Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính: Báo cáo tốt nghiệp
Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính
Mục lục
Lời nói đầu ..................................................................................................................................................3
Chương 1 .....................................................................................................................................................4
1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp .........................................................................................................5
a. Hao mòn hữu hình. ................................................................................................................................. 11
b. Hao mòn vô hình. ................................................................................................................................... 12
a. Khấu hao TSCĐ. ........................................................................
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính
Mục lục
Lời nói đầu ..................................................................................................................................................3
Chương 1 .....................................................................................................................................................4
1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp .........................................................................................................5
a. Hao mòn hữu hình. ................................................................................................................................. 11
b. Hao mòn vô hình. ................................................................................................................................... 12
a. Khấu hao TSCĐ. .................................................................................................................................... 12
b. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ ................................................................................................... 13
2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. ....................................................................................................................................................... 15
3. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. ............................... 24
Chương 2 ........................................................................................................................................... 35
2.1. Sản phẩm và thị trường của công ty : ....................................................................................................... 36
2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất: ................................................................................................................ 36
2.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý: ...................................................................................................... 36
2.4. Tình hình lao động: ............................................................................................................................ 39
2.5. Nguồn vốn hình thành TSCĐ của công ty .......................................................................................... 39
Biểu 1: Nguồn vốn hình thành TSCĐ của Công ty ................................................................................... 39
2.6. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của công ty In tài chính:.............................................................................. 39
2.7. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ ở công ty in tài chính năm 2001: ....................................................... 42
4.1.1. Thuận lợi......................................................................................................................................... 49
4.1.2. Khó khăn ........................................................................................................................................ 50
Chương 3 ................................................................................................................................................... 59
1. Những phương hướng chung để nâng hiệu hiệu quả sử dụng VCĐ ở Công ty In tài chính. ............................. 60
2. Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty In tài chính ............................. 61
Kết luận .................................................................................................................................................... 72
Phân loại TSCĐ ..................................................................................................................................... 73
III. TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý ...................................................................................................... 73
Nguồn: Phòng tài vụ Công ty in tài chính ............................................................................................ 73
Nguồn: Phòng tài vụ Công ty in tài chính ............................................................................................ 76
Lời nói đầu
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy,
muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến
hành một cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải
tổ chức tốt công tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách
khác là doanh nghiệp phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ
vững được sức mua của đồng vốn trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều
rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng vốn đồng thời đánh giá được
chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp ngày
càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp không thể
không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc bất di bất
dịch trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các
doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn
thành kế hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp
về mọi mặt như: vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù... nên các doanh
nghiệp quốc doanh không coi việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm
của bản thân mình, mà là của Nhà nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích,
với chỉ tiêu.
Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh,
nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản
xuất kinh doanh, doanh thu không bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá
trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là
do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý.
Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói
chung, kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà mục đích nghiên
cứu của đề tài là đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
tại Công ty.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt động
thực tế của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời điểm
nghiên cứu số liệu lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001.
3. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và nhận xét
của cơ sở thực tập, nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3 chương:
Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố
định ở Công ty In tài chính
Chương 1
Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các
doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền
tệ ngày càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều
thành phần kinh tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình
đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh tế quốc dân thì mỗi doanh nghiệp là một tế
bào kinh tế. Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai yếu
tố cơ bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và tác dụng
khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là
đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính chất
và tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai
bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... Đặc
điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật
chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không thay đổi, song giá trị của nó
lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị
chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở từng
thời kỳ nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu chuẩn giới hạn
của một TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định những tư liệu lao động
được coi là TSCĐ phải có đủ hai điều kiện sau:
- Có thời hạn sử dụng trên một năm.
- Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên.
Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được
coi là công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu động tài trợ.
Tuy nhiên do yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường hợp có những tư
liệu lao động dù giá trị và thời hạn sử dụng không đủ tiêu chuẩn quy định nhưng
vấn được coi là TSCĐ của doanh nghiệp như tổ hợp các đồ dùng trong một phòng
làm việc một khách sạn... Mặt khác, trong doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư
cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển cũng tương tự như TSCĐ vì vậy
được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình). Ví dụ như các
khoản chi đầu tư mua các bằng phát minh sáng chế, các chi phí cho việc nghiên cứu
phát triển, nghiên cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò...
Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong
doanh nghiệp như sau:
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có
giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản
cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển
dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được biểu
hiện dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua sắm
TSCĐ, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số vốn ứng
trước xây dựng, mua sắm TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại
lại có những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được sử dụng
trong những lĩnh vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Do
vậy cần phân loại TSCĐ để có những biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp
theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp. Thông thường có những cách phân loại TSCĐ chủ yếu sau:
1.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất
(TSCĐ vô hình)
* TSCĐ hữu hình là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà
xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc... Những TSCĐ này
có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ
phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
* TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện
một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh
của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh
sáng chế hay nhãn hiệu thương mại...
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào
TSCĐ hữu hình và vô hình. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định
đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế và
cũng là căn cứ để đưa ra các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu
hao hợp lý.
1.1.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng
Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
* TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh
nghiệp.
* TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là
những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp (như các công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an
ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
* Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những TSCĐ
doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình
theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử
dụng sao cho có hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp
có thể chia thành các loại sau:
* Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành
sau quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, cầu
cảng...
* Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc thiết bị động lực, máy móc công
tác, thiết bị chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ.
* Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải
như: phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và
các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước...
* Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị
điện tử, dụng cụ đo lường, máy hút bụi...
* Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại
trên như tác phẩm nghệ thuật tranh ảnh...
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong
doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ, tính toán
khấu hao TSCĐ chính xác.
1.1.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp
thành các loại:
* TSCĐ đang sử dụng: là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh,
quốc phòng của doanh nghiệp.
* TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất
kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng,
đang được dự trữ để sử dụng sau này.
* TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hoặc
không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý,
nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả của TSCĐ của doanh
nghiệp như thế nào, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm
lực sản xuất cần được khai thác, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng
TSCĐ.
1.1.5. Phân loại TSCĐ theo quan hệ sở hữu
Theo phương pháp này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
TSCĐ chủ sở hữu (tự có) và TSCĐ thuê ngoài.
* TSCĐ chủ sở hữu (tự có) là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình
thành từ nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn
liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu... Đây là những
tài sản mà doanh nghiệp có quyền sử dụng lâu dài và được phản ánh trên bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp.
* TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất
định theo hợp đồng đã ký kết gồm: TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động.
Trong đó TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp được
phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và
trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp. Còn đối với TSCĐ thuê hoạt
động, doanh nghiệp chỉ được quản lý, sử dụng trong thời hạn hợp đồng và phải hoàn
trả khi kết thúc hợp đồng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý biết được nguồn gốc hình thành
các loại TSCĐ để có hướng sử dụng và trích khấu hao đúng, từ đó tổ chức hạch
toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao.
Trên đây là những đặc điểm và thuộc tính của TSCĐ. Những đặc điểm này
sẽ chi phối đặc điểm tuần hoàn của vốn cố định. Từ đó có thể thấy được bản chất
vốn cố định và những đặc điểm tuần hoàn của nó.
1.2. Khái niệm, đặc điểm chu chuyển của vốn cố định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm xây dựng hay lắp đặt
các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư
ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải
thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay
lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi
lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô
của vốn cố định (VCĐ) nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất
lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử
dụng lại có ảnh hưởng quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của
VCĐ. Trên ý nghĩa của mối liên hệ đó, có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận
động của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm có đặc điểm này là do
TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế mà VCĐ - hình thái
biểu hiện bằng tiền của nó cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
- VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và
cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng
với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
- VCĐ sau nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm
dần dần tăng lên. Song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho
đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị
sản phẩm đã sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ
phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh
nghiệp.
Từ những nội dung phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về VCĐ như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về
TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ
sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
TSCĐ và VCĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Một cách chung nhất nó quyết định đến trình độ sản
xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ấy có khả năng thực hiện được các mục
tiêu của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô VCĐ càng lớn, trình độ
trang bị kỹ thuật TSCĐ của doanh nghiệp càng hiện đại chứng tỏ trình độ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Chính vì vậy vấn đề đổi mới TSCĐ luôn là
một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đổi
mới TSCĐ, quan trọng nhất là cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có sử
dụng tốt VCĐ thì mới có điều kiện để đổi mới TSCĐ.
1.3. Khấu hao tài sản cố định.
1.3.1. Hao mòn tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác
nhau, TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình
và hao mòn vô hình.
a. Hao mòn hữu hình.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của TSCĐ
trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ
sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động
của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất ...; sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ
thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa.
Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt
giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng
phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất.
Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân
tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc chấp
hành các quy phạm pháp luật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các
nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng TSCĐ như nhiệt độ, độ ẩm, tác động của
các hoá chất... Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình còn phụ thuộc vào chất lượng
chế tạo TSCĐ, ví dụ như chất lượng nguyên vật liệu được sử dụng, công nghệ chế
tạo...
Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu hình
TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó.
b. Hao mòn vô hình.
Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản
do có những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại
hơn.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ, không phải do
chúng được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Trong điều kiện tăng trưởng mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện nay, người ta có
thể sản xuất ra được những loại máy móc có tính năng tác dụng như máy cũ nhưng
với giá hạ hơn hoặc sản xuất ra những loại máy có cùng giá trị nhưng công suất lớn
hơn, chất lượng tốt hơn. Do vậy, những máy móc được sản xuất ở thời gian trước
đây sẽ bị “mất giá” so với hiện tại, sự “mất giá” đó chính là hao mòn vô hình. Hao
mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt
làm cho những máy móc để chế tạo ra sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng.
Để khắc phục hao mòn vô hình, các doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ
thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học. Điều
đó có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh
tranh trên thị trường.
1.3.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
a. Khấu hao TSCĐ.
Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản
phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ.
Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ
trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính
toán thích hợp.
Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn
hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào
giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm biêủ hiện dưới
hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu
thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh
nghiệp, quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Song trên thực tế, trong
điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao có khả năng tái sản xuất mở
rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng cách: Các doanh nghiệp sẽ sử
dụng linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ
sung cho các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lợi (trên
nguyên tắc được hoàn quỹ). Hoặc nhờ nguồn này, đơn vị có thể đầu tư đổi mới
TSCĐ ở những năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại
hơn. Trên ý nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được coi là một nguồn tài chính quan trọng
để tái sản xuất mở rộng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
b. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
Việc tính khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện theo
nhiều phương pháp khác nhau. Thông thường có các phương pháp cơ bản sau:
* Phương pháp khấu hao bình quân (hay còn gọi là phương pháp tuyến tính
cố định).
Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng khá phổ biến để
tính khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu
hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng
TSCĐ. Mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo công thức:
MKH =
Gđ
T
TKH =
MKH
T
Trong đó:
MKH: Mức khấu hao trung bình hàng năm.
TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm.
Gđ: Nguyên giá TSCĐ.
T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm)
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng năm
chia cho 12 tháng.
Ưu điểm của phương pháp khấu hao bình quân là tính toán đơn giản, dễ hiểu.
Mức khấu hao tính vào giá thành đều đặn làm cho giá thành ổn định. Tuy nhiên,
phương pháp này có nhược điểm là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn
thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng khác nhau; khả
năng thu hồi vốn chậm làm TSCĐ chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
* Phương pháp khấu hao giảm dần.
Phương pháp khấu hao này gồm hai phương pháp: Khấu hao theo số dư giảm
dần và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Thực chất của phương pháp này là số tiền khấu hao hàng năm được tính
bằng cách: lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ lệ khấu
hao không đổi. Như vậy mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao theo thời hạn sử dụng
TSCĐ sẽ giảm dần. Công thức tính tỷ lệ khấu hao hàng năm theo thời hạn sử dụng
như sau:
TKH = 1 -
Gđ. t
GC
Trong đó:
TKH: Tỷ lệ khấu hao hàng năm
GC: Giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm tính toán
Gđ: nguyên giá của TSCĐ
t: Thời điểm của năm cần tính khấu hao
- Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
Theo phương pháp này, số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân
giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao
này được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự
năm sử dụng.
Công thức tính như sau:
TKH = t
T
Trong đó:
TKH: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng
T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ
t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao.
Phương pháp khấu hao giảm dần có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn mức
hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, thu hồi vốn nhanh nên hạn chế được ảnh
hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là việc
tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp, số tiền trích khấu
hao luỹ kế đến năm cuối cùng cũng chưa đủ bù đắp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu
vào TSCĐ.
Trên thực tế người ta có thể sử dụng kết hợp phương pháp khấu hao bình
quân với phương pháp khấu hao giảm dần bằng cách: trong những năm đầu sử dụng
TSCĐ thì áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối thì thực
hiện phương pháp khấu hao bình quân. Bằng cách này có thể hạn chế được hao mòn
vô hình và số khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ bù đắp được giá trị ban đầu của
TSCĐ.
Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ là một căn cứ quan trọng
giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo toàn và nâng cao
hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời cũng là căn cứ cho việc lập kế hoạch khấu hao
TSCĐ của các doanh nghiệp.
2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định (VCĐ).
Trong các doanh nghiệp, VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói
riêng và của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ và trình độ quản lý, sử dụng
nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
của doanh nghiệp. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân
theo tính quy luật riêng nên việc quản lý VCĐ được coi là một trọng điểm của công
tác tài chính doanh nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, phải trải qua một thời gian dài VCĐ mới hoàn thành
được một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý
doanh nghiệp ở đây là làm thế nào để VCĐ trong suốt thời gian dài tham gia vào
quá trình sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Hay nói cách khác là làm thế nào để sử dụng VCĐ một cách có hiệu quả
nhằm thực hiện được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy hiệu quả sử dụng
VCĐ là gì ? Trong các doanh nghiệp nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu nào ?
Trước hết nói về hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh
tế của sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng VCĐ nói riêng được biểu
thị qua mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình sản xuất với chi phí về
lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra để đạt được kết quả trên.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả hai mặt: Hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện nội dung cơ
bản của hiệu quả sản xuất. Trong đó hiệu quả kinh tế là cơ sở vật chất của hiệu quả
xã hội, hiệu quả xã hội tạo điều kiện tốt hơn để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn.
Như vậy, ta có thể thấy rằng: Hiệu quả sử dụng VCĐ là mối quan hệ giữa kết
quả đạt được trong quá trình khai thác sử dụng VCĐ vào sản xuất với số VCĐ đã sử
dụng để đạt được kết quả đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi sử
dụng vốn vào sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng đều phải quan tâm đến hiệu quả
nó mang lại. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp, người ta
thường dùng một hệ thống các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu
phân tích.
Các chỉ tiêu tổng hợp nhằm phản ánh về mặt chất của việc sử dụng VCĐ
doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu này, người quản lý có thể so sánh kết quả
quản lý giữa kỳ này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp
khác có quy mô tương tự để rút ra những trọng điểm cần quản lý. Thuộc loại này
bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố
định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn cố
định
=
Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số
học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Số vốn cố định bình
quân trong kỳ
=
Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ
2
Trong đó:
Số vốn cố định đầu kỳ = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ - Số khấu hao luỹ kế đầu kỳ
Số vốn cố định cuối kỳ = Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ - Số khấu hao luỹ kế cuối kỳ
- Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc
doanh thu thuần cần bao nhiều đồng vốn cố định.
Hàm lượng vốn cố định =
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ tiêu này
phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận
trước thuế (hoặc sau thuế). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng
và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận vốn
cố định
=
Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Bên cạnh những chỉ tiêu tổng hợp nêu trên, người ta còn sử dụng một số chỉ
tiêu phân tích để phản ánh từng mặt của việc sử dụng vốn cố định trong kỳ. Thuộc
các chỉ tiêu phân tích bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Hệ số hao mòn TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ
trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Hệ số hao mòn
TSCĐ
=
Số tiền khấu hao kuỹ kế
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ
tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần.
Hiệu suất sử
dụng TSCĐ
=
DT ( hoặc DT thuần ) trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
- Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa
giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời
điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ
cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp, từ đó có biện pháp đầu tư, điều chỉnh lại
cơ cấu TSCĐ nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là những chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu phân tích chủ yếu nhằm phục
vụ cho việc kiểm tra tài chính đối voíư việc sử dụng VCĐ của mỗi doanh nghiệp.
Khi đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải kết hợp các hai loại chỉ tiêu trên để
rút ra được những kết luận đúng đắn. Ngoài ra, vì TSCĐ gồm nhiều loại nên phải
kết hợp xem xét các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng loại cụ thể về mặt hiện vật để
đánh giá được toàn diện và chính xác hiệu quả sử dụng VCĐ.
Qua phương pháp xác định hiệu quả sử dụng VCĐ trên đây chúng ta thấy
rằng: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác một cách triệt để khả
năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế của máy móc, thiết
bị, tận dụng một cách tối đa giờ máy... để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được trên một đồng chi phí về TSCĐ
(VCĐ) ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là khi hiệu quả sử dụng VCĐ được nâng
lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ cho kết quả nhiều hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một trong những phương pháp
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Do đó các doanh
nghiệp phải thường xuyên nắm vững tình hình sử dụng VCĐ để đề ra những biện
pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp.
2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp sản xuất là vấn đề cần thiết cấp bách, có ảnh hưởng rất lớn
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu
sau:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp với bất kỳ một doanh
nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Từ
góc độ của doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản
tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu
nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh và là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc
biệt trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có
tồn tại và phát triển được hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp tạo ra được
lợi nhuận hay không. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan
trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện
được chỉ tiêu lợi nhuận là một điều quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của
doanh nghiệp được vững chắc. Chính vì vậy, sản xuất kinh doanh như thế nào để có
lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp.
Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác tổ
chức và quản lý sản xuất, trong đó có vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có
như vậy mới đem lại được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp ngày
càng phát triển.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. VCĐ của doanh nghiệp là thành phần cơ bản của vốn sản xuất kinh
doanh. Nó gắn liền với quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
đồng thời thể hiện một cách chính xác nhất trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
của mỗi doanh nghiệp. Do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ làm cho hiệu quả
sử dụng vốn sản xuất tăng lên. Đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới của việc sử
dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Hiệu quả sử
dụng VCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện
pháp hữu hiệu về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhằm
thúc đẩy sản xuất phát triển. Chất lượng sản xuất cao sẽ thu được nhiều lãi, hoàn
vốn nhanh. Đây cũng là mục tiêu phấn đấu của mọi doanh nghiệp trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là đảm bảo với số vốn hiện có,
bằng các biện pháp quản lý và sử dụng tổng hợp nhằm khai thác triệt để mọi khả
năng để có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ phải được biểu hiện trên hai khía cạnh:
Một là, với số vốn hiện có có thể sản xuất ra được một số lượng sản phẩm
lớn hơn trước với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng được lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
Hai là, đầu tư thêm VCĐ một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để
tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc
độ tăng của vốn.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh
nghiệp là phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch sản xuất phải
được đặt trên cơ sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. Vì thế trong điều kiện cơ chế thị
trường, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như
chất lượng sử dụng VCĐ của doanh nghiệp là lợi nhuận.
Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một vấn đề cần thiết và là điểm
đầu tiên quyết định sự tồn tại, phát triển của một tổ chức kinh tế trong điều kiện nền
kinh tế mới.
Đối với nước ta hiện nay, đang trong chặng đường đầu của công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá theo con đường chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật
được xây dựng và phát triển với tốc độ cao, TSCĐ được huy động vào sản xuất
ngày càng nhiều. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ được coi là một
trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý sản xuất nói chung và kế hoạch
sử dụng VCĐ nói riêng. Điều đó xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử
dụng VCĐ.
Để thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, doanh nghiệp cần phải khai
thác triệt để khả năng tiềm tàng của TSCĐ, phát huy hết công suất của nó, tận dụng
tối đa giờ máy, tăng cường độ làm việc, lựa chọn đầu tư hợp lý... Như vậy, nâng cao
hiệu quả sử dụng VCĐ có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động tăng lên, nâng cao
trình độ công nghệ sản xuất. Từ đó làm tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra trên một
đơn vị TSCĐ, giảm lao động vật hoá tiêu hao trong một đơn vị sản phẩm và tiết
kiệm lao động sống trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cho giá thành hạ, chất
lượng sản phẩm được đảm bảo, công tác tiêu thụ được đẩy mạnh... làm tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn có ý nghĩa thúc đẩy vòng chu chuyển
của VCĐ tăng nhanh, tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình,
từ đó thúc đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp với tốc độ phát triển của tiến
bộ khoa học kỹ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn đồng nghĩa với việc mở
rộng sản xuất mà không cần bỏ thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng mới
TSCĐ. Do đó tiết kiệm được vốn mà vẫn tăng doanh lợi cho doanh nghiệp, làm cho
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự mang lại hiệu quả kinh tế
cao và ngày một phát triển.
Qua đây chúng ta thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có ý nghĩa
vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi
doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, vấn đề nâng cao
hiệu quả sử dụng VCĐ là rất cần thiết và cấp bách, nhất là đối với các doanh nghiệp
Nhà nước bởi các lý do sau:
* Thứ nhất: Do tác động của cơ chế mới. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt
động theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại phát triển và
cạnh tranh với nhau. Khi đó các doanh nghiệp Nhà nước muốn đứng vững trên thị
trường thì nhất thiết phải sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo không
những duy trì bảo toàn được đồng vốn hiện có mà phải làm cho đồng vốn đó ngày
càng tăng lên tức là kinh doanh phải có lãi. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải
thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng. Mặt
khác trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý hiện nay các doanh nghiệp thực sự là
một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tự tìm hiểu thị
trường, tự chủ trong việc tìm đầu vào và đầu ra của sản xuất, tự chịu trách nhiệm
trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng ngày càng trở nên thiết thực và cấp bách
hơn.
* Thứ hai: Trong thời gian qua, tình trạng quản lý và sử dụng VCĐ của các
doanh nghiệp ở nước ta còn rất thấp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất
kinh doanh.
Như chúng ta đã biết, để tiến hành sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Trong các doanh nghiệp, vốn được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau. Đối với nguồn vốn dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ bao
gồm:
- Nguồn vốn pháp định: gồm VCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp phát
cho doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
- Nguồn vốn tự bổ sung: được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh theo quy định của cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn ...
dùng để mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị.
- Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên doanh
góp vốn bằng TSCĐ và góp bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành.
- Nguồn vốn vay: gồm các khoản vay Ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế
khác để đầu tư vào TSCĐ, hoặc các khoản huy động được từ phát hành cổ phiếu,
trái phiếu...
Thực tế trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, hiệu quả kinh tế đạt được
nhìn chung còn thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất kinh doanh
còn gặp nhiều khó khăn thì việc bổ sung VCĐ bằng các quỹ của doanh nghiệp còn
rất hạn chế. Mặt khác, các doanh nghiệp làm ăn còn kém hiệu quả nên việc liên
doanh liên kết và huy động vốn liên doanh của các đơn vị khác sẽ rất khó khăn. Bởi
vì khi đem đồng vốn đi góp vốn liên doanh các nhà kinh tế phải phân tích hiệu quả
kinh tế của đồng vốn đem đi góp, phân tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp
định liên doanh làm ăn có hiệu quả hay không? Chính vì vậy mà nguồn VCĐ huy
động từ liên doanh hay các nguồn khai thác từ bên ngoài cũng chỉ đạt được ở một
mức độ nhất định. Vì vậy nguồn VCĐ của doanh nghiệp chủ yếu là do nguồn vốn
Ngân sách cấp. Theo quy định hiện hành thì doanh nghiệp Nhà nước được cấp
không VCĐ. VCĐ có vòng luân chuyển chậm (đối với máy móc thiết bị trung bình
từ 15 đến 20 năm) do đó làm cho doanh nghiệp không thấy căng thẳng về tài chính
dẫn đến tình trạng ít quan tâm đến việc tính toán hiệu quả đầu tư VCĐ đưa đến tình
trạng TSCĐ được trang bị một cách chắp vá, không đồng bộ theo một cơ cấu bất
hợp lý. Việc lắp đặt, sử dụng, bảo dưỡng và sửa chữa kém nên TSCĐ không phát
huy hết năng lực nên hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp, làm thất thoát VCĐ.
Việc quản lý TSCĐ còn nhiều thiếu sót, việc phân loại TSCĐ, tính toán từng
loại TSCĐ trong tổng số chưa hợp lý. Có những doanh nghiệp mà loại TSCĐ chưa
dùng và không dùng chờ thanh lý vẫn còn có tiềm lực tận dụng phục vụ sản xuất
nhưng chưa được sử dụng hợp lý. Không ít doanh nghiệp chỉ quan tâm đầu tư
TSCĐ có tính chất phục vụ sản xuất, phục vụ quản lý và làm việc mà không chú ý
đầu tư tăng TSCĐ trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Việc trang bị thiết bị máy móc
thiếu đồng bộ, trình độ tổ chức quản lý của các doanh nghiệp còn thấp, công tác
quản lý và sử dụng TSCĐ còn nhiều tồn tại. Cụ thể là:
+ Trong các doanh nghiệp Nhà nước cơ cấu TSCĐ thường không hợp lý. Tỷ
trọng giá trị máy móc thiết bị sản xuất trong tổng giá trị TSCĐ còn thấp. Phần lớn
các TSCĐ thuộc thế hệ cũ, năng lực sản xuất hạn chế, mức huy động vào sản xuất
chưa cao. Máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà
nước còn lạc hậu, năng suất thấp, tiêu hao năng lượng nhiên liệu nhiều, mức huy
động vào sản xuất mới chỉ đạt 25 - 30% công suất máy móc thiết bị. Trong công tác
đầu tư doanh nghiệp chưa chú trọng quan tâm đến yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Vì vậy mà phần lớn máy móc thiết bị được trang bị chưa đạt được trình độ công
nghệ hiện đại, công suất thấp... nên việc sử dụng TSCĐ còn kém hiệu quả.
+ Trong doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc phân loại cũng như phân cấp
quản lý TSCĐ. Việc giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân chưa chặt chẽ rõ
ràng, việc sử dụng TSCĐ chưa đúng quy chế, chế độ bảo dưỡng sửa chữa, mua sắm
không đúng chế độ làm cho TSCĐ bị hư hỏng trước thời hạn, năng lực sản xuất bị
giảm sút. Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác tác động dẫn đến tình trạng
máy móc thiết bị phải ngừng hoạt động làm gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh
hưởng đến nhịp điệu sản xuất chung gây lãng phí vốn bỏ ra.
+ Việc lập kế hoạch trích khấu hao không phù hợp với sự biến động của giá
cả nên không tránh khỏi hao mòn hữu hình và vô hình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để có thể tái sản xuất lại được các tài sản đó. Đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển, việc khấu hao TSCĐ phải có một phương thức thích hợp
để tránh được hao mòn vô hình. Những năm qua việc trích khấu hao thấp hơn hao
mòn rất phổ biến, việc sử dụng quỹ khấu hao trong các doanh nghiệp chưa đúng
mục đích. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu sự
quan tâm đúng mức trước hiệu quả đầu tư và sử dụng máy móc thiết bị, làm hạn chế
rất lớn đến việc bảo toàn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước.
+ ý thức lao động của con người còn ở mức độ thấp chưa có tính tự giác. Bên
cạnh đó việc quản lý lại còn nhiều thiếu sót chưa có chế độ thưởng phạt nghiêm
minh trong trách nhiệm bảo quản TSCĐ của cán bộ công nhân viên. Các cơ quản
chủ quản cấp trên còn chậm trễ trong việc xây dựng, đổi mới cơ chế tài chính về
quản lý vốn đầu tư vào TSCĐ, thiếu các chế độ quy định về nguyên tắc và phương
pháp đánh giá TSCĐ. Chính vì vậy mà hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh
nghiệp còn rất thấp.
Từ việc sử dụng kém hiệu quả VCĐ nêu trên đã dẫn đến tình trạng sản phẩm
làm ra bị hạn chế về chủng loại, mẫu mã không hợp lý ít được cải thiện để phù hợp
với thị hiếu của người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm thấp không đủ điều kiện để
cạnh tranh ngay cả ở thị trường trong nước. Do đó nếu không có sự thay đổi lớn thì
triển vọng và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước rất khó khăn,
dẫn đến nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn thua lỗ có nguy cơ bị phá sản.
Qua những nội dung phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, quyết định đến sự tăng trưởng và
phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chính sự cần thiết và cấp
bách của vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu
quả sử dụng VCĐ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
cố định.
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Để có được các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, trước hết chúng
ta cần phải xem xét hiệu quả sử dụng VCĐ chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào.
Từ đó có những biện pháp tác động tích cực để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VCĐ đó là:
* Công tác đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Nếu việc
đầu tư mua sắm máy móc thiết bị được tổ chức tốt trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng
nhu cầu của thị trường về khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng tận dụng thời gian
làm việc và công suất của TSCĐ từ đó lựa chọn, mua sắm những máy móc thiết bị
phù hợp với yêu cầu về quy mô và chất lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp.
Sản phẩm có chất lượng cao với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ
làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời doanh nghiệp có khả năng để tận
dụng thời gian và công suất máy móc thiết bị. Như vậy hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ
được nâng cao.
Công tác đầu tư, mua sắm TSCĐ được tổ chức tốt, còn được thể hiện ở việc
nghiên cứu, lựa chọn người bán, phương thức thanh toán và nguồn vốn đầu tư phù
hợp để mua sắm những TSCĐ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp với
chi phí đầu tư hợp lý.
Ngược lại, nếu việc đầu tư, mua sắm TSCĐ không tốt các máy móc thiết bị,
dây chuyền công nghệ mua về không phù hợp với đặc điểm sản xuất của doanh
nghiệp, không sử dụng hoặc sử dụng không đủ đáp ứng yêu cầu về số lượng sản
phẩm sẽ làm giảm doanh thu tiêu thụ. Hoặc việc mua thêm những máy móc mới có
giá trị lớn nhưng doanh nghiệp lại không tận dụng hết thời gian làm việc và công
suất của máy sẽ gây lãng phí hoặc làm tăng chi phí sử dụng TSCĐ. Như vậy, hiệu
quả sử dụng VCĐ sẽ thấp.
* Công tác tổ chức sản xuất cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử
dụng VCĐ của doanh nghiệp.
Nếu công tác tổ chức sản xuất hợp lý, máy móc thiết bị được huy động vào
sản xuất cao, đẩy vòng luân chuyển của VCĐ tăng nhanh, giảm ứ đọng về vốn sẽ
tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình.
Ngược lại, tổ chức sản xuất không hợp lý, máy móc thiết bị huy động vào
sản xuất thấp, máy móc thiết bị chưa cần dùng hoặc không cần dùng nhiều sẽ gây ứ
đọng về vốn, đồng thời hao mòn vô hình và hữu hình tăng (do nhiều nguyên nhân
khác nhau) trong khi không có doanh thu tiêu thụ những sản phẩm do những TSCĐ
này tạo ra. Vì vậy, hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp sẽ thấp.
* Việc tổ chức lao động một cách khoa học, bố trí sắp xếp công nhân có trình
độ và tay nghề phù hợp với máy móc thiết bị sẽ phát huy được công suất của máy,
tiết kiệm được chi phí, đồng thời năng suất lao động cũng tăng nhanh, số lượng sản
phẩm làm ra đạt yêu cầu chất lượng sẽ nhiều hơn, tức là kết quả thu được từ việc sử
dụng VCĐ sẽ cao hơn.
Và ngược lại nếu tổ chức lao động không hợp lý, sắp xếp công nhân có trình
độ và tay nghề không phù hợp với máy móc thiết bị sẽ gây lãng phí do không tận
dụng được khả năng của máy, sản lượng sản phẩm làm ra bị hạn chế dẫn đến kết
quả thấp.
* Trách nhiệm và ý thức của người lao động cũng là một nhân tố ảnh hưởng
không nhỏ tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Nếu người lao động có ý thức tự giác, có
trách nhiệm cao đối với công việc và TSCĐ mà mình sử dụng cũng như những tài
sản của doanh nghiệp mình, chú ý bảo quản TSCĐ sẽ hạn chế được hư hỏng, mất
mát TSCĐ, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
* Công tác quản lý TSCĐ là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả
sử dụng VCĐ. Việc quản lý TSCĐ một cách chặt chẽ rõ ràng sẽ là cơ sở cho việc
thực hiện kế hoạch đầu tư, kế hoạch tổ chức sản xuất, công tác sửa chữa, bảo
dưỡng, nhượng bán, thanh lý..., đồng thời sẽ hạn chế việc hư hỏng, thất thoát
TSCĐ.
* Nhân tố tiếp theo là công tác sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ của doanh
nghiệp. Nếu công tác này được thực hiện tốt, việc bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ được
tiến hành một cách kịp thời và có hiệu quả sẽ góp phần khôi phục duy trì và nâng
cao thêm năng lực sản xuất của TSCĐ, đảm bảo cho TSCĐ không bị hư hỏng trước
thời hạn, như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí sử dụng TSCĐ.
Ngược lại, khi công tác sửa chữa, bảo dưỡng không được thực hiện tốt và kịp
thời sẽ làm cho TSCĐ nhanh bị hỏng, có thể bị hư hỏng trước thời hạn, gây lãng phí
vốn. Khi đó thì VCĐ được sử dụng không có hiệu quả mà thậm chí còn không bảo
toàn được VCĐ.
* Việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có ảnh hưởng không nhỏ tới
hiệu quả sử dụng VCĐ. Nếu trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý, theo
đúng chế độ và phù hợp với đặc điểm riêng của từng TSCĐ hoặc từng nhóm TSCĐ
sẽ đảm bảo thu hồi đủ vốn để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Bên cạnh đó, nếu quỹ
khấu hao được sử dụng linh hoạt sẽ có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Doanh
nghiệp có thể dùng quỹ khấu hao để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác mà
được xác định là có hiệu quả sẽ làm tăng thêm thu nhập cho doanh nghiệp. Tất
nhiên là việc sử dụng quỹ khấu hao đó phải hợp lý và phải đảm bảo hoàn nhập quỹ
để tái sản xuất TSCĐ khi đến thời hạn sử dụng quỹ khấu hao.
* Môi trường sử dụng TSCĐ cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Trong điều kiện môi trường không phù hợp về nhiệt độ, độ ẩm, không khí... sẽ là các
yếu tố tự nhiên gây nên hao mòn hữu hình của TSCĐ, làm chúng bị hư hỏng, làm tăng
chi phí sử dụng TSCĐ do phải sửa chữa hoặc thanh lý trước thời hạn. Từ đó sẽ làm cho
hiệu quả sử dụng VCĐ giảm đi.
* Một nhân tố nữa ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ
đó là cơ chế, chính sách của Nhà nước. Các quy định của Nhà nước trong việc quản
lý sử dụng VCĐ ở các doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng
VCĐ của các doanh nghiệp này như: các quy định về đánh giá và đánh giá lại
TSCĐ, cách tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao TSCĐ hay việc quản lý quỹ khấu hao...
Nếu các quy định của Nhà nước hợp lý, đúng đắn, được ban hành kịp thời sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc quản lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng VCĐ.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới công tác nâng cao hiệu quả
sử dụng VCĐ ở các doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp nhất thiết phải nắm
bắt được mức độ tác động của chúng để phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế
những nhân tố tiêu cực, từ đó đề ra các biện pháp đúng đắn để nâng cao hiệu quả sử
dụng TSCĐ của doanh nghiệp mình.
3.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các
doanh nghiệp.
3.2.1. Làm tốt công tác đầu tư xây dựng, mua sắm TSCĐ.
Hiệu quả sử dụng VCĐ trước hết phụ thuộc vào chất lượng của công tác đầu
tư mua sắm xây dựng TSCĐ.
Mục đích trực tiếp của việc đầu tư, mua sắm TSCĐ là làm tăng năng lực
kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác đây cũng là quá trình phức tạp đòi hỏi khối
lượng vốn rất lớn. Do vậy mà trước khi đầu tư doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ
lưỡng, kiểm tra về điều kiện khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình
cũng như điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận dụng thời gian làm việc và tận
dụng công suất của TSCĐ. Dựa trên cơ sở phân tích đó đi đến quyết định đầu tư vào
loại TSCĐ nào là hợp lý, sau đó tiến hành lựa chọn các đối tác đầu tư, xác định cơ
cấu đầu tư đúng đắn.
Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ thì phải xác định được những khâu
chủ yếu để đầu tư. Nếu khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị
trường là lớn thì đầu tư phải chú ý ưu tiên cho những TSCĐ có tính chất trực tiếp
sản xuất hơn là những TSCĐ có tính chất phục vụ sản xuất thì quá trình hoạt động
sản xuất mới nhịp nhàng đồng bộ mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Chỉ tiến hành đầu tư mua sắm máy móc thiết bị khi thực sự cần thiết, giảm
bớt lượng thiết bị dự trữ tránh tình trạng ứ đọng vốn. Mặt khác phải lựa chọn được
phương án đầu tư thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời phải chú trọng,
quan tâm đến yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật: TSCĐ được đầu tư, mua sắm phải
hiện đại, phải phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật nhằm hạn chế
hao mòn vô hình và phải phù hợp với yêu cầu về công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp.
Trước khi đầu tư xây dựng cơ bản mua sắm TSCĐ cần phải điều tra nghiên
cứu thị trường cẩn thận, phải xem xét phân tích và nắm bắt khả năng tiêu thụ của
sản phẩm trên thị trường, xu thế nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, điều kiện cung
cấp vật tư, khả năng tận dụng thời gian làm việc và công suất TSCĐ.
Việc đầu tư mua sắm phải theo xu hướng ngày càng tăng tỷ trọng những loại
TSCĐ có ý nghĩa tích cực trong sản xuất kinh doanh, còn các loại TSCĐ không
phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh
doanh ngày càng giảm. Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các máy móc
thiết bị, giữa các khâu của quy trình công nghệ và trong tổng số TSCĐ hiện có để
lập kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị cũ, thải
loại những thiết bị mà chi phí sửa chữa phục hồi lớn hơn giá trị còn lại, đồng thời
phải có kế hoạch đầu tư mua sắm thay thế từng phần hoặc toàn bộ TSCĐ. Xác định
đúng các TSCĐ không cần dùng để thanh lý và nhượng bán. Đầu tư phải theo chiều
sâu, quán triệt phương châm đề ra trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII:
“Trong quá trình xây dựng và quản lý kinh tế, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát
triển sản xuất phải luôn luôn chú ý phát triển chiều sâu, tìm cách khai thác bằng mọi
biện pháp thích hợp và đồng bộ hoá cải tạo mở rộng...”
3.2.2. Tổ chức sản xuất hợp lý, quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả
TSCĐ.
Như trên đã nghiên cứu, việc tổ chức sản xuất có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả
sử dụng VCĐ. Cần tổ chức sản xuất một cách hợp lý sao cho số máy móc thiết bị
hiện có, được huy động vào sản xuất cao, số máy chưa cần dùng ở mức cần thiết và
số máy không cần dùng là tối thiểu.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải tăng cường công tác quản lý
chặt chẽ TSCĐ từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng.
Thực hiện việc phân loại cũng như phân cấp quản lý TSCĐ tiến hành giao
TSCĐ cho từng bộ phận từng cá nhân một cách rõ ràng nhằm nâng cao tinh thần
trách nhiệm của người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó
việc thực hiện chế độ khuyến khích vật chất, nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng cường độ sử dụng máy móc thiết bị, đưa thời gian hoạt động của máy móc
thiết bị vào sản xuất là lớn nhất, khai thác một cách triệt để công suất thiết kế của
TSCĐ, hạn chế bớt việc hỏng hóc, mất mát TSCĐ nhằm từng bước nâng cao hiệu
quả sử dụng VCĐ theo cả chiều rộng và chiều sâu, tiết kiệm đến mức tối đa VCĐ,
tăng nhanh vòng quay của vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều rộng được thực hiện bằng việc
tăng thời gian làm việc có ích của TSCĐ hoặc tăng số lượng và tỷ trọng TSCĐ đang
hoạt động trong cơ cấu TSCĐ hiện có ở doanh nghiệp. Khả năng tăng thời gian làm
việc có ích của TSCĐ nói chung mang tính chất dài hạn. Để làm được điều đó phải
đảm bảo tính thường xuyên liên tục cân đối công suất sản xuất tăng cường việc
kiểm tra giám sát, thực hiện nghiêm chỉnh quy trình công nghệ, nâng cao thời gian
gia công chính, nâng cao hệ số công tác.
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều sâu được tiến hành chủ yếu
bằng việc hoàn chỉnh kỹ thuật sản xuất và hiện đại hoá TSCĐ. Việc nâng cao trình
độ sử dụng TSCĐ theo chiều sâu có thể là tăng công suất máy móc thiết bị, nâng
cao những thông số kỹ thuật cơ bản của máy móc thiết bị như tốc độ, áp suất, cơ
giới hoá, tự động hoá quy trình sản xuất ... hoàn thiện quy trình công nghệ, tổ chức
sản xuất dây chuyền trên cơ sở tập trung tối ưu sản xuất những sản phẩm đồng loại,
chọn lọc nguyên vật liệu phù hợp theo yêu cầu đòi hỏi của công nghệ và chất lượng
sản phẩm, có kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp TSCĐ... mặt khác doanh
nghiệp phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, từng người lao động trong
quá trình sử dụng TSCĐ, đồng thời phải có chế độ thưởng phạt hợp lý để khuyến
khích người lao động giữ gìn tốt máy móc thiết bị, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng
VCĐ trong doanh nghiệp.
3.2.3. Tổ chức thực hiện tốt việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu
hao có hiệu quả.
Khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ, trong
quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán
thích hợp.
Trích khấu hao cơ bản thực chất là hình thức thu hồi VCĐ, phục vụ cho tái
sản xuất TSCĐ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng
đồng vốn bỏ ra, trên nguyên tắc khấu hao là mức khấu hao phải phù hợp với mức
hao mòn của TSCĐ. Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản
phẩm hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình mà còn góp phần bảo toàn được
VCĐ. Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải xử lý một cách
linh hoạt mối quan hệ giữa yêu cầu tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao ở đầu vào và
giá bán sản phẩm ở đầu ra phù hợp với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế
thị trường.
Doanh nghiệp phải lập kế hoạch khấu hao trên cơ sở xác định phạm vi TSCĐ
phải tính khấu hao và tổng giá trị TSCĐ phải tính khấu hao ở đầu kỳ, xác định giá trị
TSCĐ tăng giảm bình quân trong kỳ để xác định nguyên giá bình quân TSCĐ phải tính
khấu hao, từ đó xác định mức khấu hao hàng năm.
Việc lập kế hoạch khấu hao sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể dự kiến ở mức
khấu hao thu hồi trong năm là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn
các quyết định đầu tư đổi mới TSCĐ trong tương lai, từ đó có biện pháp tổ chức, sử
dụng có hiệu quả hơn TSCĐ của doanh nghiệp.
Cần phải tính khấu hao một cách đúng đắn, chính xác trong khung thời gian
nhất định mà Nhà nước đã quy định đối với từng loại hoặc từng nhóm TSCĐ. Tuỳ
thuộc vào đặc điểm của từng loại, từng nhóm TSCĐ cũng như yêu cầu về công
nghệ sản xuất của doanh nghiệp để lựa chọn thời hạn trích khấu hao tối đa, tối thiểu
hay trung bình trong khung quy định cho phù hợp, nhằm hạn chế được hao mòn vô
hình.
Vấn đề đặt ra là phải làm tốt công tác trích khấu hao hợp lý có căn cứ khoa
học song phải phù hợp với chi phí giá thành, với quy định của Nhà nước nhằm kích
thích phát triển sản xuất, tránh tình trạng khấu hao quá thấp gây hao mòn vô hình
hay khấu hao quá cao làm đổi giá thành, giá thành cao sản phẩm không tiêu thụ
được ảnh hưởng đến sản xuất.
Theo quy định mới nhất của Bộ Tài Chính thì các doanh nghiệp được sử
dụng hoàn toàn số khấu hao luỹ kế của TSCĐ thuộc vốn đầu tư ngân sách Nhà nước
để tái sản xuất đổi mới TSCĐ. Song khi chưa có nhu cầu đầu tư tái tạo lại TSCĐ thì
doanh nghiệp có thể dùng vào đầu tư tạm thời cho các hoạt động sản xuất hoặc hoạt
động khác nhưng phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả. Sử dụng linh hoạt quỹ khấu
hao làm cho nó không ngừng lớn mạnh, đến khi cần đầu tư đổi mới TSCĐ thì thu
hồi về một cách nhanh nhất để tái tạo TSCĐ phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
3.2.4. Tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn
TSCĐ.
Trên cơ sở của việc quản lý chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên, nắm bắt được
tình trạng của từng loại TSCĐ, doanh nghiệp cần tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa
một cách kịp thời TSCĐ. Mục đích của việc bảo dưỡng, sửa chữa là nhằm duy trì
năng lực hoạt động kinh doanh của TSCĐ trong cả thời kỳ hoạt động của nó, làm
giảm hao mòn, làm tăng thời gian sử dụng TSCĐ, tránh việc TSCĐ bị hư hỏng,
phải sa thải trước thời hạn phục vụ của nó gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả sử
dụng VCĐ. Đồng thời còn đảm bảo tính liên tục, nhịp nhàng, cân đối của quá trình
sản xuất, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm. Dễ thấy một điều là máy móc
thiết bị trong các doanh nghiệp hiện nay ở nước ta hết sức đa dạng về chủng loại và
thuộc nhiều thế hệ khác nhau, vì vậy lựa chọn chế độ bảo dưỡng và sửa chữa thích
hợp là hết sức quan trọng. Hiện nay thường áp dụng chế độ sửa chữa dự phòng theo
kế hoạch mà thực chất của nó là tổng hợp các biện pháp tổ chức kỹ thuật phục vụ
việc bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa.
Để đảm bảo hiệu quả của công tác sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, việc sửa
chữa phải được đặt trên các yêu cầu sau:
+ Đảm bảo duy trì năng lực hoạt động bình thường của máy móc thiết bị
trong đời hoạt động của nó.
+ Phải cân nhắc giữa chi phí bỏ ra với việc thu hồi hết giá trị còn lại của
TSCĐ để quyết định sửa chữa hay chấm dứt đời hoạt động của TSCĐ.
3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện quyền tự chủ của doanh nghiệp trong
quản lý và sử dụng TSCĐ.
Trong các doanh nghiệp Nhà nước thì chính Nhà nước là người chủ sở hữu
TSCĐ còn doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng TSCĐ. Trong cơ chế
cũ do không phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng nên đã dẫn đến tình trạng
vô chủ trong các doanh nghiệp Nhà nước, không ai quan tâm đến hiệu quả sử dụng
TSCĐ. Vì vậy cần phải xác định và hoàn thiện quyền tự chủ của doanh nghiệp trong
quản lý và sử dụng tài sản cũng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế phân phối lợi
ích cho người lao động và tập thể doanh nghiệp nếu họ quản lý và sử dụng tốt
TSCĐ.
Mặt khác cũng cần tránh việc nhận thức quyền sở hữu và quyền sử dụng một
cách máy móc giản đơn dẫn đến tình trạng Nhà nước giao phó hết cho doanh
nghiệp, không tìm cách hướng doanh nghiệp sử dụng và quản lý TSCĐ tốt hơn; còn
doanh nghiệp chỉ tìm cách sử dụng hết công suất; khai thác triệt để TSCĐ mà không
lo bảo toàn, mở rộng tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng
TSCĐ cần xác định chức năng của Nhà nước là kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn,
giúp doanh nghiệp trong việc cung cấp, thông tin, dự báo, tìm thị trường, tạo điều
kiện để doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt TSCĐ mà không can thiệp vào các
hoạt động đó. Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất hàng hoá, có quyền quyết định
độc lập các hoạt động sản xuất kinh doanh có tài sản riêng và chịu trách nhiệm độc
lập về tài sản đó. Doanh nghiệp cần đặt ra những yêu cầu để tập thể bao gồm các
mặt hoạt động như tổ chức, kế hoạch hoá và thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh.
Đồng thời phải xác định được hiệu quả kinh tế của từng biện pháp để nâng cao trình
độ sử dụng TSCĐ.
3.2.6. Tổ chức tốt hạch toán nội bộ trong doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng TSCĐ phải được tính toán từ khi lập kế hoạch sản xuất, sử
dụng vốn đến quá trình tổ chức thực hiện. Trong quá trình sản xuất, việc sử dụng VCĐ
(TSCĐ) luôn luôn gắn với mục đích cụ thể, do đó thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ là
một biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Việc hạch toán kinh tế nội bộ có thể thực hiện từ phân xưởng, tổ, đội sản xuất
được giao một số chỉ tiêu và quyền hạn nhất định trong việc quản lý và sử dụng nhằm
phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của người lao động và quản lý sản
xuất. Các chỉ tiêu giao cho phân xưởng, tổ, đội phải xoay quanh chỉ tiêu chung toàn
doanh nghiệp. Lợi nhuận, hiệu suất sử dụng TSCĐ, VCĐ... phải lựa chọn chỉ tiêu thích
hợp nhất để đạt được mục tiêu: hệ số sử dụng máy, hệ số ca máy, hiệu suất sử dụng
theo thời gian...
3.2.7. Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý VCĐ trong
các doanh nghiệp
Việc quản lý VCĐ (TSCĐ) ở các doanh nghiệp luôn có sự biến đổi không
ngừng theo sự phát triển và thay đổi của nền kinh tế . Các cơ quan Nhà nước quản
lý doanh nghiệp phải luôn theo sát tình hình để nhận biết những thay đổi đó, kịp
thời đưa ra những chính sách mới phù hợp với điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự
phát triển của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
Nhà nước phải có chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị hợp lý. Chính sách
thuế nhập khẩu cần được quan tâm xem xét kỹ lưỡng sao cho mức thuế phù hợp với
mỗi chủng hoại, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do lựa chọn mặt hàng.
Bên cạnh đó Nhà nước phải có chính sách, khuyến khích đầu tư trong nước và nước
ngoài theo hướng tiến bộ khoa học kỹ thuật đi nghiên cứu phân tích giúp các doanh
nghiệp nên đầu tư mua sắm thiết bị nào cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh
doanh của đơn vị mình bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Có như vậy mới nắm bắt được kịp thời những thành
tựu khoa học công nghệ của thế giới ngày một đổi mới và hiện đại.
Đồng thời Nhà nước phải kịp thời đưa ra các chính sách chế độ quản lý
VCĐ, hoàn thiện việc giao vốn, giao quyền cho các doanh nghiệp và đề ra các biện
pháp cụ thể để thực hiện nghiêm chỉnh việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Có
biện pháp thưởng phạt thích đáng và quy chế chặt chẽ trong vấn đề sử dụng TSCĐ
để tránh tình trạng sử dụng vốn và TSCĐ không đúng mục đích, gây thất thoát vốn
và thua lỗ trong sản xuất kinh doanh.
Những đổi mới về chính sách quản lý tài chính doanh nghiệp của Nhà nước
bước đầu tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất trong doanh nghiệp, từng bước
khuyến khích tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp, khai thác triệt để tiềm năng
về cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có phục vụ sản xuất.
Theo chế độ mới về quản lý và sử dụng tài sản quy định thì doanh nghiệp
được phép sử dụng vấn đề phục vụ hiện đại hoá TSCĐ trên cơ sở có nguồn vốn bù
đắp trở lại và doanh nghiệp được phép thay đổi cơ cấu TSCĐ để các nguồn vốn
được sử dụng hoàn toàn sổ khấu hao luỹ kế sản xuất TSCĐ, nâng cao hơn nữa hiệu
quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp mình.
Như vậy, Nhà nước đã tạo điều kiện, tiền đề cho các doanh nghiệp trong việc
quản lý, sử dụng TSCĐ, song để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ đòi hỏi sự nỗ lực
rất lớn trong mỗi doanh nghiệp. Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là
việc làm cần thiết thường xuyên của mỗi doanh nghiệp để có thể đứng vững và phát
triển trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
1. quá trình hình thành và phát triển công ty in Tài Chính
Công ty in Tài Chính là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài Chính. Trụ sở
chính của công ty đóng tại phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy – Hà Nội. Công ty
có một chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước đây công ty in Tài Chính là nhà in Tài Chính được thành lập theo
quyết định số 41 – TC/QĐ/TCCB ngày 5/3/1985 của Bộ Tài Chính, hoàn toàn phụ
thuộc vào Bộ Tài Chính.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế quản lý kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chính sách tài chính, công
tác tài chính được phát triển và mở rộng. Nhu cầu in ấn trong ngành Tài Chính và
toàn xã hội tăng nhanh. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, theo đó nhà in
Tài Chính đã có sự biến đổi nhanh chóng về nhiều mặt.
Với tình hình như vậy, nhà in Tài Chính đã mạnh dạn đề nghị Bộ Tài Chính
cho phép được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đề nghị đó được chấp
thuận nên ngày 17/8/1995 Bộ Tài Chính cấp quyết định thành lập số 925
TC/QĐ/TCCB Nhà in Tài Chính đã chính thức đổi tên thành công ty in Tài Chính.
Giấy đăng ký kinh doanh số 11036 ngày 7/9/1995 do UBKH Hà Nội cấp.
Từ đó cho đến nay công ty in Tài Chính trở thành đơn vị hạch toán độc lập,
chủ động hoàn toàn trong sản xuất kinh doanh. Sản xuất phát triển, kinh doanh có
lãi, phát huy được nguồn vốn, thu hút được lao động, thu nhập của cán bộ công
nhân viên ổn định và có mức thu nhập bình quân cao, thu hút được lao động (hiện
nay toàn công ty có 300 CBCNV, trong đó cán bộ quản lý là 24). Công ty đã đứng
vững và khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Có được như
ngày nay là nhờ sự nỗ lực phấn đấu vươn lên không mệt mỏi của toàn CBCNV
trong công ty.
2. Đặc điểm tổ chức sản xuất, bộ máy quản lý của công ty in Tài Chính
2.1. Sản phẩm và thị trường của công ty :
Công ty sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng, sản xuất mang tính chất đặc trưng.
Sản phẩm chủ yếu là các hoá đơn, chứng từ, ấn chỉ,...Đây là những mặt hàng có ý nghĩa
quốc gia, có những loại hoá đơn, chứng từ có giá trị như tiền nên không thể sản xuất và
tiêu thụ một cách tuỳ tiện, phải có quy định cụ thể về mẫu mã, số lượng, chất lượng của Bộ
Tài Chính. Do đó yêu cầu đặt ra là phải quản lý in ấn, phát hành rất chặt chẽ.
Ngoài ra công ty còn nhận in các loại sách báo, tạp chí,...của các đợn vị bạn hàng
truyền thống ( Tổng Cục Thuế, Cục thuế các tỉnh, Bộ Tài Chính,....). Những năm gần đây
công ty còn nhận được các đơn đặt hàng mới, ổn định: tem thuốc lá, hoá đơn GTGT do
Tổng Cục Thuế phát hành,...
Nhìn chung thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là tương đối ổn định và không
có nhiều biến động.
2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất:
Công ty sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng, sản xuất mang tính chất đặc
trưng. Sản xuất chủ yếu là các hoá đơn, chứng từ, ấn chỉ,...Đây là những mặt hàng
có ý nghĩa quốc gia, có những loại hoá đơn, chứng từ có giá như tiền cho nên không
thể sản xuất và tiêu thụ một cách tuỳ tiện, phải có qui định cụ thể về mẫu mã, số
lượng, chất lượng của Bộ Tài Chính. Do đó yêu cầu đặt ra là phải quản lý in ấn,
phát hành rất chặt chẽ.
Đề sản xuất ra những sản phẩm đó và những mặt hàng in ấn khác hiện nay
công ty sử dụng 2 loại công nghệ in là: in OFFSET và in TYPÔ.
- Công nghệ in OFFSET: dùng để in những sản phẩm có đặc tính phức tạp,
mẫu mã đẹp như các tạp chí, lịch, biểu mẫu kế toán,...Và sản phẩm loại này chiếm
70% - 80% sản lượng in của công ty.
- Công nghệ in TYPÔ: dùng để in những sản phẩm có mầu đơn nhất, sản
phẩm chủ yếu là các ấn chỉ, biên lai, phiếu thu, phiếu chi...và in số nhảy các sản
phẩm in từ công nghệ in OFFSET chuyển sang.
2.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý:
Từ đặc điểm tổ chức sản xuất của mình công ty đã tổ chức bộ máy quản lý
sản xuất kinh doanh cho phù hợp với đặc điểm đó. Công ty tổ chức bộ máy quản lý
theo hình thức tập trung, bộ máy quản lý gọn nhẹ, quản lý theo chế độ một thủ
trưởng. Đứng đầu công ty là giám đốc, người có quyền cao nhất và chịu trách nhiệm
với các cơ quan chức năng, khách hàng và CBCNV trong công ty. Giúp việc cho
giám đốc là một phó giám đốc kinh doanh và một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật.
Bên dưới là một hệ thống các phòng ban, bộ phận chức năng. Bộ máy quản lý sản
xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua sơ đồ 1:
Chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận
Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của
Công ty in tài chính
Giám đốc
Phó giám đốc kỹ
thuật
Phòng kế
hoạch sản
xuất kinh
doanh
Phòn
g
kỹ
thuật
Phòng
tài vụ Phòng
kinh
doan
Phòn
g tổ
chức
Phó giám đốc kinh
doanh
- Giám đốc: là người phụ trách chung và chịu trách nhiệm về tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phó giám đốc kỹ thuật: được uỷ quyền khi giám đốc đi vắng, chỉ đạo phòng
kế hoạch sản xuất vật tư và phòng kỹ thuật.
- Phó giám đốc kinh doanh: là người được giám đốc uỷ quyền khi vắng mặt,
chỉ đạo trực tiếp phòng kinh doanh và phòng tổ chức hành chính.
- Phòng kế hoạch sản xuất vật tư: tham mưu cho giám đốc trong công tác kế
hoạch sản xuất, cung ứng nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
- Phòng kỹ thuật: tham mưu cho giám đốc trong công tác quản lý kỹ thuật,
qui trình công nghệ sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Phòng kế toán tài vụ: tham mưu cho giám đốc và giúp giám đốc quản lý về
các mặt kế toán thống kê tài chính toàn công ty.
- Phòng kinh doanh: làm nhiệm vụ tiếp thị, tiếp nhận các hợp đồng sản xuất,
định các kế hoạch về vốn và tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng tổ chức hành chính: tham mưu cho giám đốc về các mặt công tác tổ
chức cán bộ và nhân sự.
2.4. Tình hình lao động:
Hiện nay toàn công ty có 300 CBCNV trong đó nhân viên quản lý là 24
người. Trong đó trình độ tay nghề công nhân của công ty tưong đối cao, chủ yếu là
thợ bậc 6/7 chiếm 60%, số có trình độ tay nghề thấp, bậc 3/7 chiếm 12%, còn lại là
những nhân viên phục vụ, như: lao công, nhà bếp, bảo vệ,...
Đây là một trong những thuận lợi để công ty tăng cường mua sắm, trang bị
những TSCĐ, máy móc hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh của
công ty.
2.5. Nguồn vốn hình thành TSCĐ của công ty
Biểu 1: Nguồn vốn hình thành TSCĐ của Công ty
Đơn vị tính: 1000 đồng
Vốn chủ sở hữu
Vốn huy
động
Tổng cộng
Vốn ngân sách Vốn tự bổ
sung
Cộng ( Vốn vay)
718.919 2.032.505 2.751.424 53.065.532 55.816.956
4,92% 95,08% 100%
Nguồn vốn hình thành nên TSCĐ của công ty chủ yếu là bằng vốn vay với số
vốn là 53.065.532 nghìn đồng chiếm tới 95,08% tổng số vốn. Còn vốn chủ sở hữu
là 2.751.424 nghìn đồng, chiếm 4,92% tổng số vốn (rất nhỏ) ( xem biểu 1 ). Như
vậy, muốn tiếp tục tăng vốn cố định công ty khó có thể lựa chọn tài trợ bằng con
đường đi vay. Nếu số đi vay quá lớn sẽ làm cho chi phí về lãi vay phải trả trong giá
thành sản phẩm tăng cao.
2.6. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của công ty In tài chính:
Để quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ trong quá trình sản xuất
kinh doanh, công ty đã tiến hành phân cấp quản lý TSCĐ: giao trách nhiệm quản lý
TSCĐ đến từng bộ phận nhằm nâng cao trách nhiệm của người lao động trong việc
bảo quản sử dụng TSCĐ. Đối với mỗi loại máy móc thiết bị đều có sổ sách theo dõi
một cách cụ thể về tình trạng kỹ thuật cũng như tình hình hoạt động của máy móc.
Bên cạnh đó bộ phận kế toán còn theo dõi cả về nguồn hình thành TSCĐ để có biện
pháp trích khấu hao thích hợp và thu hồi vốn nhanh chóng. Để cuối mỗi năm, Công
ty để tiến hành kiểm kê tài sản (thường vào 31/12 hàng năm) số lượng TSCĐ hiện
có, số lượng máy móc tăng thêm và giảm đi đều được phản ánh một cách đầy đủ và
kịp thời trên sổ sách kế toán của Công ty.
Trang bị TSCĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng quyết định đến chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm, khả năng cạnh
tranh...của doanh nghiệp. Nhận thức được vấn đề này trong những năm qua công ty
đã tiến hành đầu tư chiều sâu đổi mới TSCĐ, tiến hành thanh lý các TSCĐ cũ, lạc
hậu, không phù hợp với sản xuất kinh doanh. Đồng thời để tiến hành phân loại đánh
giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty ta phải biết được tình hình biến
động TSCĐ. Muốn biết được tình hình đầu tư đổi mới TSCĐ của công ty ta nghiên
cứu biểu 2 “Tình hình trang bị TSCĐ của công ty in Tài Chính tới năm 2001”
Trong năm 2001 TSCĐ của công ty tăng nhanh, trong khi đó số giảm rất ít (
xem biểu 2 ). Chứng tỏ công ty đã chú trọng đến công tác trang bị thêm TSCĐ để
nâng cao năng lực sản xuất.
Tình hình tăng giảm TSCĐ trong năm 2001 cụ thể như sau:
- Máy móc thiết bị: đầu năm 2001 nguyên giá là 33.111.727.356 đồng
chiếm trong 89,79% tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 là 50.030.976.857
đồng, chiếm 76,06% trong tổng nguyên giá TSCĐ. Như vậy, máy móc thiết bị đã
tăng là 17.670.229.358 đồng và giảm 750.979.857 đồng.
- Phương tiện vận tải: đầu năm 2001 nguyên giá là 210.698.500 đồng,
chiếm 0,57% trong tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 là 597.196.000
đồng, chiếm 0,91% trong tổng nguyên giá TSCĐ. Như vậy số tăng trong năm là
470.976.000 đồng và giảm là 84.478.500 đồng.
- Thiết bị dụng cụ quản lý: đầu năm 2001 nguyên giá là 2.095.703.750
đồng, chiếm 5,68% trong tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 là
2.202.206.343 đồng, chiếm 3,35% trong tổng nguyên giá TSCĐ. Như vậy trong
năm thiết bị dụng cụ quản lý tăng là 115.241.938 đồng, số giảm là 8.739.345 đồng.
Công ty tiến hành thanh lý một số thiết bị dụng cụ quản lý đã cũ.
- Nhà cửa, vật kiến trúc: đầu năm 2001 nguyên giá là 1.459.916.711 đồng,
chiếm 3,96% trong tổng nguyên giá TSCĐ, đến cuối năm 2001 nguyên giá là
12.949.096.711 đồng, chiếm 19,69% tổng nguyên giá TSCĐ với số tăng là
11.489.180.000 đồng.
Có thể nói rằng việc tăng giảm TSCĐ của công ty trong năm 2001 là tương
đối hợp lý. Máy móc thiết bị tăng là chủ yếu, đây là biểu hiện tốt có lợi cho công tác
sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy có sự tăng, giảm, biến động, nhưng nhìn
chung thì kết cấu TSCĐ của công ty như vậy là hợp lý. Công ty đã chú trọng đến
đầu tư đổi mới TSCĐ, nâng cao năng lực sản xuất, đáp ứng được yêu cầu sản xuất
kinh doanh từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh đứng vững trên thị trường.
Phân tích cơ cấu TSCĐ và sự biến động của TSCĐ suy cho cùng mới chỉ nói
đến mặt lượng của TSCĐ. Trên thực tế TSCĐ cũ hay mới có ảnh hưởng rất lớn đến
sản xuất.Vì vậy vấn đề đặt ra là ta phải tiếp tục nghiên cứu tình trạng kỹ thuật
TSCĐ của công ty.
2.7. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ ở công ty in tài chính năm 2001:
Việc tính khấu hao đúng đắn làm cho việc xác định giá thành chính xác, hợp
lý góp phần thúc đẩy thu hồi vốn và bảo toàn VCĐ, mở rộng tái đầu tư, tái sản xuất.
Nó cũng thúc đẩy chế độ hạch toán của các doanh nghiệp nói chung và ở Công ty
nói riêng được tiến hành thông suốt theo quyết định số 1062 - TC/QĐ/CSTC ngày
14 - 11 - 1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về chế độ quản lý sử dụng và tính khấu
hao TSCĐ.
TSCĐ của Công ty được tiến hành trích khấu hao theo phương pháp đường
thẳng. Mức trích khấu hao trung bình hàng năm của TSCĐ tính bằng cách lấy
nguyên giá chia cho thời gian sử dụng của TSCĐ tính theo năm. Sau đó trích khấu
hao theo tháng bằng số khấu hao trích hàng năm chia cho 12 tháng.
Việc phân bổ khấu hao của Công ty dựa trên việc xác định các đối tượng sử
dụng một cách cụ thể như TSCĐ dùng cho các hoạt động. Điều đó cho thấy tính
đúng đắn của việc phân bổ khấu hao cũng như xác định chính xác hơn giá thành
toàn bộ sản phẩm hàng hoá.
Trước đây, TSCĐ của Công ty được đầu tư mua sắm từ nguồn vốn vay,
nguồn vốn Ngân sách cấp và nguồn vốn tự có. Số khấu hao của TSCĐ hình thành từ
nguồn vốn Ngân sách cấp và nguồn vốn tự có được sử dụng để tái đầu tư mua sắm
TSCĐ, số khấu hao trích của TSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay dùng để trả nợ
vay.
Để thấy rõ tình trạng kỹ thuật của TSCĐ mới hay cũ ta thường sử dụng chỉ
tiêu hệ số hao mòn TSCĐ. Chỉ tiêu này có thể tính riêng cho từng loại TSCĐ cũgn
có thể tính chung cho toàn bộ TSCĐ. Nó được xác định bằng cách so sánh số tiền
khấu hao đã trích với nguyên gía TSCĐ ở thời điểm đánh giá.
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Số tiền khấu hao luỹ kế đã trích
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ được trình bày ở biểu 3 “Tình trạng kỹ thuật
của TSCĐ ở công ty in Tài Chính tới năm 2001”.
Hệ số hao mòn TSCĐ năm 2001 là 0,46 tăng so với năm 2000 là 0,003, điều
này cho thấy trong năm công ty có quan tâm tới đổi mới TSCĐ.
Hệ số hao mòn TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh năm 2000 là 0,458; năm
2001 là 0,461. Trong đó:
- Máy móc thiết bị hệ số hao mòn đầu năm 2001 là 0,4647, cuối năm 2001
là 0,538 .
- Phương tiện vận tải đầu năm 2001 hệ số hao mòn là 0,947; cuối năm 2001
là 0,2848. Tuy đã được trang bị thêm nhưng TSCĐ thuộc loại này cũng đã đủ đến
cuối năm 2001 khấu hao hết so với nguyên giá.
- Thiết bị dụng cụ quản lý đầu năm 2001 hệ số hao mòn là 0,4618; cuối năm
2001 là 0,7533 tình trạng kỹ thuật của TSCĐ giảm nguyên nhân là do công ty thanh
lý một số TSCĐ thuộc loại này và tiếp tục khai thác khả năng hoạt động của chúng
nhằm mục đích phục vụ sản xuát kinh doanh. Tài sản thuộc loại này đã khấu hao
hết.
- Nhà cửa, vật kiến trúc: hệ số hao mòn đầu năm là 0,235; cuối năm là
0,1196. Tuy nhiên TSCĐ loại này mới khấu hao nên mức trích khấu hao còn thấp,
TSCĐ phúc lợi công cộng nằm trong nhà cửa vật kiến trúc lại không trích khấu hao
nên hạn chế khả năng thu hồi vốn cố định và đổi mới TSCĐ của công ty.
-Trong năm công ty đã huy động hết TSCĐ vào sản xuất kinh doanh, không
có TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý và TSCĐ chưa cần dùng, tránh được hiện
tượng ứ đọng vốn làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Nhìn chung TSCĐ của công ty còn tương đổi mới, chỉ có phương tiện vận tải là
khấu hao gần hết công ty phải nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư đổi mới TSCĐ
loại này.
Sau khi xem xét, đánh giá và phân tích cơ cấu TSCĐ, sự biến động của
TSCĐ và tình trạng kỹ thuật của TSCĐ. Những đánh giá có trở nên thực tế, chính
xác, khi ta xem xét sự tác động của TSCĐ tới kết quả sản xuất - kinh doanh của
công ty.
3. thực trạng sử dụng vcđ của công ty in tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, tự sắp xếp tổ chức sử dụng vốn đáp ứng cho yêu cầu hoạt
động của mình. Để đảm bảo sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thì doanh nghiệp phải
tìm mọi biện pháp để sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và VCĐ nói
riêng, đạt hiểu quả tối đa.
Đối với công ty, để khắc phục và vượt qua những khó khăn hiện nay Công ty
đã lập kế hoạch trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh lâu dài về nâng cao
hiệu quả sử dụng VCĐ, trong đó có những biện pháp chủ yếu sau:
3.1. Thực hiện công tác phân công, phân nhiệm trong quản lý và sử
dụng TSCĐ.
Trong việc quản lý sử dụng TSCĐ các biện pháp phân công, phân nhiệm một
cách cụ thể cho từng khâu, từng bộ phận có tác dụng nâng cao ý thức trách nhiệm
của bộ phận đó đối với TSCĐ được giao. Để quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu
quả TSCĐ của Công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh, ban lãnh đạo Công ty
đã quy định trách nhiệm quản lý TSCĐ cho từng phòng ban, tổ đội, phân xưởng sản
xuất. Cụ thể là:
Đối với máy móc thiết bị sản xuất, công ty bàn giao cho phân xưởng sản
xuất, bộ phận cơ khí và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó. Các bộ phận này theo đặc
điểm của từng loại máy móc thiết bị phải tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
theo đúng quy trình công nghệ và tuân thủ đúng yếu tố kỹ thuật của máy móc thiết
bị. Ví dụ như đối với máy in , máy nào còn mới thì có thể sử dụng hết công suất
thiết kế của máy, nhưng khi đã khấu hao qua 50% thì không được cho máy chạy hết
công suất thiết kế mà chỉ có thể cho máy chạy theo khả năng có thể đảm bảo sản
xuất ra những sản phẩm tốt mà không ảnh hưởng đến chất lượng của máy.
Đối với thiết bị dụng cụ quản lý, Công ty giao trực tiếp cho các phòng ban
quản lý và sử dụng. Các phòng ban có trách nhiệm lên kế hoạch cụ thể để quản lý
và sử dụng đúng mục đích, tránh sử dụng lãng phí dẫn đến hư hỏng dụng cụ quản
lý, lên kế hoạch sửa chữa và bảo dưỡng thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị dụng cụ quản lý.
Đối với phương tiện vận tải, Công ty giao trực tiếp cho lái xe quản lý sử
dụng và tự chịu trách nhiệm về phương tiện đã được giao. Định kỳ, hoặc thường
xuyên hoạt động an toàn của xe để có thể phục vụ được yêu cầu sản xuất kinh
doanh của Công ty.
Đối với nhà cửa vật kiến trúc đã giao cho các bộ phận có trách nhiệm quản lý
và sử dụng. Tuy nhiên, TSCĐ loại này của Công ty đã được sử dụng quá lâu nên đã
cũ và lạc hậu, do đó mà sửa chữa nhỏ hiệu quả chưa cao. Trong những năm tới cần
phải cải tạo và nâng cấp nhà xưởng đạt hiệu quả sử dụng cao hơn.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của tập thể cũng như cá nhân trong quá
trình quản lý và sử dụng TSCĐ, công ty cũng đã áp dụng chế độ thưởng, phạt một
cách thích hợp, bộ phận nào làm tốt công tác quản lý TSCĐ được khen thưởng kịp
thời và ngược lại, nếu không làm tốt công tác quản lý TSCĐ, gây hỏng hóc mất mát
tài sản sẽ bị xử lý nghiêm khắc.
Nhờ việc phân công, phân nhiệm và quản lý khá chặt chẽ, Công ty đã hạn chế
được những hư hỏng của TSCĐ và hầu như không có việc mất mát các bộ phận máy
móc, đồng thời nắm được hiện trạng TSCĐ để có những biện pháp tác động kịp thời
như sửa chữa, bảo dưỡng hay thanh lý để đầu tư mới.
3.2. Thực hiện công tác sửa chữa TSCĐ, thường xuyên bảo dưỡng, nâng
cấp máy móc thiết bị chuyên dùng.
Trong điều kiện hiện nay, để duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của máy
móc thiết bị đảm bảo cho sản xuất được liên tục để góp phần cung ứng đủ sản phẩm
cho khách hàng cả về mặt số lượng và chất lượng thì việc sửa chữa thường xuyên
máy móc thiết bị là điều không thể thiếu nhằm kéo dài tuổi thọ của máy nâng cao
hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Thực hiện tốt công tác bảo dưỡng, nâng cấp TSCĐ, lập kế hoạch sửa chữa
định kỳ TSCĐ trên cơ sở tôn trọng các quy phạm kỹ thuật của chúng là biện pháp
tích cực và chủ động nhất để TSCĐ hoạt động một cách liên tục theo đúng kế hoạch
sản xuất.
Nhận thức được điều đó trong năm qua Công ty đã tổ chức tốt công tác sửa
chữa bảo dưỡng TSCĐ. Trong Công ty đã có một cơ khí chuyên phục vụ sửa chữa,
có trách nhiệm hoàn thành kế hoạch bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ Công ty giao, đầu
tư chiều sâu lao động cho máy móc. Các phòng ban, phân xưởng, cơ sở sản xuất
luôn có trách nhiệm theo dõi tình hình hoạt động của máy móc thiết bị để kịp thời
đưa máy móc vào sửa chữa, tránh tình trạng máy móc hư hỏng quá nặng mới đem đi
sửa vừa làm tăng chi phí vừa làm gián đoạn sản xuất. Cộng với việc sửa chữa bảo
dưỡng, xưởng cũng tiến hành nâng cấp thay thế một số bộ phận của máy móc thiết
bị đã cũ nhằm tăng năng lực sản xuất của chúng.
Công tác sửa chữa, bảo dưỡng của Công ty được tiến hành trên cơ sở nắm
được đặc tính kỹ thuật của từng loại TSCĐ, tiến hành bảo dưỡng duy tu đối với
từng TSCĐ theo định kỳ (định kỳ chạy bao nhiêu giờ sẽ được bảo dưỡng).
Do thực hiện công tác sửa chữa TSCĐ một cách kịp thời, năng lực sản xuất
của máy móc thiết bị của Công ty được khôi phục và nâng cao, đảm bảo cho quá
trình sản xuất được tiến hành liên tục, hạn chế tới mức thấp nhất việc ngừng sản
xuất do hỏng hóc máy móc thiết bị, đảm bảo chất lượng sản xuất, hạn chế tình trạng
xuống cấp hoặc không thể sử dụng được do hư hỏng trước thời hạn quy định.
3.3. Phát huy tối đa công suất TSCĐ bằng biện pháp khoán trong quản lý
sản xuất.
Để phát huy hết công suất TSCĐ trong sản xuất kinh doanh và để gắn liền lợi
ích trách nhiệm của người lao động với tư liệu sản xuất do mình quản lý và sử dụng,
Công ty đã áp dụng hình thức khoán trong lĩnh vực sản xuất. Các công nhân trong
Công ty được giao quyền sử dụng máy móc thiết bị được giao trách nhiệm bảo
dưỡng TSCĐ để đáp ứng được tính liên tục của quá trình sản xuất. Với hình thức
khoán lương theo sản phẩm, muốn có thu nhập cao thì người công nhân phải sản
xuất được nhiều sản phẩm có chất lượng cao. Để đạt được điều đó thì đòi hỏi người
công nhân phải không ngừng nâng cao năng suất lao động và phải tận dụng tối đa
công suất mà máy móc thiết bị có thể đạt được. Mặt khác để tránh tình trạng máy
móc hỏng hóc làm gián đoạn quá trình sản xuất, giảm khối lượng sản phẩm thì
người công nhân phải nâng cao tay nghề, trình độ sử dụng máy và phải luôn có ý
thức trách nhiệm bảo quản máy móc thiết bị. Chính vì vậy mà công tác khoán sản
phẩm trong năm qua đã có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất và nâng
cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty.
Bên cạnh đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty luôn tìm tòi ra
những biện pháp để đảm bảo hợp lý đầu vào và đầu ra của sản xuất như thực hiện
công tác quảng cáo, Marketing để thu hút khách hàng, tăng chất lượng sản phẩm,
tích cực tìm bạn hàng để thực hiện những hợp đồng mới ... góp phần làm quá trình
sản xuất được thông suốt, đảm bảo việc làm cho người lao động. Do đó mà người
công nhân yên tâm lao động sản xuất, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề và
làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn. Hiện nay Công ty đã bố trí sản xuất 3
ca/ngày khi cần thiết để đảm bảo tận dụng công suất máy móc thiết bị, nhờ vậy mà
TSCĐ đang dùng trong sản xuất của Công ty được khai thác triệt để làm năng lực
sản xuất của Công ty không ngừng tăng lên. Kết quả đó được phản ánh ngay trong
tổng thu nhập của Công ty năm 2001 là 5.302.205 nghìn đồng tăng 84,39% so với
năm 2000, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Đây là một cố
gắng lớn thể hiện sự nỗ lực phấn đấu của toàn Công ty trong thời gian qua.
Tuy nhiên, trong công tác khoán sản phẩm, công ty cũng cần chú ý tới việc
đề ra định mức chi phí một cách cụ thể, phải gắn việc tận dụng công suất máy móc
thiết bị với đặc điểm kỹ thuật của chính máy móc đó, đảm bảo chất lượng và số
lượng sản phẩm sản xuất ra nhưng cũng phải đảm bảo chất lượng máy móc thiết bị
về lâu dài.
3.4. Tăng mức trích khấu hao để đẩy nhanh tốc độ thu hồi vốn và chống
hao mòn vô hình.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như ngày nay thì tăng tỷ lệ
trích khấu hao TSCĐ là một cách thức để tiếp cận với những tiến bộ công nghệ. Mà
một trong những điều kiện để đầu tư vào máy móc hiện đại là vốn và có vốn một
cách nhanh chóng để theo kịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Để đạt được
điều đó thì không còn cách nào khác là phải đẩy nhanh mức trích khấu hao vì một
trong những nguồn vốn để đầu tư vào TSCĐ là quỹ khấu hao. Tăng khấu hao là một
biện pháp bảo vệ tài sản, tài sản đã trích khấu hao gần hết nhưng tuổi thọ vẫn còn
cao nên vẫn đảm bảo khả năng hoạt động.
Xuất phát từ nhận thức trên, từ năm 1996 tới nay, Công ty In tài chính đã thực hiện
khấu hao nhanh TSCĐ nhằm bảo toàn vốn và tránh hao mòn vô hình. Cụ thể là đối
với những máy móc thiết bị có mức độ hao mòn, đặc biệt là hao mòn vô hình nhanh
như các loại máy vi tính và hầu hết các máy móc thiết bị công tác, Công ty đều áp
dụng thời hạn khấu hao tối thiểu trong khung thời gian sử dụng các loại TSCĐ theo
quy định của Bộ Tài chính hoặc áp dụng mức thời gian sử dụng thấp hơn khung quy
định để đảm bảo yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật. Còn các TSCĐ hao mòn chậm, ít
phải đổi mới như nhà cửa vật kiến trúc Công ty cũng đều khấu hao trước thời hạn
tối đa. Đây là việc làm đúng đắn, hợp lý có tác dụng tốt cho việc thu hồi VCĐ của
Công ty. Tuy thực hiện khấu hao nhanh nhưng Công ty vẫn đủ bù đắp chi phí, đảm
bảo mức độ hợp lý của giá thành, không ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm
4. kết quả sản xuất kinh doanh ở công ty in Tài Chính trong những năm gần
đây.
4.1. Những thuận lợi và khó khăn của công ty in Tài Chính trong hoạt động
sản xuất kinh doanh một số năm gần đây
4.1.1. Thuận lợi
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là ổn định dựa trên cơ sở các đơn
đặt hàng như: hoá đơn, biên lai, sách báo, tạp chí,...của các đơn vị, bạn hàng truyền
thống (cục thuế các tỉnh, Bộ Tài Chính,...) Ngoài ra công ty còn nhận được các đơn
đặt hàng mới, ổn định như: tem thuốc lá, hoá đơn GTGT do tổng cục thuế phát
hành,...
Máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh được trang bị thêm. Cụ
thể là: năm 2001 công ty đã đầu tư mua sắm và lắp đặt mới một máy in OFFSET 4
mầu Heidelberg trị giá 10.432.013.196 đồng, một máy in OFFSET 1 mầu
Heidelberg trị giá 3.114.850.704 đồng và một máy in Komori excel – L32 trị giá
3.133.880.764 đồng để đưa vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra công ty còn xây dựng mới một nhà kho khung thép mới trị giá gần
300 triệu đồng và mua mơí một nhà xưởng ở chi nhánh trị giá hơn 11 tỷ đồng.
Giá cả nguyên vật liệu chủ yếu là giấy, kẽm , mực in...nhìn chung là ổn định.
Công ty đã ứng dụng tin học vào quản lý, hạch toán kế toán, xác định kết quả
kinh doanh, quản lý sản xuất, quản lý vật tư, quản lý nhân sự...đảm bảo nhanh,
chính xác, hiệu quả.
4.1.2. Khó khăn
Tuy một số năm qua có đầu tư về TSCĐ, TSCĐ tăng nhanh nhưng vẫn còn
nhiều TSCĐ ở công ty đã cũ, năng lực sản xuất thấp cần được thay thế, đổi mới
ngay để đáp ứng yêu cầu sản xuât kinh doanh. Khó khăn này cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến quá trình sử dụng vốn cố định của công ty.
Từ những khó khăn và thuận lợi trên công ty in Tài Chính cần phải phát huy,
khai thác tận dụng tối đa các lợi thế sẵn có đồng thời tìm các biện pháp hạn chế,
khắc phục những khó khăn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh bảo toàn được vốn cố
định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
4.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty in Tài Chính trong những
năm gần đây
Trong những năm gần đây, với những thuận lợi và khó khăn công ty đã có
nhiều cố gắng trong sản xuất kinh doanh, chú trọng đổi mới máy móc thiết bị sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng cao đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng nhờ đó công ty luôn đạt được những kết quả đáng
khích lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty được trình bày ở biểu 4: "Tình
hình chủ yếu về sản xuất kinh doanh của công ty in tài chính qua các năm 1997 -
2001".
Tổng doanh thu của công ty có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Để đạt
được điều này là do có sự phấn đấu không mệt mỏi của toàn bộ CBCNV toàn công
ty ( xem biểu 4 ). Trong đó có sự đầu tư đúng đắn TSCĐ hiện đại một cách kịp thời
vào trong quá trình sản xuất - kinh doanh cuả công ty, tích cực tìm kiếm được nhiều
thị trường mới, đẩy mạnh sản xuất, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị.
Điều này đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và đáp
ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng.
Điều này được thể hiện qua các số liệu cụ thể sau:
-Tổng doanh thu năm 1998 tăng lên so với năm 1997 là 3.864.587 nghìn
đồng, với số tương đối là 15,28%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1998 tăng lên so với năm
1997 là 3.909.812 nghìn đồng, với số tương đối là 15,62%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 1998 giảm so với năm 1997 là 45.225
nghìn đồng, với số tương đối là 18,31%.
-Tổng doanh thu năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là 7.535.163 nghìn
đồng, với số tương đối là 29,80%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1999 tăng lên so với năm
1998 là 7.453.963 nghìn đồng, với số tương đối là 29,77%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là 81.200
nghìn đồng, với số tương đối là 32,87%.
-Tổng doanh thu năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là 25.890.425 nghìn
đồng, với số tương đối là 78,89%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2000 tăng lên so với năm
1999 là 24.037.795 nghìn đồng, với số tương đối là 73,98%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là
1.852.630 nghìn đồng, với số tương đối là 564,48%.
-Tổng doanh thu năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 26.550.449 nghìn
đồng, với số tương đối là 45,22%. Trong đó:
+ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng lên so với năm
2000 là 18.325.626 nghìn đồng, với số tương đối là 32,42%.
+ Doanh thu hoạt động khác năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là
8.224.823 nghìn đồng, với số tương đối là 377,14%.
Tuy vậy để đánh giá và xem xét một cách toàn diện về tình hình sản xuất -
kinh doanh của công ty, không chỉ dựa vào tốc độ tăng trưởng của doanh thu mà ta
còn phải xem xét, đánh giá các chỉ tiêu quan trọng khác như: tốc độ tăng trưởng của
lợi nhuận, giá thành toàn bộ, vốn kinh doanh bình quân,...
Tổng lợi nhận của công ty có tốc độ tăng trưởng cũng tương đối cao đặc biệt
là 3 năm trở lại đây ( xem biểu 4 ). Tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận, tốc độ tăng
trưởng của doanh thu và tốc độ tăng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính.pdf