp thúc đẩy nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Theo truyền thống thì các ngân hàng thương mại là trung tâm hội tụ các
nguồn cung cầu về vốn và là trung gian tài chính quan trọng nhất. Tuy vậy, càng
ngày vai trò này càng được chia sẻ cho các tổ chức tài chính trung gian khác như:
Cong ty đầu tư, Công ty tín dụng thuê mua, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ đầu tư
tương hỗ,... Những trung gian tài chính thu được lợi nhuận bằng việc đặt một lãi
xuất cao hơn cho các món cho vay so với món lãi họ thanh toán cho vốn mà họ
vay từ người cho vay. Như vậy, do hoạt động trong quá trình tài chính gián tiếp,
những trung gian tài chính có thể làm lợi cho phần lớn những người có món tiết
kiệm nhỏ bằng việc đem lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và có thể giúp cho người
vay món nhỏ nay có thể vay được tiền vốn mà họ không có cách nào khác để có
được (điển hình là công ty tài chính chuyên vay món tiền lớn để chovay các khoản
nhỏ với thời hạn dài). Những người vay các món tiền lớn cũng hưởng lợi bởi vì
quá trình trung gian tài chính có nghĩa là có được nhiều vốn hơn cho người vay
trong thị trường tài chính. Không có trung gian tài chính thị trường tài chính
không thể có lợi ích trọn vẹn.
16
Khách hàng cung cấp vốn cho các trung gian tài chính này là những người,
những tổ chức có số tiền dư thừa, chưa được mang ra sử dụng. Những người này
mong muốn số tiền này sinh lời nhưng lại e ngại có thể mắc phải rủi ro. Họ có thể
gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, hay mua trái phiếu, tín phiếu của chính phủ vì đây
là cách để đồng tiền của họ có thể sinh lời với mức an toàn cao nhất có thể. Nhưng
cũng có những người mong muốn một mức lợi nhuận cao hơn dù phải gánh chịu
rủi ro cao hơn bàng cách đầu tư trực tiếp vào các dự án hay thị trường chứng
khoán. Tuy nhiên nếu theo phương pháp này thì nhà đầu tư phải tự mình gánh chịu
hoàn toàn rủi ro, phải tự đi thu nhận các thông tin cần thiết. Và đôi lúc lợi nhuận
các nhà đầu tư nhận được không đủ cho các chi phí mà họ đã phải bỏ ra.
Nhằm trung hoà hai thái cực này, thoả mãn những người mong muốn có lợi
nhuận không quá thấp và rủi ro phải chịu không quá lớn thì ngiệp vụ ủy thác có
thể được coi là một giải pháp tốt. Từng chứng minh được lợi ích của mình khi
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ ủy thác với các loại hàng hoá thông thường hay
các công việc mà khách hàng tin cậy giao phó, chuyển sang thực hiện ủy thác vốn
của các khách hàng nghiệp vụ này của các trung gian tài chính tỏ ra có sức thuyết
phục lớn. Những người có tiền hay tài sản nhàn rỗi hay tạm thời nhàn rỗi thì họ có
thể sử dụng phương pháp ủy thác đầu tư chứng khoán thông qua các tổ chức trung
gian hay ủy thác tài sản bằng tiền để đầu tư vào các công trình, dự án của một
công ty cụ thể hoặc cho tổ chức tín dụng đầu tư hộ mình. Với phương pháp ủy
thác thông qua tổ chức tín dụng, những cá nhân hay tổ chức có vốn dư thừa chưa
sử dụng có thể an tâm vì với những món tiền ủy thác này, các tổ chức tín dụng có
thể tập hợp lại thành một món tiền lớn và dung nó đầu tư, kinh doanh sinh lời vì
họ là những người am hiều đối với việc cho ai vay hay mua loại chứng khoán nào
hay đầu tư vào dự án nào là có lợi nhất và lợi thế tiết kiệm chi phí nhờ qui mô.Như
vậy nghiệp vụ ủy thác đã tiến tới quản lý vốn và tài sản để sinh lời cho khách hàng
và bản thân tổ chức nhận ủy thác.
Tuy ngày nay trên thế giới các ngân hàng thương mại luôn là tổ chức thực
hiện nghiệp vụ ủy thác với qui mô lớn và dành cho nó sự quan tâm nhiều nhất
nhưng càng ngày càng có nhièu tổ chức trung gian tài chính khác quan tâm nhiều
hơn tới nghiệp vụ này trong đó phải kể tới các công ty tài chính độc lập và các
công ty tài chính trong các tập đoàn lớn. Các tập đoàn lớn sản xuất kinh doanh nay
đã quan tâm nhiều hơn tới việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác, các tập đoàn thường
17
đóng vai trò người ủy thác và giao vốn cho công ty tài chính thuộc tập đoàn mình
hoặc cho một tổ chức tín dụng thực hiện việc đầu tư kinh doanh hộ. Các công ty,
tập đoàn lớn cũng có thể lựa chọn phương pháp ủy thác vốn trực tiếp vào các cơ
sở. Tuy nhiên hình thức này không nhiều vì không phải công ty hay tập đoàn nào
cũng có đủ thông tin cần thiết hay có khả năng quản lý bao quát hết mọi việc, cũng
như không phải bất cứ thành phần kinh tế nào cũng được pháp luật cho phép nhận
ủy thác.
Và hiện nay ở nước ta, nghiệp vụ ủy thác đang được hy vọng nhiều vào việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như giúp cac doanh nghiệp cần vốn có nhiều
cơ hội hơn trong việc thu hút nguồn vốn. Nghiệp vụ ủy thác không chỉ mang lại
lợi ích cho hai bên ủy thác và nhận ủy thác mà cả Nhà nước cũng được hưởng lợi
trong nghiệp vụ này. Với các khoản ủy thác từ nước ngoài đầu tư vào các doanh
nghiệp trong nước, Nhà nước thu được thuế như đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trong nước chứ không phải cho phép hưởng ưu đãi như với các công trình
có vốn đầu tư nước ngoài.
Vậy thế nào là nghiệp vụ ủy thác ?
1.2.2. Khái niệm về ủy thác ?
Hiện nay, có khá nhiều định nghĩa về ủy thác. Theo từ điển “Kinh tế hiện
đại” thì nghiệp vụ ủy thác là việc tài sản của một người được giao cho người khác
kinh doanh và quản lý. Người được nhận trách nhiệm quản lý tài sản không được
thụ hưởng lợi nhuận được sinh ra của tài sản, còn người giao tài sản không có
quyền nắm giữ tài sản của mình. Ngoài ra, người giao quyền quản lý còn phải trả
cho người quản lý một khoản phí.
Theo định nghĩa trong cuốn “Ngân hàng thương mại” của Eward W.Reed và
Eward K.Gill, thì mối quan hệ ủy thác xuất hiện khi nảy sinh một thoả thuận ủy
thác giữa người ủy thác và người nhận ủy thác. Nó xuất hiện khi có một bên cung
ứng dịch vụ ủy thác và một bên có nhu cầu ủy thác gặp nhau tạo ra một hợp đồng
ủy thác trong đó có xảy ra việc chuyển nhượng tài sản từ người ủy thác sang người
nhận ủy thác (hay người cung ứng dịch vụ ủy thác ) để người này quản lý, điều
hành vì lợi ích của người ủy thác hay của người thụ hưởng. Còn đối với bên nhận
ủy thác thì việc cung cấp một dịch vụ ủy thác làm nảy sinh mối quan hệ ủy thác,
nghĩa là một bên hoạt động vì lợi ích của bên kia trong phạm vi mối quan hệ của
18
họ và trong hầu hết các trường hợp bao gồm việc nắm giữ tài sản được điều hành
bởi người nhận ủy thác vì lợi ích của một bên hoặc bên thứ ba.
Như vậy, hoạt động ủy thác là một hoạt động thể hiện rõ tính trung gian của
các tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác. Nó cho phép những người không có khả
năng kinh doanh, quản lý tài sản hay công việc của mình tìm tới một đội ngũ
những nhà chuyên môn có khả năng hoàn thành những mục tiêu mà họ mong
muốn đối với tài sản hay công việc của mình. Việc này là có lợi không chỉ xét từ
góc độ người ủy thác và người nhận ủy thác mà còn cho cả xã hội vì nó làm giảm
chi phí chung cho toàn xã hội và hiệu quả hơn cho nền kinh tế nói chung.
Vậy, ta có thể rút ra: Nghiệp vụ ủy thác là một hành vi theo đó bên nhận ủy
thác (hay được ủy thác ) thực hiện việc quản lý tài sản theo cách đã thỏa thuận với
bên ủy thác, thoả thuận này được qui định chi tiết bằng văn bản trong hợp đồng ủy
thác, nhằm đem lại lợi ích cho bên ủy thác hay bên thứ ba-gọi là bên thụ hưởng.
“Tài sản” ở đây được hiểu theo một ý chung, đó là một công việc,ý muốn hay là
bất động sản, trái phiếu, chứng khoán, tiền mặt,... của một người hay một số
người. Những người, có thể là một người, có tài sản đem giao cho người khác
quản lý hộ được gọi chung là bên ủy thác. Bên tiếp nhận quản lý số tài sản này gọi
là bên nhận ủy thác.Trong hoạt động này, bên ủy thác sẽ trả cho bên nhận ủy thác
một khoản tiền để quản lý tài sản của mình gọi là phí.Mức phí này tuỳ thuộc vào
tính chất cũng như khả năng sinh lời của tài sản. Các dịch vụ ủy thác phức tạp,
mang tính kỹ thuật và pháp lý cao, do vậy thông thường khi phát sinh nghiệp vụ
ủy thác cụ thể sẽ có một văn bản qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm của hai bên
ủy thác và nhận ủy thác, cũng như qui định rõ về đối tượng hưởng lợi ích từ tài sản
trong nghiệp vụ ủy thác, gọi là bên thụ hưởng, đó có thể là bên ủy thác mà cũng có
thể là bên thứ ba.
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng ủy thác.
Như trên đã nêu, nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ mang tính kỹ thuật và
tính pháp lý cao và vô cùng phức tạp. Nó có liên quan tới nhiều thành phần, tổ
chức trong xã hội, nền kinh tế nên không thể đơn thuần dựa trên sự tin cậy lẫn
nhau giữa hai bên mà nó cần có một sự đảm bảo về mặt pháp lý. Do vậy, mỗi khi
xuất hiện một quan hệ ủy thác thì sẽ có một hợp đồng giữa các bên tham gia, nó
cho phép bên ủy thác có thể an tâm hơn rằng mong muốn của mình sẽ được thực
19
hiện còn bên nhận ủy thác sẽ ý thức đầy đủ về quyền lợi và trách nhiệm của họ
trong mối quan hệ ủy thác đó.
Trong một hợp đồng ủy thác có xuất hiện ít nhất là hai bên: bên ủy thác và
ben nhận ủy thác. Các bên này có thể là các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ
chức tín dụng, các tổ chức từ thiện,... Ngoài ra thì các cơ quan nhà nước cũng có
thể là thành viên trong quan hệ ủy thác.
Bên ủy thác (trustor) là bên có tài sản nhưng không tự kinh doanh, quản lý
mà ủy thác cho người khác thực hiện việc này giúp họ, họ cũng có thể là người lập
ra các quỹ chuyên dành cho một mục đích nào đó hay một lớp người nào đó thụ
hưởng và giao quỹ này cho người được ủy thác để phân phối cho người thụ hưởng.
Bên thụ hưởng (benefitciary) là bên thứ ba, bên nhận lợi ích, lợi nhuận
được sinh ra từ tài sản.
Bên nhận ủy thác (trustee) là bên nhận ủy thác, bên thụ thác, bên được ủy
thác, ủy trị. Đây là thể nhân hoặc pháp nhân được tạm thời giao quyền sở hữu
những tài sản hoặc quyền lợi của người ủy thác, có trách nhiệm hành động vì lợi
ích của người ủy thác hoặc người thụ hưởng khác nhằm đạt được mục đích hai bên
đã thoả thuận.
Các dịch vụ ủy thác có thể được thực hiện bởi các cá nhân hoặc các tổ chức,
bao gồm các phòng ủy thác của ngân hàng thương mại hay công ty tài chính.
Nhưng vì những thuận lợi mà các tổ chức nhận ủy thác có được so với các cá nhân
nên hầu hết dịch vụ ủy thác đều được phòng ủy thác của các tổ chức tài chính
trung gian thực hiện. Những thuận lợi này có được là nhờ kinh nghiệm, thâm niên,
trách nhiệm tài chính, khả năng đáp ứng các khoản nợ, chuyên môn hoá, xét duyệt
tập thể, tính công bằng và tính thích ứng.Hầu hết những thuận lợi này phát sinh từ
đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp làm việc ở phòng ủy thác. Bởi vì các tổ chức nói
chung tồn tại lâu dài, nhân sự có khả năng và kinh nghiệm có thể được thuê để
thực hiện các hợp dồng ủy thác và các dịch vụ ủy thác khác mà công ty đã cam
kết.
Hợp đồng ủy thác và dịch vụ ủy thác bao gồm số tiền và tài sản lớn. Người
lập ra hợp đồng ủy thác hoặc có các dịch vụ ủy thác khác có quan tâm đến khả
năng tài chính của người nhận ủy thác. Có rất ít cá nhân nào có đủ vốn để đảm bảo
với người ủy thác rằng họ có đủ khả năng tài chính để đáp ứng tiêu chuẩn này.
(Các dịch vụ ủy thác phải được thực hiện đúng hẹn, khẩn trương, tạo ra các phòng
20
ủy thác của các tổ chức nhạy bén với các cam kết hơn là các cá nhân có quá nhiều
trách nhiệm)
Trong một công trình nghiên cứu nổi bật về dịch vụ ủy thác đã cho thấy
“trách nhiệm cơ bản của một người nhận ủy thác là trung thành, tuân theo chỉ thị,
có khả năng và siêng năng”. Việc tiến hành dịch vụ ủy thác, lòng trung thành nói
lên rất nhiều điều. Người nhận ủy thác phải trung thành với người ủy thác và
người thụ hưởng và không bao giờ bị thúc đẩy bởi tư lợi. Các lệ phí thích hợp đối
với việc thực hiện các dịch vụ đưa ra được chấp nhận nhưng việc sử dụng vốn ủy
thác cho các lợi ích riêng thì hoàn toàn bị nghiêm cấm. Khi một bên nhận ủy thác
thì có nghĩa là đã có một thoả thuận trong đó bao gồm sự tin tưởng và ủy thác và
người nhận ủy thác bị ràng buộc phải tuân theo hợp đồng về mặt pháp lý, phải có
các tiêu chuẩn cao về sự thành thực, sự ứng xử kinh doanh và có trách nhiệm bảo
vệ hợp đồng.
Bộ phận ủy thác phải tuân theo các chỉ thị và các điều khoản của hợp đồng
ủy thác, di chúc, lệnh của toà án, hoặc hợp đồng đại diện. Nó không thể nhận một
trách nhiệm rồi sau đó quyết định rằng, các hành động khác sẽ tốt hơn. Tuy nhiên,
điều này không có nghĩa là trong trường hợp có một số biến cố bất thường, những
thay đổi vẫn không được thực hiện. Các cá nhân và doanh nghiệp sử dụng các dịch
vụ ủy thác có quyền đưa ra các yêu sách và có thẩm quyền lớn trong lĩnh vực này
và các bộ phận ủy thác không thể đổ lỗi cho sự thiếu hiểu biết hoặc bỏ quên mà
phải thường xuyên siêng năng hoàn thành mục tiêu của hợp đồng. Trách nhiệm
này là lớn lao nhưng không có nghĩa là người nhận ủy thác là người bảo đảm do
khi họ nhận ủy thác họ chỉ được thực hiện những gì trong hợp đồng đã thỏa thuận
và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi hoạt động cụ thể, người ủy thác không thể
buộc họ phải làm những gì quá trách nhiệm của họ và không thể yêu cầu họ đảm
bảo rằng không có bất kỳ rủi ro nào xảy ra với các vấn đề được ủy thác.Tuy nhiên
họ là những người bảo đảm nếu các thiệt hại xảy ra do lỗi của chính họ.
1.2.4. Phân loại ủy thác:
Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay chưa có sự qui định cụ thể về các loại
hình ủy thác được phép thực hiện nên sự phân loại này chủ yếu dựa trên các loại
dịch vụ ủy thác đã được tiến hành và được cấp phép ở nước ngoài.
a) Các dịch vụ ủy thác được thực hiện đối với cá nhân:
21
Trên thực tế, hầu hết các dịch vụ ủy thác với cá nhân đều được thực hiện bởi
các ngân hàng thương mại và vì ứng với nhu cầu đa dạng của các cá nhân nên các
dịch vụ ủy thác tương ứng của ngân hàng thương mại cũng là rất lớn. Do vậy ở
đây chỉ nhắc đến những chức năng chủ yếu gồm thanh lý tài sản, điều hành ủy
thác, phục vụ như người bảo vệ và bảo quản tài sản, thực hiện các dịch vụ đại
diện.
+ Thanh lý tài sản: Trong di chúc của mình, người chết thường chỉ định
người thực hiện di chúc để thực hiện các ý muốn của họ - thường là các phòng ủy
thác của ngân hàng thương mại. Người phân chia tài sản không có di chúc để lại
được gọi là người quản lý tài sản và được toà án chỉ định, trách nhiệm này có thể
giao cho phòng ủy thác. Ngoài việc phục vụ như người thực hiện di chúc hay
người quản lý tài sản, các bộ phận tín thác có thể phục vụ hai khả năng khác nhau:
một là, như nhà quản lý tài sản bằng di chúc hoặc hai là, như nhà quản lý thanh lý
tài sản.Bổn phận cơ bản của một người quản lý tài sản hay thực hiện di chúc là xin
phép toà án để hành động, thu thập và bảo vệ các tài sản, chi trả các chi phí điều
hành và các khoản nợ, thuế, phân phát tài sản ròng và cung cấp các dịch vụ cá
nhân cho các thành viên trong gia đình.
+ Việc điều hành các ủy thác cá nhân: đây là ủy thác nảy sinh từ một thoả
thuận giữa người ủy thác và người nhận ủy thác bao gồm việc chuyển nhượng tài
sản từ người khởi xướng hay người ủy thác sang cho người nhận ủy thác để người
này nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi ích của người ủy thác hay của người thụ
hưởng.
+ Đóng vai trò là người giám hộ và người bảo quản tài sản: Khi một người
đang trong độ tuổi vị thành niên, được xem là không có năng lực pháp lý về quản
lý và nắm giữ tài sản, thừa kế tài sản, một người giám hộ được chỉ định để nắm
giữ tài sản đó, thông thường trách nhiệm này được giao cho bộ phận ủy thác.
+Dịch vụ đại diện: dịch vụ này khác đáng kể so với dịch vụ ủy thác thuần
tuý, trên nhiều phương diện. Trong ủy thác, quyền hành động với các tích sản ủy
thác được chuyển sang cho người nhận ủy thác nhưng trong dịch vụ đại diện
quyền hành đối với tài sản không được chuyển sang cho người đại diện mà vẫn ở
trong tay người sở hữu. Một dịch vụ đại diện xảy ra khi một người, thường được
gọi là người ủy nhiệm, cho phép người khác làm đại diện và hành động thay cho
người ủy nhiệm.Một dịch vụ đại diện tiêu biểu là một sự dàn xếp về hợp đồng.
22
Các dịch vụ đại diện thường ít liên kết chặt chẽ hơn so với tín thác và có thể chấm
dứt ít phức tạp hơn.
b ) Dịch vụ ủy thác đối với các doanh nghiệp
Hầu hết các nghiệp vụ ủy thác được thiết lập bởi các doanh nghiệp nhằm
phục vụ cho các mục đích trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận và chia tiền thưởng
cổ phần, cho phát hành trái phiếu; cho mua lại các quỹ và giữ lại các quỹ để thanh
toán cho việc phát hành trái phiếu ủy thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận.
Ngoài việc cung cấp các kế hoạch khác nhau nhằm đảm bảo lợi ích của
công nhân mà thông thường là các kế hoạch tự cấp vốn, tín thác đầu tư vốn, lưu sổ
mức tiền mà mỗi công nhân nhận được, chi trả cho họ phù hợp với thoả thuận ủy
thác thì các phòng ủy thác còn thực hiện “người nhận ủy thác theo khế ước”. Khi
các công ty vay nợ dài hạn, các trái phiếu, tín phiếu hay giấy vay nợ thường được
phát hành. Nếu các chứng khoán này được bảo đảm, người nhận ủy thác theo khế
ước thường có quyền hợp pháp với các tài sản được lưu giữ đại diện cho người
nắm giữ trái phiếu và có quyền tịch thu tài sản thế chấp nếu người ký khế ước
không hoàn trả vốn gốc và lãi.Nhiều hoạt động được thực hiện với hình thức này
bao gồm việc chuyển nhượng quyền sở hữu các chứng khoán, thực hiện chi trả lãi
và vốn gốc, giải chấp cho các tài sản được thế chấp, xử lý các quỹ được tạo ra
nhằm chuộc lại các trái phiếu; bảo quản sổ sách và thực hiện các báo cáo cho
những người nắm giữ trái phiếu, công ty phát hành, các cơ quan điều hành và sở
giao dịch chứng khoán. Trong một vài trường hợp, người nhận ủy thác có thể phát
hành các giấy chứng nhận ủy thác trang thiết bị như công cụ tín dụng được bảo
đảm bởi trang thiết bị.(Trang thiết bị được chuyển cho bộ phận ủy thác và đơn vị
thuê các thiết bị đó có trách nhiệm trả tiền thuê đối với việc sử dụng những thiết bị
đó cho người nhận ủy thác và sau đó chi trả cho người nắm giữ các giấy chứng
nhận.)
Các bộ phận ủy thác thực hiện một số chức năng đại lý cho doanh nghiệp,
nó đóng vai trò là người đại lý chuyển nhượng, liên quan tới việc chuyển nhượng
quyền sở hữu cổ phiếu của một công ty. Thêm vào đó là vai trò người đại lý trao
đổi cũng rất giống như là một đại lý chuyển nhượng. Khi thực hiện dịch vụ này,
người nhận ủy thác nhận một loại chứng khoán và giao lại một loại chứng khoán
khác phù hợp với các kế hoạch định trước.
23
Các công ty cổ phần có nhiều cổ đông thường không quan tâm đến việc chi
trả lãi đối với các cổ phiếu nên họ nhờ tới phòng ủy thác để phục vụ như một đại
diện chia lãi cổ phần, phòng ủy thác nhận chi trả cho công ty khi đến hạn trả lãi cổ
phần.
Hiện nay, cùng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường thì nhiều
bộ phận ủy thác lớn trong các tổ chức tín dụng đã cạnh tranh mãnh liệt trong việc
đưa ra các dịch vụ quản lý đầu tư, tách rời khỏi các dịch vụ ủy thác khác mà
nghiệp vụ quan trọng nhất là cung cấp các dịch vụ quản lý cho các doanh nghiệp.
Mục đích của các dịch vụ này là làm cho vốn lưu động tạm thời nhàn rỗi của các
doanh nghiệp được sinh lợi, càng cao càng tốt, phù hợp với sự an toàn và thanh
khoản hàng ngày. Điều này được thực hiện qua việc đầu tư vào các công cụ thị
trường tiền tệ chất lượng cao, các thoả thuận mua lại, quỹ thị trường tiền tệ.
c) Dịch vụ ủy thác được thực hiện cho các tổ chức từ thiện và những tổ
chức khác:
Họ có thể đóng vai người nhận ủy thác cho các tổ chức xã hội dưới hình
thức quà biếu để đẩy mạnh việc nghiên cứu, trợ giúp các trường học, các tổ chức
từ thiện và các tổ chức nhân đạo. Họ có thể đóng vai người đại diện quản lý đầu tư
đối với quỹ quyên góp.
Sự phân loại như trên thực chất là dựa nhiều theo mô hình của các ngân
hàng thương mại nhưng cũng có thể áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng khác
như công ty tài chính, bảo hiểm,... Cách phân loại này dựa theo tiêu chí các khách
hàng của dịch vụ ủy thác hay là các đối tượng ủy thác, số nghiệp vụ ủy thác loại
này là rất nhiều do có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ ủy thác. Sự
phân chia trên giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về các loại hình ủy thác thường
thấy với mỗi đối tượng tham gia ủy thác. Nếu xét trên giác độ các loại hình ủy
thác thì chúng ta có thể phân ra làm ba loại chính là:
+ ủy thác quản lý tài sản
+ủy thác quản lý vốn
+ủy thác thực hiện công việc
Nghiệp vụ ủy thác quản lý tài sản thực chất là việc bên ủy thác giao quyền
sử dụng các tài sản cuả họ cho bên nhận ủy thác nhưng trên thực tế ở Việt Nam thì
nghiệp vụ này còn rất khó triển khai do có vướng mắc về luật pháp trong vấn đề
quyền sở hữu.
24
Nghiệp vụ ủy thác thực hiện công việc do mang tính cá nhân cao nên hầu
hết do các ngân hàng thương mại vốn có quan hệ rộng khắp trong xã hội và có
nhiều điều kiện hơn các tổ chức tín dụng khác thực hiện.
Do các lý do trên và khuôn khổ bài viết là về ủy thác tại công ty tài chính
nên ta sẽ đi sâu vào loại hình ủy thác quản lý vốn.
1.3. ủy thác quản lý vốn
1.3.1. Khái niệm
Trong xã hội luôn tồn tại những người có vốn nhưng vì một số lý do nào đấy
như sợ rủi ro hay không có trình độ quản lý, thiếu thông tin,.... Đó chính là những
khách hàng tiềm năng của phòng ủy thác mà cụ thể là với nghiệp vụ ủy thác quản
lý vốn của phòng ủy thác. Tuy hai loại hình ủy thác là ủy thác quản lý tài sản và
ủy thác công việc cũng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây nhưng ủy
thác quản lý vốn với đặc thù quản lý những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội đang
trở thành vấn đề cấp bách với các tổ chức tín dụng. Xã hội càng phát triển thì sự
phân công lao động và chuyên môn hoá càng phát triển, xuất hiện ngày càng
nhiều người có vốn nhàn rỗi dưới nhiều hình thức nhưng không phải ai trong số họ
cũng có khả năng nắm bắt được các cơ hội đầu tư và có khả năng kinh doanh,
quản lý có hiệu quả lượng vốn của mình. Nhằm giải quyết vấn đề này và để vốn
luân chuyển có hiệu quả trên thị trường những người này có thể sử dụng dịch vụ
ủy thác quản lý vốn của các tổ chức tín dụng.Chỉ có các tổ chức tín dụng mới là
những người quản lý vốn tốt nhất do họ có đầy đủ thông tin, có kiến thức và quan
trọng nhất là họ có thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng. Chúng ta đã biết tổ chức
tín dụng đóng vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường, tiếp nhận
và cung cấp vốn vào các kênh phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế. Do
đó, tại các tổ chức tín dụng thì nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn rất phát triển. Các tổ
chức tín dụng có thể đóng cả hai vai trò người nhận ủy thác lẫn người ủy thác. Các
tổ chức tín dụng nếu là người ủy thác sẽ phải cùng với các cơ quan nhận ủy thác
khác thực hiện việc đầu tư số vốn đó vào các dự án, công trình theo thoả thuận đã
ký kết giữa hai bên. Các cá nhân, công ty, doanh nghiệp cũng thực hiện nghiệp vụ
ủy thác vốn nhưng kém phát triển hơn và theo luật thì không phải doanh nghiệp
nào cũng được thực hiện nghiệp vụ ủy thác vốn.
25
Vậy nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn là hành vi theo đó bên được ủy thác tiến
hành nhận quyền quản lý và sử dụng vốn ủy thác từ bên ủy thác và sử dụng vốn
này như là vốn kinh doanh của mình để sinh lời.Việc kinh doanh này có thể là đầu
tư hoặc cho vay lại.
1.3.2. Phân loại ủy thác vốn
Có nhiều hình thức để phân loại nguồn vốn ủy thác dựa trên tính chất, đặc
điểm của nguồn vốn đó. Do đặc điểm nghiên cứu trong công ty tài chính nên ta sẽ
đứng ở vị trí bên nhận ủy thác để phân loại vốn.
A. Phân loại vốn ủy thác theo nguồn giao vốn
Trong quan hệ ủy thác có nhiều bên tham gia nhưng phải kể đến đầu tiên là
bên ủy thác do đó ta có thể phân loại vốn theo đặc điểm của đơn vị ủy thác.
A.1. Nguồn vốn ủy thác từ cá nhân
Các cá nhân cũng có thể tham gia nghiệp vụ ủy thác vốn tuy số tài sản của
họ ủy thác thường là không lớn. Các cá nhân thực hiện công việc này nhằm mục
đích giao tài sản cho những người có khả năng và kinh nghiệm để chia sẻ rủi ro,
giảm thuế và đầu tư sinh lời.
A.2. Nguồn vốn ủy thác từ Chính phủ
Số vốn này được chính phủ ủy thác cho tổ chức tín dụng nhằm mục đích qua
các tổ chức này có thể đưa vốn đến các đơn vị kinh doanh theo yêu cầu của mình.
Lý do của việc chính phủ ủy thác vốn là nhằm mục đích cung cấp thêm vốn cho
những công ty làm ăn không có hiệu quả nhưng lại có thị trường rộng lớn, có tính
xã hội cao hoặc nằm tại các địa bàn chiến lược. Do đó, chính phủ sẽ vẫn để duy trì
các công ty này bằng cách giao thêm vốn cho nó. Các loại hình tổ chức tín dụng
hiện nay đang rất phát triển nên chính phủ sẽ thông qua đơn vị trung gian là tổ
chức tín dụng để giao vốn cho các công ty đang gặp khó khăn. Các tổ chức tín
dụng sẽ là bên nhận ủy thác, họ sẽ mang vốn đó để đầu tư vào các công ty đó hay
cho các công ty này vay. Như vậy, các tổ chức tín dụng sẽ thay mặt chính phủ thu
tiền lãi từ số vốn đầu tư hoặc cho vay đồng thời họ sẽ được chia phần trăm hoa
hồng tuỳ theo thoả thuận được ký kết giữa hai bên.
A.3. Nguồn vốn ủy thác từ nước ngoài
Vốn ủy thác từ nước ngoài ủy thác vào một nước xuất phát từ nhiều nguồn
khác nhau. Lý do là do sự khác nhau về chế độ chính trị hoặc không có đủ thông
26
tin để có thể đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ủy thác vốn cho các tổ
chức tín dụng, đơn vị kinh doanh để họ thực hiện việc kinh doanh, sinh lợi hộ
mình. Ta có thể phân ra thành các loại hình chính.
A.3.1) Bên ủy thác là chính phủ nước ngoài: Việc ủy thác thực chất là
hình thức chuyển giao vốn có sự đồng ý của chính phủ hai nước. Chính phủ nước
nhận ủy thác sẽ chỉ định một tổ chức tín dụng nào đó có uy tín và khả năng thích
hợp với yêu cầu đứng ra làm bên nhận ủy thác. Khoản vốn này sẽ dược mang đầu
tư hoặc cho vay lại. Tuy nhiên với hình thức này, các tổ chức tín dụng sẽ phải chịu
toàn bộ trách nhiệm với kết quả kinh doanh của mình. Do đó, các tổ chức tín dụng
phải xem xét đến các hình thức phòng ngừa rủi ro.
A.3.2) Vốn ủy thác từ công ty, doanh nghiệp kinh doanh, tổ chức tín
dụng nước ngoài
Các công ty, doanh nghiệp nước ngoài vì các lý do khác nhau đã chọn hình
thức ủy thác vốn. Các công ty, doanh nghiệp này thường lựa chọn trước các mục
tiêu mà mình sẽ cho vay hoặc dầu tư rồi mới ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng
thực hiện. Trong hình thức này các ngân hàng thường được lựa chọn vì lợi thế có
các mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước. Tuy vậy cũng có một số công ty tài
chính cũng được chọn làm bên nhận ủy thác vì các công ty tài chính có khả năng
và tầm nhìn xa, trông rộng hoặc do các công ty nước ngoài muốn đưa vốn vào các
tập đoàn mạnh, nắm giữ những ngành trọng điểm thì điều tất yếu là sẽ đưa vốn ủy
thác vào các công ty tài chính của các tập đoàn này.
A.3.3) Vốn từ các tổ chức tiền tệ thế giới
Mục đích ủy thác vốn của các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng giống mục đích
của các chính phủ nước ngoài. Tuy nhiên, ben nhận ủy thác cũng có thể không
phải là các ngân hàng mà có thể là các công ty tài chính. Việc ủy thác từ các tổ
chức tiền tệ thế giới không chỉ nhằm mục đích sinh lợi riêng mà còn nhằm mục
đích sinh lợi riêng mà còn nhằm mục đích phát triển sản xuất, tiêu dùng.
A.4. Nguồn vốn ủy thác từ các công ty, tập đoàn, tổ chức tín dụng trong
nước:
Nguồn này xuất phát từ các tập đoàn đã có công ty tài chính là công ty con
của nó, thường ủy thác cho công ty tài chính làm đầu mối để từ công ty này vốn sẽ
được điều phối tới các công ty con trong tập đoàn, tổng công ty. Đây cũng là hình
27
thức hữu hiệu để các tổng công ty có thể đầu tư cho các công ty thành viên qua
đầu mối công ty tài chính.
Các công ty trong nước thực hiện ủy thác vốn với mục đích sinh lời từ các
tài sản hay nguồn vốn nhàn rỗi chưa cần sử dụng. Trong trường hợp chọn công ty
tài chính thì các công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn so với đem gửi ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng cũng có thể là người ủy thác nhưng thường chỉ có
ngân hàng hay thực hiện nghiệp vụ này. Các ngân hàng thu được một số tiền lớn
từ các tài khoản tiền gửi và dùng nó để ủy thác đầu tư hoặc cho vay với đơn vị
khác để sinh lời.
B. Phân loại vốn theo tính lỏng của tài sản
Về thực chất đây là cách phân loại theo tính thanh khoản của loại tài sản ủy
thác.
B.1. Vốn ủy thác bằng tiền mặt
Số vốn này được ủy thác cho tổ chức tín dụng bằng hình thức tiền mặt để tổ
chức tín dụng có thể ngay lập tức có thể đưa vốn vào đầu tư kinh doanh hoặc cho
vay.
B.2. Vốn ủy thác không dùng tiền mặt
Đó là các loại chứng khoán công ty, thương phiếu, trái phiếu chính phủ,
công trái, tín phiếu kho bạc... Vốn ở hình thức này là kém lỏng hơn tiền mặt. Tuy
nhiên, vẫn có khả năng chuyển đổi thành tiền. Thực chất của việc giao vốn này là
để cho tổ chức tín dụng có thể dùng nó để kinh doanh, sinh lời trực tiếp trên thị
trường chứng khoán.
C. Phân loại vốn theo hình thức sử dụng vốn
Với nhiều hợp đồng ủy thác thì mục đích sử dụng vốn sẽ được hai bên ủy
thác và bên nhận ủy thác thoả thuận, quyết định.
C.1. Vốn ủy thác đầu tư
Số vốn này được bên nhận ủy thác sử dụng để đầu tư vào các kế hoạch phát
triển cụ thể nhằm mục tiêu lợi nhuận dưới sự cho phép của bên ủy thác.
C.2. Vốn ủy thác cho vay
Trong hình thức này, người nhận ủy thác có thể mang số vốn này cho các tổ
chức, doanh nghiệp khác vay lại với hai hình thức.
C.2.1) Vốn ủy thác cho vay
28
Vốn ủy thác cho vay theo chương trình lớn (thường là của các chính phủ,
nước ngoài, các tổ chức quốc tế ). Với hình thức vốn này, bên nhận ủy thác phải
chịu toàn bộ rủi ro và trách nhiệm do đó phải thực hiện đầy đủ các giới hạn vay,
các quy định về an toàn vay..
C.2.2) Vốn ủy thác cho vay với một khách hàng cụ thể (thường là nhỏ).
Đối với trường hợp này, bên ủy thác cho vay sẽ chịu toàn bộ rủi ro đối với khách
hàng được chỉ định cho vay vốn bên nhận ủy thác không chịu trách nhiệm vè các
rủi ro cho vay với khách hàng và chỉ hưởng phí quản lý theo hợp đồng.
D. Phân loại theo quyền quyết định mục đích sử dụng vốn
Với phương pháp này, chúng ta sẽ phân loại vốn theo quyền chỉ định sử
dụng vốn vào mục đích nào sẽ phụ thuộc bên ủy thác hay bên nhận ủy thác.
D.1. Quyền quyết định thuộc bên ủy thác
Quyền quyết định mục đích sử dụng vốn thuộc bên ủy thác trong một số
trường hợp, các nhà ủy thác đều xem xét mục đích của mình sẽ làm gì và làm như
thế nào rồi mới giao vốn cho bên thụ thác thực hiện hộ mình.
D.2. Trong một số trường hợp khác
Trong một số trường hợp khác quyền quyết định thuộc bên nhận ủy thác.
Trong trường hợp này, bên ủy thác sẽ giao,mọi trách nhiệm cho bên nhận ủy thác,
bên nhận ủy thác sẽ quyết định toàn bộ việc sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý.
D.3. Các trường hợp còn lại:
Trong phần lớn các hợp đồng ủy thác, hai bên ủy thác và nhận ủy thác sẽ
cùng hợp tác quyết định sử dụng vốn vào mục đích nào là hợp lý nhất.
1.3.3. Cơ sở luật pháp với nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn:
Mối quan hệ ủy thác là dành cho tất cả mọi thành phần kinh tế không phân
biệt thành phần nào; một cá nhân, một tổ chức có thể là doanh nghiệp hay chính
phủ. Có những tổ chức chỉ có thể là bên ủy thác hoặc nhận ủy thác nhưng cũng có
những tổ chức có thể đóng cả hai vai trò ủy thác và nhận ủy thác, đó là các tổ
chức tín dụng.
Trong quan hệ ủy thác vốn, các tổ chức tín dụng cũng có thể là một bên
tham gia. Họ có thể là bên ủy thác hoặc cũng có thể là bên nhận ủy thác. Các tổ
chức tín dụng đứng ở vị trí người ủy thác khi họ muốn đầu tư vào một dự án, công
trình mà họ hy vọng là sẽ có lợi nhưng họ không có điều kiện tham gia vào dự án
đó một cách trực tiếp. Tổ chức tín dụng đóng vai ttrò là bên ủy thác lúc này sẽ ủy
29
thác tài sản cho một tổ chức tín dụng khác hay một doanh nghiệp nào đó để đầu tư
hoặc cho vay dự án. Thường chỉ có tổ chức tín dụng có qui mô lớn, lĩnh vực hoạt
động đa dạng, phong phú như ngân hàng thương mại mới có thể đóng cả hai vai
trò là bên ủy thác và bên nhận ủy thác. Hầu hết các trường hợp ngân hàng ủy thác
lại cho các tổ chức tín dụng khác là trường hợp tái ủy thác tức là ngân hàng cam
kết với bên ủy thác vốn cho ngân hàng (thường là chính phủ hay các tổ chức tài
chính quốc tế) sẽ ủy thác lại khoản vốn đó cho các tổ chức tín dụng hay doanh
nghiệp theo các thoả thuận đã có sẵn.Phần lớn các tổ chức tín dụng còn lại thường
xuyên đóng vai trò là người nhận ủy thác. Đối với công ty tài chính thuộc các tập
đoàn cũng vậy, chúng thường thực hiện nghiệp vụ ủy thác trong vai trò là người
nhận ủy thác, tiếp nhận vốn ủy thác của các tập đoàn và các công ty, tổ chức khác
chủ yếu để phát triển đầu tư vào các công ty con trong tập đoàn của mình. Các tổ
chức tài chính khác thường là Ngân hàng, các công ty tài chính độc lập hay các
công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư,... cũng có thể ủy thác vốn cho công ty tài chính
trong tập đoàn. Trong mối quan hệ này, dễ dàng nhận thấy một tổ chức đóng vai
trò là người nhận ủy thác và một tổ chức tín dụng khác đóng vai trò là người ủy
thác.
A. Các cơ sở pháp lý đối với bên ủy thác
Bên ủy thác không chịu nhiều sự ràng buộc của pháp luật, điều kiện để họ có
thể tham gia ủy thác là họ phải có tài sản và chứng minh được nguồn gốc minh
bạch của tài sản đó, chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp của họ với số tài sản
đó đồng thời phải chấp thuận việc chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho người nhận
ủy thác. Ngoài ra họ còn có những trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng ủy thác khi
họ đồng ý ký vào hợp đồng ủy thác. Như vậy có thể thấy bất cứ thành phần kinh tế
nào cũng có thể tham gia vào hoạt động ủy thác với tư cách là người ủy thác.
B. Đối với bên nhận ủy thác
Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể là người ủy tác nhưng không phải
bất cứ ai cũng có thể trở thành người nhận ủy thác.
Ví dụ như luật của Thái Lan qui định chỉ có những công ty thực hiện nghiệp
vụ tài chính, chứng khoán hoặc những công ty tài chính không kinh doanh trên thị
trường tài chính nhưng được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ tài trợ phát triển
thì mới đồng thời được phép tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư cho các đơn vị công
30
nghiệp, nông nghiệp, thương mại hoặc dàn xếp và quản lý những công việc có liên
quan tới việc cho vay hoặc đầu tư vào các đơn vị nói trên.
Tại Hàn Quốc thì luật pháp qui định cho phép các ngân hàng đầu tư được
thực hiện nghiệp vụ ủy thác đầu tư chứng khoán, ủy thác tài sản nhưng không
được phép thực hiện ủy thác bằng tiền mặt nếu không đựoc sự cho phép của Ngân
hàng Trung Ương và bộ Tài chính.
Vậy, để có thể trở thành người nhận ủy thác thì các tổ chức hay cá nhân phải
có đủ tư cách pháp nhân, đủ khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời
để có thể trở thành người nhận ủy thác, các tổ chức, cá nhân này phải có được sự
đồng ý từ các cơ quan pháp luật hoặc các ban ngành quản lý có liên quan. Ngoài ra
bên nhận ủy thác phải có chức năng hoạt động nghiệp vụ thuộc lĩnh vực được ủy
thác được qui định của pháp luật, có mạng lưới tổ chức để trực tiếp cho vay, thu
nợ đến tận các đối tượng khách hàng theo yêu cầu của bên ủy thác, có đội nhũ cán
bộ có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác.
C. Hợp đồng ủy thác
Điều quan trọng nhất để nghiệp vụ ủy thác được công nhận và thực hiện,
tiến hành là hai bên phải có được một hợp đồng ủy thác, nó thể hiện được ý chí,
nguyện vọng cùng trách nhiệm, quyền lợi của mỗi bên tham gia với sự bảo hộ
của luật pháp.
Trước đây khi nền kinh tế thị trường chưa phát triển, hai bên tham gia ủy
thác chỉ dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau và khi đó nghiệp vụ còn ở dạng sơ khai,
chưa phát triển, nó đơn thuần chỉ là sự giữ hộ, trông nom hộ và rủi ro xảy ra đối
với tài sản đó không quá lớn.Vì vậy, họ không cần tới sự tham gia của luật pháp,
họ có thể tự giải quyết với nhau.
Tuy nhiên, khi thị trường phát triển cùng với sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế thì nghiệp cụ ủy thác cũng có những bước phát triển mới. Sự đa dạng
hoá trong các công cụ của thị trường tài chính, nền kinh tế phát triển phụ thuộc
vào ngày càng nhiều các yếu tố khác nhau, việc dự đoán thị trường và các cơ hội
đầu tư ngày càng khó khăn hơn dẫn tới xảy ra nhiều rủi ro hơn với các khoản vốn
ủy thác của mọi người trong xã hội. Những xung đột, tranh chấp có thể xảy ra
giữa hai bên trong quá trình phân chia quyền lợi hay phân chia trách nhiệm. Để có
được một mối quan hệ an toàn và vững chắc, đảm bảo được vấn đề tin tưởng của
sự ủy thác hai bên sẽ ký với nhau một hợp đồng ủy thác. Đây là cơ sở pháp luật để
31
hai bên ghi rõ các bên có liên quan và những quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên.
Những thoả thuận hình thành tín thác phải được trình bày rõ ràng và cụ thể bằng
văn bản, những loại tín chấp bằng miệng sẽ không có giá trị. Thông thường các
hợp đồng ủy thác là loại hợp đồng không được hủy ngang dưới bất kỳ hình thức
nào ngoại trừ những trường hợp đã được thoả thuận một cách rõ ràng từ trước
trong các văn bản tín chấp đồng thời hợp đồng ủy thác được thiết lập dưới bất kỳ
một hình thức nào cũng không được vi phạm đạo đức, luật hay các chuẩn mực
chính của xã hội.
Hợp đồng ủy thác cần ghi rõ các tiêu chí sau đây:
a) Điều khoản chung:
Các căn cứ luật pháp để hợp đồng có thể thực hiện
Tên của các ben tham gia ký kết bao gồm bên ủy thác và bên nhận
ủy thác
Địa điểm và thời gian tiến hành ủy thác
b) Điều khoản chi tiết
Giá trị của số vốn ủy thác. Giá trị này được xác định căn cứ vào khả
năng nguồn vốn của bên ủy thác, nhu cầu vay vốn của các đối tượng khách
hàng để thực hiện dự án đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời
sống và xoá đói giảm nghèo, qui mô hoạt động quản lý, tổng dư nợ của một
khách hàng vay thuộc đối tượng ủy thác không được vượt quá 15% vốn tự có
của bên ủy thác là tổ chức tín dụng.
Cách thức thanh toán lãi và gốc
Phương thức bảo đảm vốn
Quyền và nghĩa vụ của người nhận ủy thác:
+ Bên nhận ủy thác có quyền từ chối các yêu cầu của bên ủy thác không
đúng trong hợp đồng ủy thác
+ Có quyền khởi kiện bên ủy thác vi phạm hợp đồng ủy thác cho vay theo
qui định của pháp luật
+ Có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ trung thực các thông tin tài liệu liên quan
đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin, tài liệu
đã cung cấp.
+ Sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng nội dung đã cam kết trong hợp
đồng.
32
+ Có trách nhiệm hoàn trả vốn ủy thác và lãi thu được đúng hạn.
Những hạn chế và cấm đoán đối với người nhận ủy thác trong quá
trình thực hiện tín chấp
Quyền hạn và nghĩa vụ của người ủy thác
+ Có quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp tài liệu về khả năng tài
chính của khách hàng, về tình hình giải ngân, khả năng trả nợ và một số tài liệu
khác.
+ Từ chối yêu cầu của bên nhận ủy thác nếu thấy không đủ điều kiện nhận
vốn ủy thác.Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ của bên nhận
ủy thác
+ Chấm dứt hợp đồng ủy thác cho vay và thu hồi nợ trước khi hết hạn khi
bên nhận ủy thác vi phạm cam kết trong hợp đồng ủy thác cho vay.
+ Có quyền khởi kiện bên nhận ủy thác vi phạm hợp đồng ủy thác cho
vay.
+ Có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng ủy thác cho vay
+ Chuyển vốn ủy thác đúng tiến độ, lưu giữ hồ sơ ủy thác cho vay phù
hợp với qui định của pháp luật.
+ Chi trả phí ủy thác kịp thời đúng hạn.
+ Phối hợp với bên nhận ủy thác để xử lý rủi ro theo thoả thuận ghi trong
hợp đồng ủy thác cho vay.
Những quy tắc về tích luỹ gộp, phân phối hoặc chuyển nhượng vốn,
thu nhập và lợi nhuận của hai bên trong mối quan hệ ủy thác
Chữ ký rõ ràng và đầy đủ của các bên tham gia ký kết hợp đồng là
người ủy thác, người nhận ủy thác
Chữ ký xác nhận của người chứng kiến
Thời gian thực hiện nghiệp vụ ủy thác có thể rõ ràng và đơn giản
hoặc tuỳ theo các điều kiện hay chu kỳ thời gian
Tất cả các văn bản ủy thác đều qui định rõ ràng các chi phí quản lý
ngoại trừ trường hợp trong đó người ủy thác không yêu cầu tiền thù lao cho
hoạt động của mình
Đồng thời, tiền thù lao của người nhận ủy thác cần được qui định
trong các văn bản tín chấp, nó được gọi là phí ủy thác. Mức phí này có thể là
33
mức % cố định cho việc quản lý vốn hoặc có thể được cộng thêm hoa hồng từ
lợi nhuận mà bên ủy thác có được từ hoạt động đầu tư sinh lợi
Cách xử lý việc vi phạm hợp đồng hoặc tranh chấp giữa các bên
tham gia ủy thác
Chương hai
Thực trạng của nghiệp vụ ủy thác tại
công ty Tài chính Dầu khí
2.1. Khái quát một số nét về Tổng công ty Dầu khí và công ty Tài chính
Dầu khí
2.1.1. Một số nét về Tổng công ty Dầu khí
Nghành dầu khí Việt Nam qua 25 năm phát triển và trưởng thành vẫn còn là
một ngành kinh tế kỹ thuật non trẻ nhưng với việc phát huy nội lực kết hợp mở
rộng hợp tác nhiều mặt với các công ty dầu khí nước ngoài, tăng hiệu quả đầu tư,
tích cực triển khai các dự án,... khiến ngành dầu khí trở thành một trong những đầu
tàu của nền kinh tế Việt Nam và đang từng bước trở thành một tập đoàn kinh tế tài
chính vững mạnh đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước được thành lập
theo mô hình tổng công ty mạnh theo quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của thủ
tướng chính phủ là tổng công ty hạch toán kinh tế toàn ngành. Đây là tổng công ty
phát triển theo hướng đa ngành đa nghề, đa lĩnh vực (như tìm kiếm, thăm dò, khai
thác, chế biến, vận chuyển, tàng trữ, xuất nhập khẩu, cung cấp dịch vụ,...). Các
hoạt động chính của tổng công ty có đặc điểm là vốn đầu tư rất lớn, rủi ro trong
34
kinh doanh cao, mặt khác khả năng thu lợi tức cũng rất cao, mang lại nhiều lợi ích
kinh tế cho đất nước, tỷ lệ nộp ngân sách cao. Như vậy, nhiệm vụ của Tổng công
ty Dầu khí là vừa tiến hành hoạt động kinh doanh trong ngành dầu khí vừa thay
mặt nhà nước quản lý hoạt động dầu khí; bên cạnh đó với tư cách là một trong các
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước nó có nhiệm vụ hỗ trợ phát triển các ngành
kinh tế khác của đất nước, vì vậy Tổng công ty Dầu khí đang phát triển theo
hướng trở thành tập đoàn kinh tế đa lĩnh vực.
Sơ đồ các công ty thành viên của Tổng công ty hiện nay:
Công ty bảo hiểm
dầu khí
Tổng công ty Dầu khí
Công ty chế biến
và kinh doanh các
sản phẩm khí
Công ty thăm dò
và khai thác dầu
khí
Viện dầu khí
Công ty thiết kế
và xây dựng dầu
khí
Công ty giám sát
cáchợp đồng phân
chia sản phẩm
Trung tâm nghiên
cứu và phát triển
chế biến dầu khí
Công ty dịch vụ
kỹ thuật dầu khí
Trung tâm đào tạo
và cung ứng nhân
lực dầu khí
Trung tâm an toàn
và môi trường dầu
khí
Công ty dung dịch
khoan và hóa phẩm
dầu khí
Trung tâm thông
tin tư liệu dầu
khí
Công ty thương
mại dầu khí
Công ty dịch vụ
du lịch dầu khí
Công ty tư vấn
đầu tư xây dựng
dầu khí
Các doanh nghiệp
nhà nước hạch
toán độc lập
Đơn vị hạch toán
phụ thuộc
Các đơn vị sự
nghiệp
công ty tài chính
dầu khí
Comment [NpQ1]:
35
Theo khái niệm thì tập đoàn kinh tế là một tổ chức tiên tiến đại diện cho
trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và nền kinh tế.Đối với các nước có
nền kinh tế đang phát triển như nước ta đang phải đối mặt với sự lũng đoạn của
các tập đoàn đa quốc gia nên cần thiết phải hình thành các tập đoàn kinh tế đủ
mạnh để ững phó, đủ sức cạnh tranh, chống sự khủng hoảng chu kỳ, tăng cường
tích tụ, tập trung và tối đa hóa lợi nhuận.
Một trong những đặc điểm quan trọng của tập đoàn là điều hoà vốn, tập
trung vốn. Trong tập đoàn, việc huy động vốn từ các công ty thành viên hay của xã
hội để tập trung đầu tư vào các công ty, các dự án khắc phục tình trạng phân tán
vốn là việc của công ty tài chính. Công ty tài chính trong các tập đoàn kinh tế nói
chung và ngành dầu khí nói riêng là mô hình tổ chức tài chính được ưa dùng tại
nhiều nước trên thế giới, hoạt động như một định chế tài chính trung gian, thu xếp
các nguồn vốn, tham gia vào thị trường tài chính tiền tệ để tăng cường tiềm lực tài
chính phục vụ cho yêu cầu đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các ngành kinh tế trọng yếu.
Thực hiện chủ trương xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước,
Tổng công ty Dầu khí đã thành lập một công ty 100% vốn của tổng công ty là
công ty Tài chính Dầu khí.
2.1.2. Công ty Tài chính Dầu khí:
Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt là công ty Tài chính Dầu khí
Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Anh là: Petro Vietnam Finance Company
Tên tắt là: PVFC
Công ty Tài chính Dầu khí là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập
của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng,
luật doanh nghiệp nhà nước và các luật khác có liên quan, được thành lập theo
quyết định số 04/2000/QĐ-VPCP ngày 30 tháng 3 năm 2000 của bộ trưởng, chủ
36
nhiệm văn phòng chính phủ và được thống đốc ngân hàng nhà nước cấp giấy phép
hoạt động.
Công ty chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/12/2000.
Trụ sở chính: 22 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Tài khoản phong tỏa đã mở tại chi nhánh ngân hàng nhà nước thành phố Hà
Nội số hiệu: 45110004. Vốn đã gửi là 100 tỷ.
Thời gian hoạt động: 50 năm kể từ ngày thành lập nhưng không quá thời
hạn hoạt động của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Trên thế giới, các tập đoàn kinh tế lớn đều rất coi trọng vai trò của công ty
tài chính trong việc tập trung và thu hút nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động
sản xuất và kinh doanh. Lợi nhuận của tập đoàn do hoạt động của công ty tài chính
mang lại là khá lớn (khoảng 30-33%) thông qua hoạt động trên thị trường tài chính
tiền tệ như: mua bán thương phiếu, cổ phiếu, trái phiếu, tiến hành các dịch vụ đầu
tư tài chính, cho vay và các dịch vụ mang tính chất môi giới đầu tư, tư vấn tài
chính đầu tư cho toàn ngành. Trong bối cảnh Nhà nước ta thực hiện chuyển đổi cơ
chế quản lý, tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm tài chính của các tập đoàn
kinh tế thì mô hình công ty Tài chính Dầu khí là một tổ chức tài chính trong Tổng
công ty thực hiện chức năng quản lý và điều hành thống nhất các nguồn tài chính
theo nguyên tắc vận động và sinh lợi trên cơ sở phân định rõ ràng trách nhiệm và
quyền hạn của tổng công ty với các đơn vị thành viên trong việc huy động và sử
dụng các nguồn vốn, xác lập chức năng kinh doanh vốn, tiền tệ phù hợp với quy
định về các định chế tài chính trung gian trong các tổng công ty nhà nước.
37
A. Cơ cấu tổ chức:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty Tài chính Dầu khí:
B. Mục tiêu, phạm vi hoạt động
Để hiện đại hóa và tăng năng lực sản xuất của ngành dầu khí, mục tiêu hoạt động
của công ty Tài chính Dầu khí là đảm bảo đủ vốn đầu tư phát triển của toàn ngành;
đồng thời quản lý và sử dụng các nguồn huy động được một cách có hiệu quả, bảo
đảm hoàn trả lãi và vốn vay đúng thời hạn trên cơ sở cân đối vững chắc và linh
hoạt tài chính của Tổng công ty. Phạm vi hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí
Ban giám đốc
công ty
Phòng
tài chính
kế toán
Phòng
tổ chức
hành chính
Phòng
kiểm soát
nội bộ
Phòng
kế hoạch
Phòng kinh
doanh
tiền tệ
Phòng dịch
vụ
ủy thác
Phòng dịch
vụ
tài chính
tiền tệ
Phòng
đầu tư phát
triển
VănPhòng
đại diện
đại lý
38
không chỉ bó hẹp trong nội bộ ngành mà còn cả trên các thị trường tài chính trong
và ngoài nước dưới các hình thức như: vay thương mại, vay tài trợ dự án, vay tín
dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư, thuê mua, phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
Công ty Tài chính Dầu khí hoạt động mang đặc thù riêng, phù hợp với đặc
điểm của ngành dầu khí. Điều lệ của công ty Tài chính Dầu khí qui định một số
nhiệm vụ sau:
- Thu xếp vốn với những hình thức và phương pháp thích hợp về số
lượng và thời gian, địa điểm, điều kiện vay trả,... nhằm đáp ứng đủ và kịp
thời nhu cầu vốn của Tổng công ty với chi phí thấp nhất.
- Đảm bảo việc đầu tư vốn đúng định hướng phát triển, đúng công
trình và dự án, vừa có hiệu quả kinh tế cao vừa đáp ứng nhiệm vụ chính trị
của ngành.
- Tham gia thẩm định hiệu quả các dự án, công trình, tài sản được đầu
tư bằng vốn của tổng công ty cũng như của công ty.
- Đảm bảo công tác điều hành vận động vốn của toàn Tổng công ty
một cách linh hoạt, gắn với kinh doanh tiền tệ, từ cơ sở tham gia thị trường
tài chính, tín dụng, thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
- Huy động vốn thông qua các hình thức phát hành chứng khoán, bán
thương phiếu, nhận tiền gửi có kỳ hạn của Tổng công ty, các đơn vị thành
viên, vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
- Thay mặt tổng công ty và các đơn vị thành viên thương lượng và ký
kết các hợp đồng tín dụng trong và ngoài nước cho các dự án đầu tư của Tổng
công ty và các đơn vị thành viên.
- Tư vấn, dàn xếp tài chính cho các đơn vị thành viên trong quan hệ
vay vốn với nước ngoài và quan hệ với các bên liên quan về mặt tài chính đầu
tư.
- Đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho Tổng công ty và các đơn vị
thành viên.
- Tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư trong và ngoài nước, bao gồm cả
nguồn vốn Tổng công ty và các đơn vị thành viên.
- Triển khai nghiệp vụ thuê mua và bảo lãnh tín dụng nhỏ
39
- Kinh doanh ngoại hối trong phạm vi hoạt động dầu khí với các hình
thức như: lựa chọn để chuyển hóa ngoại tệ, thanh toán quốc tế trong hoạt
động giữa Tổng công ty, công ty thành viên với các đối tác nước ngoài.
- Cho vay dài hạn kết hợp các hoạt động tín dụng ngắn hạn sinh lợi.
- Các nghiệp vụ khác theo qui định của pháp luật.
C. Chức năng, vai trò của công ty Tài chính Dầu khí:
Trước đây, các Tổng công ty có ban tài chính-kế toán chỉ làm chức năng
tham mưu cho Tổng giám đốc về quản lý tài chính còn một khối lượng công việc
rất lớn như huy động vốn, đầu tư vốn và nhiều hoạt động khác liên quan đến kinh
doanh trên thị trường vốn, tiền tệ thì ban tài chính-kế toán không có chức năng
thực hiện. Khi thành lập công ty tài chính, công ty không chỉ có nhiệm vụ “giữ
tiền” mà còn có trách nhiệm làm cho nguồn tài chính của Tổng công ty sinh lợi
với các chức năng:
Thứ nhất, công ty thực hiện chức năng đảm bảo toàn bộ các nguồn vốn tín
dụng cho tất cả các dự án của Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Đây là một
công việc rất khó khăn vì hầu hết các dự án triển khai chậm hơn dự kiến.
Thứ hai, công ty thực hiện huy động vốn bằng nhiều hình thức để cấp tín
dụng cho các dự án phát triển và triển khai thực hiện phát hành trái phiếu trong và
ngoài nước cho Tổng công ty.
Thứ ba là thực hiện các dịch vụ tài chính, tiền tệ. Ngành dầu khí có đặc thù
là nhiều dự án và đa số các dự án giải ngân chậm. Do vậy, việc xây dựng phương
án tài chính và thẩm định dự án là rất quan trọng và cần có một cơ quan riêng. Sắp
tới, công ty còn thúc đẩy hơn nữa dịch vụ quản lý vốn và tài sản để làm cho các
nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả cao nhất.
Như vậy, công ty Tài chính Dầu khí là một trung gian tài chính trên thị
trường vốn, đóng vai trò là đầu mối thực hiện việc huy động vốn để cho vay phục
vụ nhu cầu vốn của Tổng công ty, các đơn vị thành viên. Tuy vậy, công ty Tài
chính Dầu khí không được thực hiện dịch vụ thanh toán và chưa được hoạt động
ngoại hối.
Phục vụ cho mục tiêu đưa Tổng công ty Dầu khí trở thành một tập đoàn
kinh tế đa ngành, khi đó hoạt động của Tổng công ty sẽ không chỉ dừng lại ở lĩnh
vực dầu khí mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác. Công ty tài chính sẽ trở thành
40
công ty đầu tư tài chính trong toàn ngành với một lĩnh vực hoạt động rộng lớn hơn
nhiều.
2.2. Thực trạng hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí qua hơn một
năm hoạt động:
Công ty Tài chính Dầu khí được thành lập theo quyết định số 04/2000/QĐ-
VPCP ngày 30 tháng 3 năm 2000 của bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng chính phủ
nhưng bắt đầu chính thức hoạt động bắt đầu từ ngày 1-12-2000. Vốn điều lệ của
công ty Tài chính Dầu khí là 100 tỷ do Tổng công ty Dầu khí cấp 100%.
Công ty tuy thành lập vào năm đầu năm 2000 nhưng do mới hoạt động từ
đầu thàng 12-2000 nên thực chất năm 2000 gần như không có hoạt động gì mà
đơn thuần chỉ là chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động trong
những năm sau. Doanh thu chỉ là tiền lãi ngắn hạn gửi ngân hàng từ số vốn tự có
100 tỷ.
Có thể nói các hoạt động kinh doanh thực sự chỉ mới bắt đầu từ năm 2001,
công ty đã thực hiện được nhiều nghiệp vụ và bước đầu đã có những kết quả quan
trọng trong kinh doanh.
2.2.1. Kết quả kinh doanh năm 2001
A. Tình hình biến động về vốn và tài sản đến 31/12/2001:
Về quy mô hoạt động của công ty trong năm 2001 liên tục có xu hướng
tăng từ 105 tỷ vào 31/3, 190 tỷ vào 30/6 và đến 31/12 là 365 tỷ đồng gấp 4 lần so
với vốn điều lệ.
Về cơ cấu tài sản của công ty trong năm cũng biến động theo chiều hướng
tốt thể hiện sự triển khai hoạt động đều khắp ở các lĩnh vực kinh doanh như cho
vay, dịch vụ quản lý vốn và tài sản, đầu tư tài chính, kinh doanh chứng khoán... Tỷ
lệ tiền gửi các tổ chức tín dụng trên tổng tài sản giảm dần từ mức 98% trong
những ngày đầu hoạt động(1/2001) đến mức 40% vào thời điểm cuối năm
(12/2001) nhường chỗ cho các khoản dư nợ cho vay các tổ chức kinh tế và đầu tư
tài chính chiếm phần còn lại.
Phần nguồn vốn cũng có sự biến động tương ứng: nguồn vốn tự có vào thời
điểm đầu năm chiếm tới 99% tổng nguồn vốn đã giảm xuống còn 28.5% vào cuối
năm, vốn vay các tổ chức tín dụng, vốn huy động từ các tổ chức tín dụng và cán
bộ công nhân viên Dầu khí chiếm 62%.
41
Qua sự biến động về tổng tài sản của công ty trong năm cho thấy sự năng
động và chịu khó nắm bắt cơ hội của công ty, trong thời gian ngắn công ty đã phát
triển được nhiều loại hình dịch vụ kinh doanh có lãi, hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được Tổng công ty giao.
B. Kết quả kinh doanh năm 2001
Bảng 1-Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001
Đơn vị tính: VNĐ
Chỉ tiêu PP hạch toán tiền mặt Số tiền Tỷ lệ(%)
I- Tổng thu 16.7
1-Thu về hoạt động tín dụng 2.8 17
2-Thu về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ 7.7 46
3-Thu từ các hoạt động khác 6.2 37
-Đầu tư chứng khoán 0.36 2
-Cho vay ủy thác 1.97 12
-Dịch vụ tư vấn 3.89 23
-Thu nhập bất thường 0 0
II-Tổng chi 14.7
1-Chi về hoạt động huy động vốn 4.7 32
2-Chi về dịch vụ thanh toán 0
3-Chi về dich vụ tư vấn 1.7 11
4-Chi về các hoạt động khác 8.3 57
III-Lãi 2
Thuế thu nhập doanh nghiệp 0.648
Lãi sau thuế 1.352
Về doanh thu, năm 2001 là năm đầu tiên kinh doanh nên khi lập kế hoạch
dựa trên căn cứ hoàn toàn khác với khi điều hành cụ thể: có những nghiệp vụ đặt
kế hoạch rất cao nhưng trong năm không thực hiện được, có những nghiệp vụ kế
hoạch không đặt ra thì lại đem lại phần doanh thu đáng kể cho công ty. Tổng
doanh thu cuối năm đạt 16.7 tỷ với tỷ trọng 29% doanh thu cho vay (trong đó 17%
là thu từ hoạt động tín dụng, 12% là thu từ hoạt động cho vay ủy thác), doanh thu
từ dịch vụ tư vấn chiếm 23%, doanh thu từ lãi tiền gửi chiếm 46% đạt 150% kế
hoạch được giao.
Về chi phí, tổng chi phí cả năm là 14.7 tỷ trong đó chi phí cho hoạt động
huy động vốn chiếm 32%, chi phí dịch vụ tư vấn chiếm 11% còn lại chi phí hoạt
động của công ty chiếm 57%.
42
Chi phí hoạt động cả năm của công ty là 8.3 tỷ đồng trong đó chi phí cho
nhân viên là 40%(lương chiếm 35%), chi về tài sản chiếm 29% còn chi công vụ và
quản lý chiếm 31%.
Số nộp ngân sách nhà nước trong năm là 908 triệu đồng vượt xa kế hoạch
giao là 170 triệu do phần VAT phải nộp tăng, lợi nhuận tăng làm cho thuế thu
nhập doanh nghiệp tăng. Phần nộp Tổng công ty cũng tăng hơn gấp đôi kế hoạch
do doanh thu và lợi nhuận đều tăng so với kế hoạch.
2.2.1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu:
Mặc dù mới được thành lập với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tập thể
cán bộ công nhân viên công ty Tài chính Dầu khí đã phấn đấu hoàn thành vượt
mức kế hoạch năm 2001. Đây là kết quả đáng khích lệ đối với một công ty mới
tròn một năm tuổi. Công ty đã khẳng định được vị trí của mình, tạo đà phát triển
trong những năm tiếp theo.
43
Bảng 2- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm 2001
Đơn vị tính: tỷ VNĐ
Số TT
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện KH
Giá trị thực hiện % so với KH
1 Thu xếp vốn 1,786.5 1,990 111
2 Số dư huy động cuối năm
-ngoại tệ, triệu USD 15 Chưa được phép hoạt động
-nội tệ, tỷ VNĐ 65 255.7 393
3 Dư nợ cho vay cuối năm
-ngoại tệ, triệu USD 15 Chưa được phép hoạt động
-nội tệ 140 170.9 122
4 Hoạt động đầu tư (dự án, tài
chính)
30 34.3 114
5 Doanh thu 10,940 16,700 152
6 Lợi nhuận 0.615 2.02 328
7 Thu nộp ngân sách 0.170 9.08 534
8 Nộp Tổng công ty, 0.066 0.168 254
2.2.3. Đánh giá các hoạt động năm 2001:
A. Nghiệp vụ thu xếp vốn:
Đây là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu của công ty Tài chính
Dầu khí. Nó đảm bảo cho các dự án trong ngành dầu khí luôn có được nguồn vốn
cần thiết để triển khai.Hoạt động này được phòng nghiệp dịch vụ ủy thác thực hiện
với nội dung hoạt động như là một trung gian đầu mối tổ chức sắp xếp các nguồn
vốn cho các dự án của ngành dầu khí. Với đặc thù của các dự án trong ngành dầu
khí là có vốn rất lớn nên khó có một tổ chức tài chính nào đảm bảo được việc cung
cấp toàn bộ vốn cho dự án do vậy công ty tài chính khi có những dự án trong
ngành sẽ đứng ra làm đầu mối gom vốn từ các tổ chức tài chính khác (do công ty
có ưu thế về mối quan hệ với các tổ chức tài chính). Công ty Tài chính Dầu khí
được hưởng một khoản phí cho hoạt động này.
44
Công ty đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị hàng đầu là đảm bảo thu xếp
vốn tín dụng cho các đề án dự án đầu tư của Tổng công ty và các đơn vị thành
viên, với phương châm không bỏ sót các dự án. Trong thực tế, các dự án được
triển khai rất chậm so với dự kiến ban đầu. Mặc dù vậy, công ty đã khắc phục mọi
khó khăn, cố gắng theo sát các dự án và đã thu xếp vốn thành công cho 11 công
trình với tổng số 1990 tỷ VNĐ đạt 111% kế hoạch.
Do các công trình chậm giải ngân nên mặc dù ký hợp đồng thu xếp vốn
nhưng công ty vẫn chưa nhận được doanh thu từ dịch vụ này.
B. Nghiệp vụ huy động vốn và tín dụng:
Với đặc thù của ngành dầu khí chủ yếu hoạt động bằng ngoại tệ, nên trong
kế hoạch đầu năm công ty có dự kiến có phần tham gia hoạt động ngoại hối với số
dư huy động và cho vay cuối kỳ đạt 15 triệu USD. Tuy nhiên, cho đến nay công
ty vẫn chưa được ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phép, nên phần hoạt động về
ngoại tệ công ty vẫn chưa thực hiện được. Công ty đã khắc phục mọi khó khăn, cố
gắng hoạt động trên lĩnh vực nội tệ một cách tốt nhất và đã đạt được kết quả đáng
ghi nhận:
- Đã đảm bảo được đủ vốn tín dụng cho các đơn vị trong và ngoài
ngành. Số dư huy động cuối năm đạt 255.7 tỷ VNĐ (hơn 2.5 lần vốn tự có )
đạt 393%.
- Đã mạnh dạn áp dụng loại hình cho vay ủy thác (lúc cao điểm đã
chiếm đến 85% tổng dư nợ cho vay), trên cơ sở nghiên cứu và sử dụng quy
trình cho vay linh hoạt, chặt chẽ và hiệu quả.
- Đã mở được thêm hình thức huy động vốn mới là nhận ủy thác quản
lý vốn và tài sản cho các đơn vị trong ngành với 4 hợp đồng quản lý vốn với
tổng số vốn huy động đạt 100 tỷ VNĐ. Huy động trong ngành từ tiết kiệm
dầu khí đã bắt đầu triển khai từ 1/10 đã thật sự cuốn hút cán bộ công nhân
viên trong ngành vào sự nghiệp phát triển dầu khí, bước đầu có kết quả tốt
với số dư huy động cuối năm đạt hơn 8 tỷ VNĐ.
- Bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục như: số dư nợ cho
vay chưa ổn định vì các công trình trong ngành triển khai chậm, tuy đã được
thu xếp vốn nhưng chưa giải ngân được. Do đó, hầu hết các khoản vay là
ngắn hạn (chiếm 90% tổng dư nợ cho vay ). Số dư nợ trung và dài hạn chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 10%).
45
C. Nghiệp vụ tài chính tiền tệ:
Kế hoạch đầu năm công ty đề ra với phương châm tham gia hầu hết các dự
án đầu tư của các đơn vị trong ngành và đưa dần hoạt động này trở thành chủ lực
của công ty Tài chính Dầu khí. Năm 2001 công ty đã thực hiện được 5.4 tỷ VNĐ
đạt 174%.
- Công ty đã tích cực bám sát hầu hết các dự án để tìm cơ hội cung
cấp dịch vụ. Tuy nhiên, do thị trường này hiện nay còn mới, chưa ổn định,
các chủ đầu tư chưa quen sử dụng dịch vụ tư vấn tài chính trong lập và thẩm
định dự án, nên trong năm chỉ thực hiện được 2 dự án với giá trị hơn 500
triệu VNĐ.
- Công ty đã năng động tìm kiếm các hình thức dịch vụ tài chính khác
như tư vấn quản lý tiền nhàn rỗi cho một số doanh nghiệp (VSP,VR,..) đem
lại doanh thu đáng kể (khoảng 4.9 tỷ VNĐ).
- Khó khăn của công ty là chưa thu hút và đào tạo được các chuyên
gia giỏi, chuyên sâu nhằm đưa các dịch vụ tài chính tiền tệ trở thành thế mạnh
của công ty Tài chính Dầu khí.
D. Nghiệp vụ đầu tư:
Tổng vốn đã tham gia đầu tư trong năm 2001 đạt 37.3 tỷ VNĐ, đạt 124%.
Mặc dù công tác đầu tư còn nhiều khó khăn do cơ chế, công ty đã chủ động tập
trung vào đầu tư tài chính (công trái, trái phiếu và các chứng từ có giá...) có lợi
nhuận cao, giúp các đơn vị và cá nhân trong ngành giải phóng vốn cho nhu cầu
đầu tư và kinh doanh. Đồng thời, công ty đã tích cực đào tạo cán bộ, chuẩn bị cho
việc tham gia vào thị trường chứng khoán với lượng giao dịch hơn 9000 cổ phiếu
và trái phiếu của 5 loại chứng khoán.
46
2.3. Nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí:
2.3.1. Quá trình hình thành nghiệp vụ ủy thác ở Việt Nam:
Thập kỷ 90, sau một thời gian thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế
nước ta đã có dáng dấp của nền kinh tế thị trường. Những quan hệ hàng hóa tiền tệ
đang dần dần thay thế các quan hệ phân phối hiện vật thời kỳ tập trung, quan liêu,
bao cấp. Bộ mặt kinh tế đất nước đã có những thay đổi cơ bản. Những nguồn lực
khan hiếm của đất nước đã được sử dụng có hiệu quả hơn, quan hệ Việt Nam với
các nước đang đi vào chiều sâu và là cơ hội để Việt Nam hội nhập mạnh hơn nữa
vào nền kinh tế thế giới, mức sống của nhân dân đang được cải thiện, tốc độ tăng
luôn ở mức cao đã phần nào khẳng định được sự đúng đắn của con đường cải
cách, từ đó cho phép đặt niềm tin vào khả năng cất cánh của Việt Nam trong tương
lai.
Chúng ta đã có những cải cách vô cùng quan trọng và kịp thời, trong đó
phải kể tới việc cải cách hệ thống các tổ chức tín dụng. Kể từ khi thực hiện chính
sách đổi mới nền kinh tế, hệ thống ngân hàng đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định
và phát triển kinh tế đất nước. Bản thân hệ thống ngân hàng đã và đang được đổi
mới và hiện đại hóa dần.Từ loại hình hệ thống ngân hàng một cấp đã chuyển sang
hai cấp với những loại hình mới trước đây chưa từng có.
Cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng, các bộ phận quan trọng của thị trường tài chính đã được hình thành
và phát triển. Đó là thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng với cơ cấu tỷ giá thả nổi, thị trường chứng khoán.
Các tổ chức tín dụng cũng thay đổi các loại hình dịch vụ của mình để phù
hợp với nền kinh tế mới. Công nghệ, hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng
đang từng bước được cải thiện theo hướng thị trường hóa. Ngoài ra, các hình thức
hoạt động thông thường như nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh thanh toán được mở
rộng dần. Nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời. Cùng với sự phát triển kinh tế, các
chính sách sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức tín dụng đã thay đổi, tỷ lệ lợi nhuận
thu được trên các loại hình dịch vụ này đã tăng đáng kể, tỷ lệ này là 30% so với
15% như trước kia. Các tổ chức tín dụng đã phát triển các loại hình dịch vụ mới
như cho thuê két, thực hiện tư vấn với khách hàng, phát hành thẻ thanh toán, các
loại hình ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu cũng được thực hiện. Nghiệp vụ ủy thác và
nhận ủy thác đầu tư và cho vay lại cũng được thực hiện tại các tổ chức tín dụng.
47
Nghiệp vụ ủy thác đã hình thành tại Việt Nam từ giữa những năm 90. Trong
giai đoạn đầu nền kinh tế Việt Nam đã bước vào giai đoạn chuyển hóa nền kinh tế
mạnh mẽ nhất. Các thành phần kinh tế được phép phát triển và nhiều loại hình
kinh tế đã ra đời đáp ứng nhu cầu đó. Việt Nam đã mở cửa đón nhận vốn và hợp
tác trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi với nước ngoài. Các công ty, doanh nghiệp
luôn luôn có sự cải tiến nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và thu lợi
nhuận hợp lý.
Nghiệp vụ ủy thác tại Việt Nam không phải là sản phẩm dịch vụ chỉ có thể
tồn tại trong chốc lát. Các tổ chức tín dụng tại Việt Nam đã thấy được đây là thế
mạnh mới cho sự phát triển của họ. Nghiệp vụ ủy thác đã manh lại cho các tổ chức
tín dụng những nguồn vốn cho đầu tư và phát triển mới. Các nguồn vốn này không
chỉ bao gồm từ các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư tại Việt Nam
mà trong số đó còn có cả nguồn vốn từ các cơ quan, xí nghiệp trong nước. Các nhà
đầu tư có thể lựa chọn phương pháp đầu tư trực tiếp nhưng sẽ phải chịu những rủi
ro cao hơn so với việc thực hiện ủy thác. Và những nhà đầu tư đã nhận thấy rằng
việc ủy thác không chỉ đem lại nguồn lợi lớn mà còn là phương pháp tốt để chia xẻ
và phòng tránh rủi ro.
Trong giai đoạn đầu mới phát triển nghiệp vụ ủy thác, các ngân hàng là cơ
quan thực hiện nghiệp vụ này nhiều nhất. Các ngân hàng lúc này đã đóng vai trò
người nhận ủy thác, chủ yếu là việc nhận quản lý vốn. Tuy nhiên đến cuối năm
2000, các ngân hàng vẫn chỉ nhận vốn ủy thác của Chính Phủ và các khoản vốn ủy
thác của các tổ chức quốc tế như vốn ODA.Tuy nhiên khoản vốn mà ngân hàng
nhận được là tuân theo chỉ định của chính phủ Việt Nam, khoản vốn này được
dùng để đầu tư vào các dự án phát triển chung cho nền kinh tế đất nước. Còn có
rất nhiều nguồn ủy thác khác ngoài nguồn do Chính Phủ Việt Nam nhận về nhưng
các ngân hàng chưa tỏ ra tích cực tự thân vận động để đi tìm cho mình những
nguồn ủy thác mới. Về vai trò ủy thác, các ngân hàng quốc doanh, ngoại trừ ngân
hàng đầu tư và phát triển, vẫn mới đang tìm đường đi cho việc ủy thác lại vốn cho
các tổ chức tín dụng khác. Các ngân hàng quốc doanh đã tỏ ra chưa năng động như
các tổ chức tín dụng khác về việc thực hiện cả hai vai trò ủy thác và nhận ủy thác.
Vào năm 1994, công ty tài chính cổ phần Sài Gòn, đã trở thành công ty tài
chính đầu tiên được ngân hàng nhà nước cho làm thí điểm tiếp nhận vốn ủy thác.
Đến lúc này thì không chỉ có ngân hàng đứng vai trò là người nhận ủy thác mà các
48
công ty tài chính cũng được phép tham gia làm nhiệm vụ này. Và ngay trong năm
đầu tiên thực hiện công việc, công ty đã tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư của hai đơn
vị nước ngoài với tổng số vốn lên đến 1.211.832 USD.
Đến năm 1998, các công ty tài chính thuộc các tổng công ty được thành lập
trên cơ sở phát triển tổng công ty thành tập đoàn kinh tế mạnh. Vì vậy, xu hướng
phát triển là việc các tổng công ty sẽ chuyển từ cơ chế quản lý vốn theo phương
thức hành chính sang cơ chế công ty tài chính. Do đó, việc ủy thác vốn của Tổng
công ty cho công ty tài chính nhằm mục đích hoàn thiện chức năng của công ty tài
chính. Công việc này tạo cho các công ty tài chính thích nghi dần với hình thức
tiếp nhận vốn của Tổng công ty để đầu tư vào các công trình, dự án trong ngành
của mình. Và vốn ủy thác sẽ không chỉ bao gồm tiền mặt mà các Tổng công ty
cũng sẽ ủy thác cho công ty tài chính số cổ phiếu và tín phiếu mà họ đang nắm
giữ, việc ủy thác các tài sản này nhằm mục đích chuyển giao số vốn mà Tổng công
ty đang nắm giữ sang cho công ty tài chính để công ty tài chính có thể nhanh
chóng trở thành trung tâm luân chuyển vốn trong tổng công ty.
Tuy vậy, những nghiệp vụ ủy thác mà các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đã
thực hiện mới dừng ở mức đơn giản, sơ khai, khai thác một cách sơ sài những thế
mạnh của nghiệp vụ này. Những nghiệp vụ liên quan tới hoạt động ủy thác tiến
hành thực hiện công việc thì hầu như chưa được quan tâm còn các hoạt động ủy
thác liên quan tới quản lý tài sản chỉ ở mức độ rất nhỏ do chưa có khung pháp lý
đầy đủ mà hoạt động này vốn rất cần. Do vậy, hiện nay ở Việt Nam mới chỉ thực
hiện các hoạt động ủy thác liên quan tới ủy thác vốn mà trong đó cũng chưa thật
đầy đủ và hoàn chỉnh.
49
2.3.2. Thực trạng nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí:
Qua hơn một năm hoạt động, tại công ty đã có nhiều hoạt động thuộc phạm
vi của nghiệp vụ ủy thác được tiến hành và từng bước hoàn chỉnh cả về lý luận,
qui trình lẫn thao tác nghiệp vụ.
Hiện nay, nghiệp vụ ủy thác tại công ty bao gồm:
- Nghiệp vụ tiếp nhận vốn ủy thác và cho vay vốn ủy thác
- Nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn và tài sản
- Nghiệp vụ ủy thác phát hành trái phiếu, cổ phiếu
Thông thường khi nói đến nghiệp vụ ủy thác vốn ta hiều là gồm cả hai nghiệp vụ
tiếp nhận và quản lý vốn ủy thác, trong việc quản lý đã bao gồm là cho vay vốn ủy
thác đó hay dùng để đầu tư chứng khoán, đầu tư dự án... Và có thể hiểu chỉ cần nói
là nghiệp vụ quản lý vốn ủy thác là đủ vì nó đã bao hàm cả nghiệp vụ tiếp nhận và
cho vay rồi nhưng do điều kiện của công ty mới hình thành nên thực chất việc
quản lý vốn ủy thác chưa thực sự phát triển trong khi đó diễn ra nhiều nhất là hoạt
động tiếp nhận và cho vay nguồn vốn ủy thác của các tổ chức tín dụng, mà chủ
yếu là các ngân hàng thương mại nên tại công ty đã có sự phân chia này để tách
riêng và quản lý các nguồn từ các tổ chức tín dụng và nguồn từ các cá nhân cùng
các tổ chức kinh tế khác, chủ yếu là trong ngành dầu khí.
2.3.2.1. Cơ chế và qui trình của các nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính
Dầu khí
A) Cơ chế, qui trình nghiệp vụ tiếp nhận và cho vay vốn ủy thác
A.1) Cơ chế của nghiệp vụ
Tại công ty Tài chính Dầu khí đã ban hành cơ chế về việc tiếp nhận và cho vay
ủy thác nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí nhận vốn ủy
thác từ các tổ chức tín dụng để cho vay trực tiếp đến các đối tượng vay. Cơ chế
này không áp dụng để điều chỉnh hoạt động của PVFC nhận và cấp phát vốn ủy
thác của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Nhận ủy thác cho vay là việc bên nhận ủy thác vay lại hoặc nhận vốn giao của
bên ủy thác để cho vay trực tiếp đến các đối tượng vay. Cho vay ủy thác là việc
bên cho vay ủy thác sử dụng nguồn vốn nhận ủy thác của các tổ chức tín dụng để
50
cho vay các đối tượng vay. Bên ủy thác là tổ chức tín dụng được thành lập theo
luật tổ chức tín dụng, bên nhận ủy thác và bên cho vay là công ty Tài chính Dầu
khí, bên vay là đối tượng vay, bao gồm chủ đầu tư của các dự án của ngành dầu
khí cần vay vốn và các công ty thành viên của Tổng công ty có nhu cầu vay vốn
ngắn hạn.
Tài khoản ủy thác là tài khoản của bên nhận ủy thác mở tại bên ủy thác để tiếp
nhận vốn ủy thác. Tài khoản được mở riêng cho từng dự án và có thể bao gồm tài
khoản VND hoặc tài khoản ngoại tệ phụ thuộc vào cơ cấu khoản cho vay ủy thác
là VND hoặc ngoại tệ hoặc cả hai.
Phí ủy thác là khoản tiền mà bên nhận ủy thác được hưởng từ việc thực hiện dịch
vụ ủy thác cho vay. Mức phí ủy thác bằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay ủy thác
và lãi suất ủy thác cho vay.
Đi kèm hợp đồng ủy thác cho vay, hợp đồng được ký gữa bên ủy thác và PVFC
điều chỉnh quan hệ cho vay và nhận ủy thác cho vay của hai bên là hợp đồng tín
dụng ủy thác, hợp đồng ký giữa PVFC và bên vay, điều chỉnh quan hệ vay và cho
vay của hai bên.
Mục đích của nghiệp vụ này là PVFC nhận ủy thác cho vay của bên ủy thác để
cho vay trực tiếp đến bên vay phục vụ nhu cầu đầu tư cho các dự án hoặc nhu cầu
vốn ngắn hạn của bên vay.
Hình thức nhận ủy thác cho vay: PVFC có thể thoả thuận với bên ủy thác chọn
một trong hai hình thức ủy thác cho vay sau:
+ Hình thức thứ nhất: là hình thức ủy thác cho vay trong đó bên ủy thác giao vốn
cho PVFC để cho bên vay vay. PVFC thực hiện các nghiệp vụ cho vay và hưởng
phí ủy thác. PVFC không phải chịu rủi ro khoản vay. Việc thẩm định tín dụng do
bên ủy thác tiến hành, PVFC có trách nhiệm tổ chức để bên ủy thác tiến hành việc
thẩm định tín dụng và lập báo cáo thẩm định.
Lãi suất cho bên vay vay được bên ủy thác và PVFC thoả thuận và qui định trong
hợp đồng ủy thác cho vay và hợp đồng tín dụng.Bên ủy thác và PVFC thoả thuận
51
thống nhất mức phí ủy thác mà PVFC được hưởng và qui định trong hợp đồng ủy
thác cho vay.
Các rủi ro khoản vay do bên ủy thác chịu. PVFC chịu trách nhiệm bồi thường các
thiệt hại về kinh tế của bên ủy thác do lỗi của PVFC gây ra.
+ Hình thức thứ hai: là hình thức ủy thác cho vay trong đó bên nhận ủy thác ủy
thác vốn cho PVFC để cho bên vay vay với mức lãi suất ủy thác thoả thuận. PVFC
gánh chịu các rủi ro khoản vay. Bên ủy thác chỉ chịu những tổn thất kinh tế liên
quan đến khoản ủy thác của mình.
PVFC chịu trách nhiệm tiến hành thẩm định tài chính và lập báo cáo gửi cho bên
ủy thác. Lãi suất ủy thác được xác định cụ thể trong hợp đồng ủy thác cho vay,
bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn trong đó lãi suất quá hạn không
vượt quá 150% lãi suất trong hạn.Lãi suất cho bên vay vay do PVFC và bên vay
quyết định.Phí ủy thác mà PVFC được hưởng bằng chênh lệch giữa lãi suất cho
bên vay vay và lãi suất ủy thác trả cho bên ủy thác. Các tổn thất kinh tế liên quan
đến khoản ủy thác theo hình thức này do bên ủy thác chịu. Các tổn thất kinh tế liên
quan đến khoản vay do PVFC chịu.
A.2) Qui trình của nghiệp vụ
a) Thẩm định tín dụng
Khi xét thấy một dự án có nhu cầu vay vốn phù hợp với khả năng nhận ủy thác
để cho vay của PVFC, phòng dịch vụ ủy thác có trách nhiệm thảo luận với bên vay
và tìm kiếm nguồn ủy thác phù hợp.
Khi được bên ủy thác chấp nhận, phòng dịch vụ ủy thác sẽ:
- Tiến hành thẩm định tín dụng và lập báo cáo thẩm định gửi cho bên ủy thác
trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ hai.
- Trợ giúp tổ chức để bên ủy thác tiến hành việc thẩm định tín dụng, lập báo
cáo thẩm định trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất.
b) Ký kết hợp đồng:
Hợp đồng ủy thác cho vay do giám đốc (hoặc người được ủy quyền) của bên ủy
thác và PVFC ký. Hợp đồng được lập làm 4 bản, mỗi bên giữ hai bản.Hợp đồng
52
tín dụng ủy thác được lập thành 3 bản (là 4 bản nếu cho vay có bảo lãnh), bên vay
giữ một bản, hai bản do bên cho vay giữ, một bản (nếu có ) do bên bảo lãnh giữ.
c) Hồ sơ rút vốn của bên vay:
Hồ sơ rút vốn và các điều kiện rút vốn của bên ủy thác được qui định trong hợp
đồng tín dụng. Trường hợp PVFC nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất, các qui
định này phải phù hợp với các qui định trong hợp đồng ủy thác cho vay.
Khi rút vốn, bên vay gửi bộ hồ sơ rút vốn phù hợp với qui định trong hợp đồng
tín dụng cho PVFC.
d) Điều chuyển vốn và giải ngân:
PVFC sẽ mở tài khoản ủy thác tại bên ủy thác để tiếp nhận vốn ủy thác. Việc mở
tài khoản có thể bao gồm tài khoản VND hoặc ngoại tệ.
+ Trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất, mỗi lần bên vay rút
vốn, phòng dịch vụ ủy thác có trách nhiệm:
- Tiếp nhận và kiểm tra toàn bộ hồ sơ rút vốn theo đúng yêu cầu nội dung của
hợp đồng tín dụng ủy thác.
- Lập thông báo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí.pdf