Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái: Báo cáo tốt nghiệp
"Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của
Ngân hàng NNo & PTNT nhằm đầu tư phát triển
nông nghiệp nông thôn Yên Bái"
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN
I.1- Lý luận chung về đầu tư.
I.1.1- Khái niệm đầu tư: .................................................................................. 6
I.1.2- Phân loại hoạt động đầu tư theo bản chất: .............................................. 7
I.1.3- Đặc điểm đầu tư phát triển: .................................................................... 8
I.1.4- Vai trò của đầu tư phát triển:.................................................................. 8
I.2 - Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn. ................................................... 9
I.2.1- Khái niệm nông nghiệp, nông thôn......................................................... 9
I.2.2- Những đặc trưng cơ bản của nông nghiệp,...
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1067 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
"Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của
Ngân hàng NNo & PTNT nhằm đầu tư phát triển
nông nghiệp nông thôn Yên Bái"
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN
I.1- Lý luận chung về đầu tư.
I.1.1- Khái niệm đầu tư: .................................................................................. 6
I.1.2- Phân loại hoạt động đầu tư theo bản chất: .............................................. 7
I.1.3- Đặc điểm đầu tư phát triển: .................................................................... 8
I.1.4- Vai trò của đầu tư phát triển:.................................................................. 8
I.2 - Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn. ................................................... 9
I.2.1- Khái niệm nông nghiệp, nông thôn......................................................... 9
I.2.2- Những đặc trưng cơ bản của nông nghiệp, nông thôn. .......................... 10
I.2.3- Vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế quốc dân: ............... 11
I.2.4- Những nhân tố tác động đến sự phát triển nông nghiệp, nông
thôn: ................................................................................................. 13
I.2.5- Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và các
nguồn vốn đầu tư. ............................................................................. 14
I.2.5.1 - Đặc điểm riêng biệt của nông nghiệp, nông thôn nước ta: ................ 14
I.2.5.2- Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ..................... 15
I.2.5.3- Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn: ........................................................................................... 16
I.3- Hoạt động huy động và cho vay tín dụng tại ngân hàng thương mại ............ 18
I.3.1- Một số vấn đề cơ bản về NHTM .......................................................... 18
I.3.1.1- Khái niệm ngân hàng thương mại.................................................. 18
I.3.1.2- Đặc trưng kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM). .............. 18
I.3.1.3- Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh
tế. ............................................................................................... 19
I.3.1.4- Những đặc điểm riêng biệt của NH NNo&PTNT Việt Nam. ............. 20
I.3.2- Huy động vốn tại NHTM. .................................................................... 21
I.3.2.1- Khái niệm huy động vốn: .............................................................. 21
I.3.2.2- các loại hình huy động vốn: .......................................................... 21
I.3.2.4- Các nhân tố phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn tại
NH. ............................................................................................ 22
I.3.2.5- Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn. ..................... 23
I.3.3- Hoạt động cho vay tín dụng tại NH nhằm đầu tư phát triển
nông nghiệp nông thôn ..................................................................... 23
I.3.3.1- Khái niệm cho vay tín dụng: ......................................................... 23
I.3.3.2- Các hình thức cho vay và các phương thức cho vay ...................... 24
I.3.4- Vai trò của cho vay tín dụng NH nhằm đầu tư phát triển nông
nghiệp nông thôn .............................................................................. 26
I.3.5 - Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm cho vay tín dụng của các
nước cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn........................... 30
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY TÍN DỤNG
TẠI NHNNO&PTNT NHẰM ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN YÊN BÁI ................................... 32
II.1- Khái quát tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Yên Bái. ......... 32
II.1.1- Đặc điểm tự nhiên - xã hội tỉnh Yên Bái. ........................................... 32
II.1.1.1- Khái quát về vị trí địa lý và nguồn tài nguyên của tỉnh: ................... 32
II.1.1.2- Khái quát tình hình phát triển kinh tế tỉnh Yên Bái. ..................... 33
II.1.1.3- Những thuận lợi, khó khăn đối với phát triển kinh tế xã hội
tỉnh Yên Bái. .............................................................................. 35
II.1.3- Tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Yên Bái: ................. 36
II.1.3.1- Những nét đặc trưng cơ bản của nông nghiệp, nông thôn
Yên Bái. ..................................................................................... 36
II.1.3.2- Tình hình phát triển NN-NT tỉnh Yên Bái giai doạn trước
năm 1995. .................................................................................. 36
II.1.3.3- Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển NN_NT Yên
Bái ............................................................................................. 37
II.2- Tổng quan về Ngân hàng NNO&PTNT Yên Bái. ....................................... 38
II.2.1- Mô hình tổ chức của NH NNO&PTNT Tỉnh Yên Bái. ....................... 39
II.2.2- Thực trạng hoạt động huy động và cho vay tín dụng của NHNo
Yên Bái đối với quá trình đầu tư phát triển nông nghiệp, nông
thôn. ................................................................................................. 40
II.2.2.1 - Hoạt động huy động nguồn vốn: ................................................. 40
II.2.2.2 - Công tác cho vay tíndụng: ......................................................... 45
II.2.2.3 -Đánh giá chất lượng cho vay tín dụng. ......................................... 51
II.2.2.4- Một số ví dụ minh hoạ công tác đầu tư vốn.................................. 52
II.2.3- Đánh giá kết quả hoạt động huy động và cho vay tín dụng ngân
hàng đối với quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh
Yên Bái. ........................................................................................... 60
II.2.3.1 - Những thành tựu đạt được: ........................................................ 60
II.2.3.2 - Những hạn chế trong hoạt động huy động và cho vay tín
dụng của NHNo Yên Bái. .......................................................... 67
II.2.3.3 - Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động huy
động và cho vay tín dụng ngân hàng. .......................................... 69
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG NHẰM ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN TỈNH YÊN BÁI ..................................... 71
III.1- Phương hướng mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Yên
Bái. ......................................................................................................... 71
III.1.1 - Định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Yên
Bái.................................................................................................... 71
III.1.2 - Phương hướng và mục tiêu phát triển ngành nông, lâm, ngư
nghiệp tỉnh yên bái . ......................................................................... 72
III.1.2.1- Mục tiêu phát triển ngành nông nghiệp. ...................................... 72
III.1.2.2 - Dự báo nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh
Yên Bái đến năm 2010. .............................................................. 76
III.2 - Giải pháp huy động và cho vay tín dụng ngân hàng nhằm đầu tư
phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Yên Bái.. .................................... 78
III.2.1 - Các giải pháp huy động nguồn vốn. .................................................. 78
III.2.1.1 - Huy động nguồn vốn tại tỉnh Yên Bái:. ..................................... 78
III.2.1.2 - Huy động nguồn vốn bên ngoài tỉnh Yên Bái. .......................... 82
III.2.2 - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tín dụng tại
NHNNO tỉnh Yên Bái. ..................................................................... 83
III.3 - Một số kiến nghị ...................................................................................... 89
III.3.1 - Kiến nghị với nhà nước. ................................................................... 89
III.3.2 - Một số kiến nghị với tỉnh. ................................................................. 93
III.3.3 - Một số kiến nghị với Ngân hàng nhà nước........................................ 95
III.3.4 - Một số kiến nghị với NHNo Việt nam. ............................................. 96
KẾT LUẬN..... ..................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 98
MỞ ĐẦU
Sau hơn 15 năm đổi mới, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
thể hiện tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng lên , còn tỷ trọng ngành nông nghiệp
giảm xuống, nhưng về cơ bản chúng ta vẫn là một nước nghèo và lạc hậu, với đa số
dân cư sống tại khu vực nông thôn, thu nhập chủ yếu từ hoạt động sản xuất nông
nghiệp hoặc liên quan đến sản xuất nông nghiệp.
Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách ưu tiên cho phát triển nông
nghiệp, thông qua các nghị quyết của các kỳ họp Quốc hội, các chính sách nông
nghiệp... Đặc biệt là các chính sách cho phát triển nông nghiệp miền núi.
Yên Bái là một tỉnh miền núi còn nghèo, người dân thuần nông chiếm dân số
phần lớn, kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, đời sống đại bộ phận người dân
còn thu nhập thấp.
Nền nông nghiệp Yên Bái còn đang trong tình trạng kém phát triển, do chưa
đủ vốn cung ứng phục vụ cho nhu cầu sản xuất, từ khâu nuôi, trồng và đặc biệt là
công nghệ sau thu hoạch.
Ngân hàng NNo&PTNT Yên Bái đang là một trong những NH thực hiện tốt
chức năng rót vốn vào nông nghiệp nông thôn, thực hiện mục tiêu huy đông vốn
nhàn rỗi để cho vay, bổ sung vào phần vốn thiếu hụt đáp ứng ngay nhu cầu thiếu
vốn của bà con nông dân, đảm bảo điều kiện kinh doanh thuận lợi.
Trong quá trình thực tập tại NHNNo & PTNT Yên Bái em đã quyết định
chọn đề tài :
"Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của Ngân hàng NNo &
PTNT nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái"
Phương pháp luận:
Kết hợp tính toán lô gíc cũng như các con số thể hiện nội dung từng phần,
làm nổi bật nội dung của bài viết .
Nội dung của luận văn gồm có:
Chương I:
Lý luận đầu tư và vai trò của hoạt động ngân hàng trong phát
triển nông nghiệp nông thôn.
Chương II:
Thực trạng huy động và cho vay tín dụng tại ngân hàng
NNo&PTNT nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên
Bái.
Chương III:
Giải pháp huy động và cho vay tíndụng ngân hàng nhằm dầu tư
phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
I.1-LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ.
I.1.1-Khái niệm đầu tư:
Đầu tư theo nghĩa rộng nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đâù tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để dạt được các kết quả đó. Nguồn
lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó là tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn), tài sản vật
chất( nhà máy, đường xá….), tài sản trí tuệ( trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa
học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn
trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đạt được trên đây, những kết quả là các tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ, và nguồn nhân lực tăng lên có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi,
không chỉ đối đối với người bỏ vốn mà đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này
không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội, những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài
sản trí tuệ, hoặc duy trì hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có
thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay phạm trù đầu tư phát triển.
Định nghĩa về đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các
nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng,
sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ,
bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,thực hiện chi phí thường xuyên, gắn liền với sự
hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang
tồn tại và tạo tiềm lực cho mỗi nền kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm và nâng
cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
I.1.2 Phân loại hoạt động đầu tư theo bản chất:
*> Đầu tư tài chính : ( đầu tư tài sản tài chính ) là loại đầu tư trong đó người
đầu tư có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất
định trước( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính
không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế ( nếu không xét đến quan hệ taì chính trong
lĩnh vực này) mà chỉ làm gia tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân
đầu tư ( đánh bạc nhằm mục đính thu lời cũng là một loại hình đầu tư tài chính
nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu
giải trí của người đến chơi nhằm thu lợi nhuận về cho công ty thì đây lại là đầu tư
phát triển.
*>Đầu tư thương mại: là loại đàu tư trong đó người có tiền bỏ tiền bỏ tiền ra
để mua hàng hoá và sau đó bán hàng với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch
giá khi mua và giá khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế( nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của
người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữa hàng hoá
giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên,
đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông cuả cải vật chất do đầu
tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng tích lũ vốn cho sản xuất
kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.( chúng ta lưu ý đầu
cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp
luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn
cho công việc quản lý lưu thông hàng hóa, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng
chi cho tiêu dùng).
*> Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc
làm, năng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra
để xây dựng sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp
đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực tại
các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.Loại đầu tư này
gọi chung là đầu tư phát triển.
I.1.3- Đặc điểm đầu tư phát triển:
Hoạt động đầu tư phát triển có những có các đặc điểm khác biệt với các loại
đầu tư khác thể hiện là:
_ Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
_ Thời gian để tiến hành công cuộc đầu tư cho đến khi cá thành quả của nó phát
huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng voí nhiều biến động xảy ra.
_ Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn bỏ ra, đối voí cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó
không tránh khỏi sự tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn
định về tự nhiên, xã hội, chính trị….
_ Các thành quả của đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm. Điều
này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển .
_ Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở
ngay nơi mà nó tạo dựng lên. Tạo điều kiện cho lao động địa phương có công ăn
việc làm tăng thu nhập.
I.1.4- Vai trò của đầu tư phát triển:
Lý thuyết của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết của nền kinh tế
thị trường, đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là
chìa khoá của sự tăng trưởng. Nó thể hiện ở những mặt sau:
Trên giác độ nền kinh tế:
- Đầu tư vừa có tác động tổng cung và vừa có tác động tổng cầu, đầu tư là yếu tố
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu nền kinh tế.Đối với tổng cầu tác động của đầu tư
là ngắn hạn khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tác động tăng lên của đầu tư làm
cho tổng cầu tăng lên. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng các năng lực mới
đi vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên.
- Đầu tư có tác động hai mặt đến là sự ổn định kinh tế: sự tác động không đồng
thời về mặt thời gian của tổng cung và tổng cầù, làm cho mỗi sự thay đổi của đầu
tư, dù tăng hay giảm cung một lúc là yếu tố duy trì sự ổn định và cũng là yếu tố phá
vỡ sự ổn định nền kinh tế của một quốc gia.Chẳng hạn khi đầu tư tăng lên làm cho
cầu tăng lên, khi cung chưa kip tăng thì giá cả tăng lên dẫn đến tình trạng lạm phát.
Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp
khó khăn... Mặt khác tăng đầu tư, làm cho cầu các yếu tố liên quan tăng lên, sản
xuất làm cho các ngành khác phát triển,thu hút thêm lao động làm cho đời sống của
người lao động được nâng lên. Còn khi giảm đầu tư thì tác động ngược lại với hai
chiều hướng trên.
Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu
của các nhà kinh tế thế giới cho thấy rằng,muốn giữ được tốc độ tăng trưởng trung
bình thì tỷ lệ đầu tư đạt từ 15%-25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của
mỗi nước.
ICOR = Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP.
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư/ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
- Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Con đường tất yếu có thể tăng
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế thỉ đầu tư vào ngành công nghiệp và ngành dịch
vụ, nhưng đó là với các nước phát triển còn những nước đang phát triển thì phải
đầu tư ngay vào ngành mình đang có lợi thế so sánh, đó chính là ngành nông nghiệp
trên cơ sở phát triển ngành nô ng nghiệp làm “đòn bẩy” cho ngành công nghiệp và
dịch vụ cùng phát triển.
Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối đang tồn tại về
phát triển giữa các vùng các lãnh thổ, đưa các vùng kém thoát khỏi tình trạng đói
nghèo, phát huy tôí đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế..
- Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước: công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đầu tư
là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ.
Hai con đường đưa công nghệ vào sản xuất là nghiên cứu phát minh và mua
công nghệ từ nước ngoài về. Dù tự nghiện cứu hay mua công nghệ từ nước ngoài
đều cần phải có vốn đầu tư.
*> Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ:
- Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ
sở vật chât – kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào, đều phải tiến hành xây
dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đạt các trang thiết bị ..... và thực
hiện các chi phí khác trong sự hoạt động của các chu kỳ vật chất kỹ thuật vừa tạo ra.
I.2 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN.
I.2.1 - Khái niệm nông nghiệp, nông thôn.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân của mọi quốc gia- cả những nước phát triển và những nước đang phát triển. Sản
phẩm nông nghiệp sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực
phẩm cho cuộc sống con người; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá
cho xuất khẩu để thu ngoại tệ. Theo nghĩa hẹp thông thường thì nông nghiệp được
hiểu chỉ có 2 ngành là trồng trọt và chăn nuôi. Theo nghĩa rộng nông nghiệp còn
bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Nông thôn trước hết người ta hiểu đó là một vùng, khu vực có phạm vi không
gian cụ thể nhất định, mà bao trùm ở đó là cuộc sống cộng đồng nông dân với hoạt
động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Thường người ta hay so sánh nông thôn với
đô thị trên một số tiêu chí về số lượng dân cư, mật độ dân số, trình độ dân trí thực
trạng cơ sở hạ tầng và cả thu nhập bình quân một người trong một năm. Nhưng rõ
ràng các tiêu chí trên thì chưa hoàn toàn chính xác, bởi có sự khác nhau ở từng
quốc gia.
Như vậy với một vài tiêu chí đơn lẻ chưa thể nói hết được một cách đầy đủ
về nông thôn khi mà ở nó có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nhau và từ đó ta có thể
khái niệm về nông thôn như sau: Nông thôn là một vùng, một khu vực trong đó một
cộng đồng chủ yếu là nông dân mà cuộc sống của họ gắn bó với nông nghiệp. Là
nơi có mật độ dân số, trình độ dân số, cơ sở hạ tầng, trình độ sản xuất hàng hoá và
tiếp cận thị trường thường thấp hơn so với đô thị.
Quốc gia nào cũng có nông thôn và thành thị, vì thế trong nền kinh tế quốc
dân của mỗi nước bao giờ cũng hình thành nên hai khu vực kinh tế là khu vực kinh
tế nông thôn, và khu vực kinh tế thành thị, nó bổ xung và hỗ trợ cho nhau cùng phát
triển. Trước kia ta thường hiểu kinh tế nông thôn chỉ đơn thuần là hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
công nghệ và quản lý ngày một cao thì kinh tế nông thôn không phải chỉ có vậy mà
nó còn được phát triển cả về công nghiệp và dịch vụ.
Như vậy khái niệm kinh tế nông thôn là sự biểu đạt một cách tổng thể nhất
các hoạt động kinh tế - xã hội được diễn ra ở cả nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ trên địa bàn nông thôn.
I.2.2 - Những đặc trưng cơ bản của nông nghiệp, nông thôn.
*>Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống sinh vật (cây trồng,
vật nuôi) chúng sinh trưởng và phát dục theo những quy luật riêng. Con người muốn
có kết quả về sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và nhận thức được
các quy luật sinh vật để vận dụng thích hợp vào sản xuất. Sản xuất nông nghiệp
không giống công nghiệp. Nó luôn chứa đựng mâu thuẫn khách quan giữa tồn tại
kinh tế hộ mang tính độc lập tương đối với việc nâng cao sản xuất nông nghiệp trên
cơ sở của quá trình tích tụ, tập trung và chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp.
*>Hoạt động sản xuất nông nghiệp là sự đan kết của hai quá trình tái sản
xuất tự nhiên của sinh vật và tái sản xuất kinh tế với sự tham gia trực tiếp của con
người. Quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật là liên tục, hoàn chỉnh, không thể
chia cắt về không gian, thời gian theo yêu cầu sinh học của từng cây con. Như vậy
sản xuất nông nghiệp cần phải có một chủ thể cụ thể thường xuyên chăm sóc cây
trồng vật nuôi, thực sự làm chủ đối với quá trình sản xuất. Quan hệ của họ với tư
liệu sản xuất trong nông nghiệp phải là quan hệ gắn bó trực tiếp, họ phải là người
chủ của chúng.
*>Ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản hàng đầu và đặc biệt, không thể thay
thế được trong nông nghiệp, nếu thiếu ruộng đất thì hoạt động sản xuất nông nghiệp
không diễn ra.
*>Hoạt động sản xuất nông nghiệp có sự không trùng khớp hoàn toàn giữa
thời gian sản xuất và thời gian lao động, vì vậy nó có tính thời vụ rõ rệt không thể
xoá bỏ được. Tính thời vụ được biểu hiện: Trong thời vụ sản xuất thì sức lao động,
tư liệu sản xuất được sử dụng không đồng đều (lúc cần nhiều, lúc cần ít) sự không
ăn khớp giữa chi phí sản xuất ở mỗi khâu và thu nhập ở từng khâu ấy luôn phải gắn
với sản phẩm cuối cùng.
*> Hoạt động sản xuất nông nghiệp gắn liền với môi trường, có tác động tới
môi trường trong sạch.
Do đặc tính sinh học, do tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp thì muốn nâng có
hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần phải thực hiện chuyên môn hoá đi đôi với phát
triển tổng hợp, phải có sự thống nhất giữa đơn vị sản xuất và đơn vị phân phối.
Kinh tế hộ, kinh tế trang trại trở thành những hình thức tổ chức sản xuất thích hợp
thoả mãn yêu cầu đó.
I.2.3 - Vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế quốc dân:
Từ khi con người ra đời tồn tại và phát triển, loài người luôn gắn liền với
những hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Con người trước khi hình thành
các hoạt động đó đều phải có sự tiêu tốn một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Điều
đó đòi hỏi người ta phải sản xuất, trong đó sản xuất nông nghiệp là hết sức cần thiết
và quan trọng.
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, với hơn 80% dân số là nông dân, giá
trị sản phẩm nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị của ngành sản xuất vật chất ...
càng làm nổi bật lên vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế
quốc dân. Vai trò đó là đặc biệt quan trọng, nó thể hiện:
Một là: Nông nghiệp, nông thôn là nơi tập trung các ngành kinh tế lớn
Nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến là các ngành sản xuất chủ yếu
trong nông nghiệp, nông thôn, chiếm tỷ trọng trên 27 % trong cơ cấu kinh tế và giữ
một vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Kể từ năm 1997 về trước, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân
và hiện nay tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu trong cả nước và là
nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Từ nông nghiệp, nhà nước luôn có nguồn thu ổn
định trực tiếp thông qua thuế sử dụng đất nông nghiệp, tuy không lớn nhưng nó
mang lại ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trong bước đường đầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Không những thế, nông thôn ngày nay đang
được chú trọng đặt các cơ sở sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến
nông lâm sản. Ngoài lợi ích kinh tế, nó còn góp phần làm trong sạch hơn môi trường
trong các đô thị.
Hai là: Nông nghiệp, nông thôn là cơ sở, điều kiện để đẩy nhanh tốc độ phát
triển công nghiệp và dịch vụ.
Với một lượng dân sinh sống ở vùng nông thôn đông như nước ta hiện nay,
điều đó đã làm cho nông nghiệp, nông thôn trở thành một thị trường rộng lớn của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có thể thấy được rằng: Sức mua của người nông
dân, nhu cầu tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến quy
mô và tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tốc độ đó chỉ nhanh và mạnh, quy
mô chỉ lớn khi mà sức mua của xã hội tăng lên, trong đó sức mua của người nông
dân chiếm giữ một tỷ trọng lớn do thu nhập và đời sống của họ tăng lên.Và ở nông
thôn nước ta hiện nay cùng hoạt động với các làng nghề thủ công truyền thống, là
các làng nghề chuyên sản xuất các các loại máy móc cơ khí loại nhỏ, để phục vụ
cho nông nghiệp như: máy tuốt lúa, máy đập ...
Ba là: Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực để thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế rộng lớn, ( do nước ta là nước có
dân số trẻ), sẽ là nơi cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu của đất nước - Công cuộc
tái thiết và phát triển kinh tế nước nhà đòi hỏi trước hết ở việc phát triển nông
nghiệp, nông thôn sự chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế để từ đó giải phóng và sử dụng
hợp lý và có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào này. Đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn
trong chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
Bốn là: Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho cuộc sống con người và nguyên liệu cho công nghiệp.
Cái tất yếu ngàn đời để bảo tồn và phát triển sự sống con người đó là lương
thực, thực phẩm và rõ ràng nơi cội gốc sản sinh ra lương thực, thực phẩm chính là
nông nghiệp.Nếu thiếu lương thực con người không tồn tại
Công nghiệp phát triển và nhất là công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông
nghiệp ngày càng phát triển thì nông nghiệp, nông thôn là nơi chủ yếu cung cấp
nguyên liệu cho quá trình phát triển công nghiệp đó. Vì thế quy mô và tốc độ phát
triển nông nghiệp, nông thôn có tính quyết định đến quy mô và tốc độ tăng trưởng
của sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến.
Năm là: Nông nghiệp, nông thôn góp phần bảo vệ môi trường và cân bằng
sinh thái:
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp và vùng nông thôn chiếm hầu hết diện
tích bề mặt của đất nước. Việc phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ có vị trí quan
trọng trong duy trì, phát triển và bảo vệ môi trường thiên nhiên trong sạch, bảo đảm
hệ cân bằng sinh thái. Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa quanh
năm, điều đó có ảnh hưởng thuận lợi đến sự phát triển toàn diện và đa dạng nền
nông nghiệp. Vấn đề đặt ra trong việc phát triển đó là phải xây dựng một cơ cấu cây
trồng hợp lý vừa có hiệu quả kinh tế vừa tránh được sự huỷ hoại môi trường, môi
sinh.
Sáu là: Phát triển nông nghiệp là góp phần tạo ra nguồn ngoại tệ mạnh để
nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến nhằm rút ngắn thời gian công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Là một nước nông nghiệp lại có điểm xuất phát thấp, cho nên vấn đề phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó không
những tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao để tăng thu nhập ngoại
tệ mạnh tạo nguồn ngoại tệ đổi lấy những máy móc thiết bị và kỹ thuật công nghệ
mới từ nước ngoài mà còn tạo ra những tiền đồ bên trong để phát triển công nghiệp
và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn, làm thay đổi phương thức canh tác của
người nông dân, nâng cao dân trí và nâng cao tay nghề cho lao động nông nghiệp.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua các năm 1995 đến 1998 là
5.449 triệu USD, 7256 triệu USD, 9.185 triệu USD và 9.360 triệu USD, trong đó
giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản và tỷ trọng là năm 1995, 2.550
triệu USD, bằng 46,3%; Năm 1996 là 3.069 triệu USD bằng 42,3%; năm 1997 là
3.239 triệu USD bằng 35,3%; Năm 1998 là 3.324 triệu USD bằng 35,5%.
I.2.4- Những nhân tố tác động đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn:
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào nhiều nhân tố đa dạng và
phức tạp. Có thể phân chia thành các nhóm nhân tố cơ bản sau:
- Nhân tố vốn:
Cũng như mọi ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất nông nghiệp muốn
hoạt động và phát triển được thì phải có vốn. Vốn tham gia vào tất cả các khâu trong
quá trình sản xuất. Sản xuất muốn tiến triển đều và thuận lợi thì sự đáp ứng vốn đủ
và kịp thời là có tính quyết định. Hiện nay nền sản xuất nông nghiệp nước ta đang
còn ở trình độ thấp, lạc hậu, lao động thủ công còn phổ biến, cơ sở hạ tầng nông
thôn còn thấp kém ... vì thế, vốn chính là nhân tố quan trọng hàng đầu rất cần thiết.
Tín dụng ngân hàng đã đang và sẽ là nguồn cung ứng vốn cho yêu cầu phát triển
nông nghiệp, nông thôn.
- Điều kiện tự nhiên:
Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật sống, nó tồn tại và phát
triển theo quy luật tự nhiên gắn liền với điều kiện tự nhiên. Chính vì thế mà điều
kiện đất đai, khí hậu, thời tiết có ý nghĩa rất to lớn đối với sản xuất nông nghiệp.
Nếu điều kiện thuận lợi thì giảm được phí cho những yếu tố đầu vào mà vẫn tạo ra
được sản phẩm có độ rủi ro thấp, nếu không thuận lợi thất bát như mất mùa, thiên
tai dẫn đến sản lượng giảm và phí tăng làm cho chi phí tăng lên; Chi phí ít để sản
xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh.
- Các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp:
Nhóm nhân tố này có liên quan đến khả năng quản lý phát triển sản xuất, và
phát huy được nguồn nội lực sẵn có. Thấy rõ được rằng hệ thống chính sách kinh tế
vĩ mô của nhà nước có tác động rất lớn đến phát triển nông nghiệp, nông thôn như:
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách phát triển kinh tế nông
thôn, chính sách khuyến khích xuất khẩu và đầu tư, chính sách ruộng đất, chính
sách trợ giá đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, chính sách bảo hộ cho sản phẩm
nông nghiệp, chính sách phân vùng kinh tế, hình thành những vùng chuyên môn hoá
có quy mô ngày càng lớn.
- Khoa học- kỹ thuật:
Khoa học kỹ thuật luôn là những nhân tố có tác dụng lớn đến việc tăng năng
suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học
kỹ thuật trong lĩnh vực lai tạo giống, sản xuất phân bón, thức ăn, công nghệ sản xuất
chế biến, chất lượng hạ tầng cơ sở vào quá trình sản xuất đã làm cho sự phát triển
nông nghiệp, nông thôn có những bước tiến dài đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Hợp tác và phân công lao động:
Mỗi một nước khác nhau cũng như mỗi vùng, mỗi khu vực trong phạm vị
một nước thì nhu cầu về điều kiện sản xuất là đa dạng và phong phú, nó đòi hỏi phải
có sự trao đổi kết quả hoạt động ra bên ngoài ở mức độ, phạm vi khác nhau. Thực tế
đã chứng minh sự hợp tác trong sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng được kịp thời yêu
cầu của tính thời vụ. Hơn nữa trong lợi thế so sánh yêu cầu phải có quá trình tham
gia vào phân công lao động dưới nhiều hình thức để nhằm tăng khả năng thích ứng
và phù hợp với điều kiện, truyền thống, lợi thế riêng có của nông nghiệp ở mỗi
vùng, mỗi khu vực trong phạm vi một nước cũng như khu vực và trên thế giới.
I.2.5 - Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và các nguồn vốn
đầu tư.
I.2.5.1 - Đặc điểm riêng biệt của nông nghiệp, nông thôn nước ta:
*> Nông nghiệp Việt Nam là một nền nông nghiệp lạc hậu:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, lực lượng sản xuất còn non yếu, đại bộ
phận là lao động thủ công, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý còn thấp
kém.
- Sản xuất nông nghiệp còn chưa thoát khỏi tự cấp tự túc đặc biệt là những
vùng nông thôn miền núi.Bà con đồng bào vẫn còn tình trạng du canh du cư
*> Thu nhập của nông dân thấp, đời sống còn hết sức khó khăn, họ chỉ có
thu nhập khi bán những cây hoa quả,lợn, gà, trâu dê..
*> Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đang
được từng bước xúc tiến và đã mang lại một số thành tựu đáng kể, song vẫn còn gặp
không ít khó khăn:
- Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn còn ở
tốc độ chậm (Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ mới chiếm 20% trong cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn). Tỷ trọng trồng trọt trong nông nghiệp vẫn cao: năm 1999
là 80,5% .
- Đã thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng tác động
thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn còn chưa mạnh, các doanh nghiệp nhà nước cũng
như các thành phần kinh tế khác đều”ngại “ đầu tư vào nông nghiệp.
- Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn những năm gần đây đã nhiều hơn
nhưng chưa làm chuyển biến được một cách mạnh mẽ sự lớn mạnh của lực lượng
sản xuất: Các tài sản cố định trong nông nghiệp, nông thôn chưa tạo được sự cân đối
giữa máy móc thiết bị và súc vật cày kéo, trình độ cơ giới hoá còn thấp.
- Quỹ đất đai còn hạn hẹp, bình quân đất nông nghiệp chỉ có 0,7 ha/1 lao
động vào loại thấp nhất thế giới. Ruộng đất giao khoán tạo sự manh mún, chia cắt
không thuận lợi cho cơ giới hoá và công nghệ sinh học.Đặc biệt là hoang phí bờ
ruộng do việc ngăn cách các thửa ruộng giữa các hộ đang diễn ra, gây một sự lãng
phí rất dáng tiếc
- Thị trường nông thôn kém phát triển, làm ra cây và con bán cho các thương
nhân thường bị ép giá gây thiệt đơn-thiệt kép. Cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là miền
núi còn thấp kém, chưa đầy đủ và không đồng bộ về số lượng, kém về chất lượng
theo yêu cầu sử dụng.
*> Các hợp tác xã ở nông thôn hoạt động kém hiệu quả không vực dậy được
kinh tế nông thôn.
*> Tư tưởng trông chờ ỷ lại của một số ít cán bộ thôn bản làm tăng lên sức
“ỳ” cho kinh tế nông thôn.
I.2.5.2 - Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn
Trong quá trình phát triển của tất cả các nước thì vốn luôn luôn là vấn đề bức
xúc, nổi cộm. Nước ta, với điểm xuất phát thấp thì nhu cầu vốn cho thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nhất là cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn luôn đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn. Nhưng thực tế ở nước ta
hiện nay vẫn còn sự chênh lệchgiữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn. Thực trạng
“đói vốn” trong trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến
sự phát triển các ngành nghề trong nông nghiệp, đến việc áp dụng các tiến bộ khoa
học vào sản xuất nông nghiệp, đến việc xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn
...
Theo dự tính của nhiều nhà kinh tế được Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn tổng hợp lại cho thấy, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn trong giai đoạn từ nay tới năm 2010 thì lượng vốn cần đầu tư hàng năm
vào khoảng 2,5 tỷ USD. Với một lượng vốn cần lớn, nhiều như vậy thì rõ ràng vấn
đề đặt ra là phải có những chính sách phù hợp, vừa phát huy nội lực, vừa thu hút
đầu tư nước ngoài ... để đáp ứng được cho yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
I.2.5.3 - Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn:
- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thường có vai trò quan trọng nhất,
nó được đầu tư vào sản xuất nông nghiệp dưới hai dạng trực tiếp và gián tiếp.
Vừa đầu tư thông qua các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho hộ nông dân, vừa
đầu tư vào các hoạt động phục vụ lợi ích chung của nền nông nghiệp như đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ sinh học ... Đầu tư
vào xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội thường có thời gian thu hồi vốn chậm
cho nên các nguồn vốn khác chưa thể có điều kiện tham gia đầu tư, vì thế nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước là đặc biệt quan trọng. Ta có công thức:
Sg =T- G
Trong đó : Sg là tiết kiệm của nhà nước.
T là tổng thu ngân sách nhà nước.
G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước.
- Nguồn vốn đầu tư của dân cư.
Thu nhập và đời sống của người dân nói chung, của nông dân nói riêng ngày
càng tăng nhanh. Trong điều kiện đó, đi cùng với chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần thì việc đưa vốn vào để sản xuất nông nghiệp của nông dân, của những
người ở thành thị và của người Việt Nam ở nước ngoài cũng ngày càng tăng.
Vốn đầu tư của dân cư là nguồn vốn tại chỗ rất quan trọng nó làm cho nội
lực kinh tế trong khu vực nông thôn được phát huy, nó góp phần làm tăng trưởng
nền kinh tế, đồng thời làm tăng tích luỹ của khu vực nông thôn, tạo điều kiện phát
triển thêm lên các đơn vị kinh tế, các ngành nghề kinh tế tại khu vực này. Công
thức:
Sh = DI –C
Trong đó Sh là tiết kiệm từ khu vực dân cư.
DI là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư
C là chi thường xuyên của khu vực dân cư.
- Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp.
Đây là nguồn vốn của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản tự bổ xung vốn để đầu tư cho nhu cầu đổi mới trang thiết bị,
công nghệ sản xuất nhằm nâng cao năng lực hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp thực hiện ứng vốn cho nông dân thông qua hình
thức ký kết các hợp đồng kinh tế, các giao kèo thoả thuận với nông dân trong việc
nông dân bán sản phẩm nông nghiệp cho doanh nghiệp. Đây là một kênh chuyển
vốn vào nông nghiệp, nông thôn, nó là cần thiết trong điều kiện các nguồn vốn khác
chưa đáp ứng được đầy đủ.Công thức:
Sc = Dp +Pr
Trong đó: Sc là tiết kiệm của các doanh nghiệp.
Dp là quĩ khấu hao của doanh nghiệp.
Pr là lợi nhuận để lại doanh nghiệp.
- Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài:
Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) là nguồn vốn lớn rất cần đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nó trở
thành một bộ phận đáng quan tâm của hoạt động đầu tư toàn xã hội.
Thực tế hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào nước ta ngày càng được mở rộng
tới các vùng, các địa phương nhờ có sự hợp lý của luật đầu tư nước ngoài. Nguồn
vốn này góp phần tăng lượng vật chất đáng kể trong nền kinh tế nước ta, qua đó
thực hiện hoạt động đầu tư phát triển kinh tế- xã hội.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thì số lượng dự án có vốn
đầu tư nước ngoài đưa vào còn ít, số vốn lại thấp. Vì vậy việc tăng cường gọi vốn
nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là hết sức cần thiết.
- Nguồn vốn tín dụng(hay đầu tư vốn tại các tổ chức tín dụng):
Là nguồn vốn bổ xung cho nhu cầu vốn để phát triển nền kinh tế nói chung
và phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Trong điều kiện các nguồn
vốn khác chưa đảm bảo đáp ứng đủ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, phát triển
nông thôn thì nguồn vốn tín dụng càng chiếm giữ một vai trò quan trọng.
Hiện nay, nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn là rất lớn, đòi
hỏi các tổ chức tín dụng như các ngân hàng thương mại, các ngân hàng cổ phần, các
quỹ tín dụng nhân dân ... rất cần dành ra một tỷ lệ vốn thích đáng để đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn nhằm ngày càng rút ngắn được khoảng cách chênh lệch
giữa nhu cầu vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn và khả năng đáp ứng vốn của
các loại nguồn vốn.
I.3- HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
I.3.1- Một số vấn đề cơ bản về NHTM
I.3.1.1- Khái niệm ngân hàng thương mại.
Để đưa ra một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta thường dựa vào
tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, đôi khi còn kết
hợp tính chất và mục đích hoạt động.
Luật ngân hàng của Đan mạch năm 1930 định nghĩa" những nhà băng thiết
yếu gồm các nghiệm vụ nhận tiền gửi ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các gía trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện
các nghiệm vụ chuyển ngân....."
Hay như luật ngân hàng của ấn Độ năm 1950, được bổ xung năm 1959 nêu “
ngân hàng là các cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu
tư”.v.v..
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng qua phân tích các định
nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các ngân hàng đều có chung một bản chất đó
là nhận tiền gửi ký thác – tiền gửi không kỳ hạn,và tiền gửi có kỳ hạn, để sử dụng
vào các nghiệp vụ chiết khấu, cho vay và các dịch vụ cho vay khác của chính ngân
hàng.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước,thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động kinh doanh theo pháp luật.Các doanh nghiệp
không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh trước pháp luật, trong đó có
qui định riêng về tổ chức tín dụng.
Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu:” tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp được thành lập theo luật này và các qui định khác của pháp
luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền
gửi, và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
I.3.1.2- Đặc trưng kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM).
Hoạt động kinh doanh trên thị thường tài chính bao gồm nhiều loại hình tổ
chức kinh doanh tiền tệ,chúng là những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động như
những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền nhàn rỗi tiết kiệm tích luỹ được trong
dân cư, đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại
có sự khác nhau về tính chất cũng như đối tượng và phưong pháp kinh doanh. Sự
khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên nhân lịch sử và chế độ kinh tế, ngày nay
chúng đều là những sản phẩm của thể chế mỗi nước.
Lịch sử của NHTM là kinh doanh tiền gửi, từ chỗ làm dịch vụ nhận tiền gửi,
với tư cách là người thủ quĩ bảo quản tiền cho chủ sở hữu để nhận những khoản thù
lao, trở thành chủ thể kinh doanh tiền gửi, nghĩa là huy động tiền gửi không những
miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền, để làm vốn cho vay với
mục đích tối ưu hoá lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò chung gian chuyển tiền từ người cho vay sang
người đi vay, các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế tiền làm
phương tiện thanh toán.Trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi thanh toán
bằng séc, một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng.
I.3.1.3. - Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế.
*> Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Vốn được tạo ra từ quá trình tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp,và nhà
nước trong nền kinh tế.Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và
giảm tiêu dùng.Muốn tăng thu nhập quốc dân phải mở rộng qui mô sản xuất, phát
triển thị trường... theo qui luật tăng trưởng thì nguồn vốn thu được nhiều hơn.
Ngân hàng là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn trong kinh doanh. Ngân hàng
huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, và thông qua nghiệp vụ tín dụng cấp vốn kịp
thời cho mọi hoạt động kinh doanh- sản xuất.Các hoạt động kinh doanh- sản xuất có
lãi trả được khoản vay của ngân hàng và quan trọng là tăng thu nhập cho toàn xã
hội.
*> Ngân hàng là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước:
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, NHTM hoạt động một cách có
hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình, thực sự là công cụ điều tiết vĩ
mô của nhà nước.
Bằng các hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NH trong hệ thống các
NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp
tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và
phân chia vốn cho thị trường tiền tệ, điều khiển chúng có hiệu quả thực thi vai trò
điều tiết gián tiếp vĩ mô:” Nhà nước điều tiết NH, NH dẫn dắt thị trường”.
*> NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế:
Nền kinh tế thị trường khi mà mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được
mở rộng, nhu cầu giao lưu kinh tế – xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng
trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, và là bộ phận cấu thành nên sự phát triển
đó. Vì vậy nền tài chính của các nước phải hoà nhập với nền tài chính thế giới.
NHTM cùng hoạt động kinh doanh của mình phải đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong quá trình hội nhập.Với các nghiệp vụ kinh doanh của mình NHTM tạo
điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển và mở rộng.
Thông qua các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối,quan hệ tín
dụng với các NH nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện được vai trò điều tiết
nền tài chính trong nước, phù hợp với sự vận động của nền tài chính thế giới.
I.3.1.4- Những đặc điểm riêng biệt của NH Nno&PTNT Việt Nam.
Ngân hàng NNo&PTNT việt Nam có những đặc điểm riêng biệt sau:
*> Đó là NHTM quốc doanh kinh doanh tiền tệ bình thường như bao NHTM
khác trên thị trường nông thôn.Việc tạo vốn và cho vay theo cơ chế thị trường :
cũng bị cạnh tranh, bảo toàn vốn, và sinh lời sau qúa trình phục vụ nông nghiệp,
nông thôn trên cơ sở “ vay để cho vay”.Vì vậy trong quá trình hoạt động NH thực
sự phải tôn trọng theo nguyên tắc của kinh tế thị trường.
*> Ngân hàng NNo&PTNT đang thực hiện nhiều nhiệm vụ của một NH chính
sách, nó có trách nhiệm thực hiện mục tiêu của nhà nước(chương trình lương thực,
chương trình phát triển nhà ở của đồng bằng sông Cửu Long, chương trình khắc
phục hậu quả thiên tai, xoá đói giảm nghèo, tài trợ vùng sâu vùng xa...).
Trong việc thực hiện mục tiêu các chương trình có tính chất xã hội, ngân hàng
NNo&PTNT phải dành ưu tiên về lãi suất, điều kiện và thời hạn cho vay các đối
tượng vay-khách hàng cốt yếu của mình là nông dân. Chính vì thế mà không ít
trường hợp ưu đãi đó cần được xử lý cho bản thân NH nếu muốn tiếp tục tồn tại và
phát triển( chẳng hạn lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động vốn bình thường).
*> Với một vị trí là NHTM quốc doanh, NHNo đang và sẽ phải là một NH
đóng vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tiền tệ nông thôn. Nó có trách nhiệm
hướng dẫn và chi phối thị trường này, đáp ứng vốn và dịch vụ ngân hàng cho sự
nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Bên cạnh nỗ lực của bản thân
NH, Nhà nước cần có chính sách phát triển NHNNo cả về mặt chính sách và vốn...
để nó có thể vươn lên tạo thành chỗ dựa chủ yếu trong việc lo vốn và phát triển dịch
vụ NH cho nông nghiệp nông thôn-mặt trận hàng đầu cho sự nghiệp phát triển kinh
tế đất nước.
*>Xuất thân là một NHTM hoạt động ngắn hạn là chủ yếu,NHNO đã và đang
vươn lên thành một NH đa năng và ngày càng mang tính chất của một NH phát
triển. Điều này xuất phát từ đòi hỏi hết sức mạnh mẽ,và cấp bách của sự nghiệp phát
trểin nông nghiệp nông thôn,không như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu của vốn
trung hạn và dài hạn cho quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, chuyển từ một
nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, với qui
mô ngày càng lớn giải toả khâu tiêu thụ đang có nhiều ách tắc, hướng về chế biến,
hướng về xuất khẩu, và hướng về phát triển ngành nghề phù hợp với yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
*> Điều kiện hoạt động của NHNo có những đặc thù khác với các NHTM
quốc doanh khác: địa bàn hoạt động rộng và phân tán, đội ngũ cán bộ nhân viên
đông; chi phí cao; dễ gặp thiên tai và rủi ro tín rụng.
I.3.2- Huy động vốn tại NHTM.
I.3.2.1- Khái niệm huy động vốn:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà NH huy động từ các tổ chức kinh tế,
cá nhân trong xã hội, thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh
toán các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, NH chỉ
có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn
cả gốc và lãi khi đến hạn( tiền gửi có kỳ hạn )hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn ( tiền
gửi không kỳ hạn).
I.3.2.2- các loại hình huy động vốn:
*> Tiền gửi : bao gồm 2 loại là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
+ Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng
bất cứ lúc nào, và NH phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, tiền gửi không kỳ
hạn lãi suất thấp hoặc không đựoc trả lãi, bao gồm 2 loại tiển gửi sau:
- Tiền gửi thanh toán: Đó là các loại tiền gửi không kỳ hạn trước hết được
sử dụng để tiến hành thanh toán, chỉ trả cho các hoạt động mua bán hàng hoá dịch
vụ và các khoản phát sinh khác trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên,
an toàn thuận lợi.
- Tiển gửi không kỳ hạn thuần tuý: là khoản tiền gửi với mục đích an toàn,
không mang mục đích thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút tiền ra chi tiêu.
+ Tiển gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi
thanh toán và tiền gửi tiết kiệm, đây là nguồn tương đối ổn định.khi đến hạn khách
hàng mới đựơc rút ra
*>-Tiền gửi tiết kiệm: xét về bản chất đây là một phần thu nhập của cá nhân
chưa sử dụng cho tiêu đùng. Họ gửi vào NH với mục đích tích luỹ một cách an toàn
và hưởng một phần lãi từ khoản tiền đó.Gồm có:
+ Tiển gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là những khoản tiền gửi có thể rút ra thanh
toán bất cứ lúc nào, hoặc được sử dụng làm công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền có sự thoả thuận về thời gian gửi
tiền và rút ra, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
*> Phát hành giấy tờ có giá: NH thực hiện phát hành giấy tờ có giá đó là chứng
chỉ tiền gửi và trái phiếu.
Trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá qui định, còn
trái phiếu là loại phiếu nợ trung hạn và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được NH
phát hành từng đợt, tuỳ theo mục và sự chấp thuận của NHTƯ và hội đồng chứng
khoán quốc gia.
*> Các hình thức huy động khác:
+ Nhận vốn từ Trung Ương để thực hiện các chương trình dự án của nhà nước
về phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
+ Nhận vốn tài trợ từ các tổ chức nước ngoài( tổ chức thuộc chính phủ, phi
chính phủ..).
+ Vay từ NHNN để làm vốn kinh doanh, thực hiện kinh doanh có hiệu quả lại
trả lãi cho NHNN.
NHNNo&PTNT Việt Nam là một NHTM nên hoạt động chủ yếu vẫn là “ đi vay
để cho vay” với số vốn tự có của toàn hệ thống chiếm một tỷ trọng thấp, do vậy huy
động vốn là cần thiết cho hoạt động NH. Theo pháp lệnh của NH, qui định một NH
có thể huy động một lượng vốn tốt đa là 20 số vốn tự có của mình.
I.3.2.4- Các nhân tố phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn tại NH.
*> Chỉ tiêu 1: Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định:
- Vốn huy động cho đầu tư có sự tăng trưởng và ổn định về mặt số lượng, nguồn
vốn tăng đều qua các năm( vốn huy động năm sau cao hơn năm trước) thoả mãn nhu
cầu tín dụng cho đầu tư.
- Nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian( tránh rủi ro về mặt thời gian).
Nếu NH huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư, nhưng không ổn định
thường xuyên- kéo theo đó là vốn cho vay không lớn, NH thường xuyên lo vấn đề
thanh toán. Do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NH.
*> Chỉ tiêu 2: Chi phí huy động:
- Chi phí huy động được đánh giá cao qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân,
lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu ra-đầu vào, đồng thời cũng
thông qua chi phí phát hành. Việu NH giảm chi phí huy động bằng việc giảm lãi
suất huy động, thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Ngược lại khi lãi suất huy
động càng cao thì lãi suất cho vay ra càng cao, gây khó khăn cho người vay tiền,
gây ra hiện tượng ứ đọng vốn tại NH, khi đó NH phải trả lãi cho người gửi tiền
trong khi khoản tiền này không sinh lãi.
*> Chỉ tiêu 3: Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
- Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu cầu vay
vốn. Từ đó có thể xác định được nguồn vốn có thể huy động là bao nhiêu và nhuồn
vốn cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó.
Để đạt được mục tiêu này, NH phải đạt ra cơ cấu huy động vốn trụng dài hạn
một cách hợp lý.
*> Chỉ tiêu khác:
- Thời gian, mệnh gía huy động vốn hợp lý.
- Mức độ thuận tiện cho khách hàng: đánh gía qua các thủ tục nhận tiền, làm
các dịc vụ kèm theo.
- Thời gian hoàn thành vốn so với qui định.
I.3.2.5- Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn.
*> Nhân tố chủ quan:
- Các hình thức huy động vốn: đây là một trong những nhân tố quan trọng,
ảnh hưởng đến tình hình vốn tại NH. Hình thức huy động vốn càng phong phú thì
khả năng đáp ứng nhu cầu tiền gửi của dân cư sẽ tăng lên và vốn huy động nhiều
hơn.
- Chính sách lãĩ suất: Lãi suất là nhân tố quan trọng khiến người gửi tiền vào
NH hay không?
- Chính sách khách hàng: NH có chính sách khách hàng tốt thì khách hàng sẽ
gửi tiền vào NH ngày càng nhiều hơn.
- Công tác cân đối giữa huy động và cho vay: Chiến lược huy động vốn tốt còn
phụ thuộc vào vào khả năng có cho vay tốt được hay không, nếu sử dụng vốn không
hiệu quả thì ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của NH.
- Công nghệ NH: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công nghệ của
mình, vì công nghệ Nh càng tiên tiến thì khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng
càng tốt thì hiệu quả kinh doanh của NH càng cao.
*> Nhân tố khách quan:
- Tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của NH chủ yếu là nguồn
vốn của dân cư, các tổ chức kinh tế... các đơn vị này tiết kiệm cao thì nguồn vốn
huy động cao.
- Tâm lý tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là 2 nhân tố đối lập nhau nên tiêu
dùng tăng thì tiết kiệm giảm và ngược lại.
-Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý ổn định, cụ thể là cơ sở pháp lý cho
hoạt động NH được đảm bảo, thì người dân sẽ an tâm gửi tiền vào NH.
I.3.3- Hoạt động cho vay tín dụng tại NH nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp
nông thôn
I.3.3.1- Khái niệm cho vay tín dụng:
Nhiều nhà kinh tế học hiện đại cho rằng cho vay là dựa vào lòng tin của
người cho vay vào người đi vay, để thực hiện quan hệ vay mượn vốn trên nguyên
tắc hoàn trả cả vốn và lãi.
Nói một cách tổng quát thì hoạt động đầu tư vốn( tín dụng) là một phạm trù
kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn cho vay. Nó phản ánh quan hệ kinh
tế, giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng đối với nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế, là sự chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị hiện vật theo những điều kiện
cho hai bên cho vay- đi vay thoả thuận trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Trong
nền kinh tế hàng hoá cho vay là tất yếu khách quan, nó ra đời và bắt nguồn từ đặc
điểm chu chuyển vốn tạo ra giữa nơi cần vốn và nơi tạm thời có vốn nhàn rỗi.
Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ cho vay cho thấy: lúc đầu là cho
vay nặng lãi, gắn liền với sản xuất hàng hoá nhỏ lẻ và lạc hậu; kế tiếp là cho vay
thương mại rồi đến cho vay tại NH.
Cho vay tại NH: Là quan hệ cho vay giữa NH với các doanh nghiệp, hộ gia
đình.... thực hiện trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi, thông qua các nghiệp vụ
kinh doanh của mình NH đáp ứng phần lớn vốn cho nền kinh tế.
I.3.3.2 - Các hình thức cho vay và các phương thức cho vay
I.3.3.2.1 - Các hình thứccho vay.
Theo các tiêu thức phân chia khác nhau có các hình thức cho vay( tín dụng)
ngân hàng khác nhau:
*> Căn cứ vào thời gian hình thành trong quan hệ với khách hàng:
- Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay mà thời hạn cho vay được xác
định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng
nhưng không vượt quá 12 tháng. Cho vay ngân hàng thực hiện bù đắp sự thiếu hụt
vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ gia
đình, cá nhân.
-Cho vay trung hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn cho vay trên 1 năm
đến 5 năm.
- Cho vay dài hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm nhưng
không quá 15 năm, dùng để đầu tư vào các chương trình, dự án có quy mô lớn, thời
hạn thu hồi vốn lâu.
Việc phân chia mức cho vay ngân hàng theo tiêu thức thời gian như trên sẽ
giúp cho các ngân hàng tính toán các luồng vốn đầu tư và mức vốn đầu tư trong một
khoảng thời gian nhất định. Thời hạn cho vay trung, dài hạn được xác định phù hợp
với thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, phù hợp với khả năng trả nợ của khách
hàng và khả năng nguồn vốn dùng để cho vay trung, dài hạn của tổ chức tín dụng.
*> Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: Là các khoản cho vay mà khách
hàng vay được ngân hàng tín nhiệm nên không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của người thứ ba làm bảo đảm tiền vay.
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Là các khoản ngân hàng cho vay ra đòi
hỏi khách hàng vay phải có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của
người thứ ba. Theo đó giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh phải lớn
hơn số tiền ngân hàng cho vay ra.
* Căn cứ vào thao tác thừa hành cho vay:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cho vay vốn trực tiếp tới người có nhu cầu
vay và khách hàng vay phải trực tiếp hoàn trả nợ gốc, lãi vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là các khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước nợ hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn thời hạn thanh
toán.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
- Tín dụng cho phát triển sản xuất kinh doanh: Là các khoản cho vay mà tiền
vay được sử dụng vào phát triển sản xuất kinh doanh.
- Tín dụng cho tiêu dùng: Là các khoản cho vay mà tiền vay được sử dụng
vào mục đích tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống con người.
* Xét trên góc độ pháp luật thì có:
+Cho vay chính thức: Là hình thức tín dụng được pháp luật thừa nhận gồm
các chủ thể tham gia là các Ngân hàng thương maị quốc doanh, Ngân hàng nước
ngoài, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, các Quỹ tín dụng
nhân dân, và các Tổ chức tài chính trung gian khác.
+Cho vay không chính thức: Là các hình thức cho vay không được pháp luật
thừa nhận. Hình thức cho vay này nó ra đời, tồn tại gắn liền với sự phân chia giai
cấp trong xã hội loài người dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo mà nảy sinh quan hệ
vay mượn lẫn nhau với lãi suất cao.
Cho vay chính thức luôn là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và ngày càng lấn át,
chiếm lĩnh thị trường nông nghiệp, nông thôn. Trong các chủ thể tham gia thì Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với màng lưới rộng khắp đất nước đã,
đang và sẽ giữ vai trò nòng cốt trong việc cấp vốn cho phát triển sản xuất nông
nghiệp, nông thôn, thực sự mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế.
I.3.3.2.2 - Các Phương thức cho vay:
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vốn vay của khách hàng và khả
năng kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay của ngân hàng mà ngân
hàng nơi cho vay thoả thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn phương thức cho
vay theo các phương thức cho vay sau:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng nơi cho vay
làm thủ tục vay vốn theo quy định của ngân hàng và ký hợp đồng tín dụng. Phương
thức này áp dụng đối với những khách hàng vay vốn không thường xuyên, có nhu
cầu và đề nghị vay vốn từng lần.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay
vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ tín dụng
với ngân hàng. Ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng vay xác định và thoả thuận
một hạn mức tín dụng duy trì trong thơì gian nhất định hoặc theo một chu kỳ sản
xuất kinh doanh nhưng tối đa không quá 12 tháng.
- Cho vay theo dự án đầu tư:
Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống, các dự án xây dựng cơ
sở hạ tầng. Ngân hàng sẽ thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án.
- Cho vay hợp vốn:
Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay vốn đối với một dự án vay vốn
hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó một tổ chức tín dụng đứng ra
làm đầu mối dàn xếp.
- Cho vay trả góp:
Khi vay vốn, ngân hàng nơi cho vay và khách hàng xác định và thoả thuận số
lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chi ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời hạn vay vốn.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Căn cứ vào nhu cầu vay của khách hàng, ngân hàng nơi cho vay và khách
hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn
hiệu lực của tín dụng dự phòng. Nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng
không hết hạn mức tín dụng dự phòng thì khách hàng vẫn phải bỏ phí cam kết tính
cho hạn mức tín dụng dự phòng đó.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng nơi cho vay chấp thuận cho khách hàng sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt
tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là các đại lý của tổ chức tín dụng
đó.
I.3.4- Vai trò của cho vay tín dụng NH nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp
nông thôn
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là vấn đề chiến lược hàng đầu
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Phát triển nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu khách quan nhằm phấn đấu
đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản phải là nước công nghiệp. Quá trình này đòi
hỏi một khối lượng vốn rất lớn đưa vào nông thôn thông qua các kênh dẫn vốn khác
nhau. Trong đó, cho vay tín dụng của ngân hàng thực sự là một luồng dẫn vốn quan
trọng.
Vai trò cho vay tín dụng của ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn như là
một đòn bẩy, là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng
CNH-HĐH, nâng cao đời sống dân sinh, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế và
đổi mới. Vai trò cho vay tín dụng của ngân hàng đối với quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn được thể hiện trên một số nội dung sau:
Thứ nhất: cho vay tín dụng của ngân hàng góp phần hình thành và phát triển
thị trường tài chính ở nông thôn.
Thị trường tài chính ở nông thôn bao gồm thị trường vốn và hoạt động tín
dụng. Cho vay tín dụng là cầu nối giữa tích luỹ, tiết kiệm và đầu tư, thực sự là trung
gian giữa những người cần vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi nhằm phục vụ
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Ngân hàng một mặt cấp vốn cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, những khoản tiền nhàn rỗi tạm thời của các doanh nghiệp, các hộ gia
đình, cá nhân trong nông thôn còn có thể đầu tư tài chính thông qua các công cụ của
thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu ...
Sự hình thành thị trường tài chính và tín dụng nông thôn đã là bước khởi đầu
cho sự tạo ra thị trường vốn ở nông thôn được hoàn chỉnh và sớm đi vào hoạt động.
Nước ta là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở nông thôn, lao
động trong nông nghiệp chiếm khoảng 70% lao động xã hội, với trên 12 triệu hộ sản
xuất nông, lâm, nghư nghiệp và tạo ra gần 50% tổng sản phẩm xã hội... vì thế công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là tất yếu. Để thực hiện đưa nền
sản xuất nông nghiệp lên trình độ cao thì vấn đề đặt ra là phải tiếp tục tạo lập và
phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong đó có thị trường vốn và tiền tệ, nhất là
thị trường vốn trung và dài hạn ở nông thôn để tạo ra động lực cho sự phát triển sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong đó cho vay tín dụng của ngân hàng có
phần đóng góp rất quan trọng.
Thứ hai: cho vay tín dụng ngân hàng thúc đẩy nền nông nghiệp lên sản xuất
hàng hoá.
Sản suất hàng hoá là tất yếu khách quan, là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế ở tất cả các nước, nhất là ở các nước có nền kinh tế lạc
hậu, mang tính tự cấp, tự túc như nước ta, đồng thời nông nghiệp, nông thôn nước ta
đang giữ vị trí là một khu vực sản xuất vật chất rất lớn. Nhu cầu vốn cho phát triển
sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn là rất lớn. Và điều đó, chỉ có khối
lượng vốn ngân hàng mới có khả năng đáp ứng được.
Cho vay tín dụng ngân hàng đáp ứng bổ xung phần vốn thiếu cho người sản
xuất nông nghiệp để họ có điều kiện thâm canh tăng năng suất cây trồng, phát triển
chăn nuôi và mở mang ngành nghề cũng như tăng cường mua sắm những trang thiết
bị, máy móc, chi phí cho việc mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động
nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, được thị trường tiêu thụ.
Vốn đầu tư của ngân hàng với mức lãi suất hợp lý được cung ứng thường
xuyên cho nhu cầu của người sản xuất nông nghiệp, đã là điều kiện và động lực thúc
đẩy nhanh quá trình phát triển nền sản xuất hàng hoá như: Quy mô sản xuất ngày
càng lớn, năng suất ngày càng tăng, tức là sản lượng tăng và tỷ trọng hàng hoá nhiều
lên, sẽ làm nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn và để trở lại là điều kiện cho phát
triển mở rộng quy mô sản xuất. Quá trình đó, đưa đến một kết quả tất yếu là sản
lượng hàng hoá nông sản ngày càng tăng, đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho tiêu dùng, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và những mặt
hàng có giá trị xuất khẩu.
Thứ ba: Cho vay tín dụng của ngân hàng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng,
tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu công nghệ mới đưa vào sản xuất kinh doanh.
Kết cấu hạ tầng bao gồm kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội,
luôn được xác định là một nhân tố hàng đầu - nền tảng của sự phát triển. Hệ thống
kết cầu hạ tầng là bức tranh quy chiếu trình độ văn minh của một xã hội, một cộng
đồng. Kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn bao gồm: Giao thông và thông
tin; thuỷ lợi và nước sạch; điện, trường học, y tế, nhà ở và các công trình văn hoá,
phúc lợi công cộng khác, những cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản, những cơ
sở sản xuất ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu vào năm
1996 của một nhóm chuyên gia các bộ ngành thì kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta
hiện nay còn rất thấp kém xét trên phạm vi kết cấu hạ tầng cấp xã. Và hiện nay thực
trạng kết cấu hạ tầng ở nông thôn là chưa đầy đủ, chưa đồng bộ về số lượng, lại kém
về chất lượng theo yêu cầu sử dụng.
Cơ sở hạ tầng trong nông thôn là yếu tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến và
sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tiếp cận nhanh với thị
trường bên ngoài... đáp ứng tốt yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn trước hết
là từ nguồn ngân sách nhà nước và vốn đóng góp của nông dân, từ các doanh nghiệp
và từ người dân ở thành thị, từ kiều bào ở nước ngoài và từ nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Tuy nhiên trong
thời gian vừa qua, những nguồn vốn này không thể đáp ứng được đầy đủ và kịp
thời. Chính vì thế, vốn tín dụng ngân hàng đã thực hiện tham gia vào quá trình đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, phát huy hiệu
quả tích cực của cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
Thứ tư: Cho vay tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo điều kiện phát triển các ngành nghề truyền thống. Góp phần vào sự phân
bố hợp lý hơn lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Vốn ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông
nghiệp, nông thôn đã thực sự tác động lớn đến việc hình thành và phát triển của
công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn.
Việc hình thành và phát triển các sơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông,
lâm, hải sản đã thu hút được nhiều lao động trong nông nghiệp có việc làm ở các
khâu sản xuất nguyên liệu, gia công, chế biến, tiêu thụ sản phẩm và các hoạt động
dịch vụ khác.
Dưới tác động của tín dụng ngân hàng vào hoạt động của mọi thành phần
kinh tế thì nền sản xuất hàng hoá ngày một phát triển. Và khi đó nảy sinh sự phân
công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Một bộ phận các hộ nông dân tách
ra khỏi sản xuất nông nghiệp để làm những ngành nghề mới, các ngành tiểu, thủ
công nghiệp truyền thống. Từ đó các làng nghề cũng được phục hồi và phát triển.
Quá trình này làm cho sự phân công lao động trong nông nghiệp được hợp lý
hơn, hạn chế được nhiều tình trạng lao động trong nông nghiệp tràn về thành thị.
Thứ năm: Cho vay tín dụng góp phần có hiệu quả vào việc tận dụng và khai
thác mọi tiềm năng về đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên.
Tiềm năng đất đai của nước ta có khoảng 11,157 triệu ha. Trong đó có 8 triệu
ha trồng cây hàng năm và 2,3 triệu ha trông cây lâu năm. Hiện nay mới chỉ sử dụng
khoảng 65% quỹ đất nêu trên. Diện tích đất còn khả năng khai thác đưa vào sản
xuất nông nghiệp gần 4 triệu ha, trong đó khoảng 3 triệu ha đất trống, đồi núi trọc, 1
triệu ha diện tích đất bằng chủ yếu là đất hoang hoá ven sông, ven biển.
Nước ta với khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới có lượng ánh sáng và nguồn nước
dồi dào cho phép gieo trồng nhiều vụ trong năm và sản xuất nhiều sản phẩm nông
nghiệp phong phú, đa dạng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu,
nhưng mặt khác, năng suất trong sản xuất nông nghiệp nước ta còn thấp, hệ số quay
vòng ruộng đất thấp, trình độ sản xuất thấp, khả năng kinh doanh còn kém nhiều
nước trong khu vực, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, nông thôn còn nhiều...
Từ thực trạng đó, nếu được nhà nước quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt là
chính sách tín dụng hợp lý chắc chắn sẽ tận dụng, khai thác có hiệu quả các tiềm
năng sẵn có trên.
Thông qua việc cho vay tín dụn NH cho nông nghiệp, nông thôn: Các làng
nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp phát triển đã thu hút được tiềm năng về lao
động nhàn rỗi, tận dụng được những sản phẩm thiên nhiên tạo ra những mặt hàng có
giá trị hàng hoá; Cơ sở hạ tầng phát triển góp phần khai thác mọi tiềm năng đất đai,
nhiều diện tích đất trồng từ chỗ trồng một vụ đã chuyển sang trồng được 2 đến 3 vụ,
hàng chục vạn ha đất bị nhiễm phèn nặng đã được rửa chua; Các thành phần kinh tế
đều được vốn ngân hàng đầu tư đã ngày một lớn mạnh. Quá trình tích tụ ruộng đất
trong nông dân để hình thành những nông trại có quy mô thích hợp đảm bảo cho
việc sản xuất nông sản hàng hoá theo hướng chuyên môn hoá đang diễn ra mang lại
hiệu quả cao trong kinh doanh đã góp phần thúc đẩy khả năng áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp.
Thứ sáu: Cho vay tín dụng ngân hàng làm động lực để nông dân không
ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, tăng cường hạch toán kinh tế, tiếp cận
nhanh với cơ chế thị trường đưa đến một kết quả tất yếu là nâng cao thu nhập và
sức mua, từ đó tác động mạnh đến tâm lý tiết kiệm tiêu dùng, mạnh dạn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Với cơ chế cho vay ngân hàng theo nguyên tắc cho vay phải đảm bảo thu hồi
được cả gốc và lãi, đúng hạn, đồng thời vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
có hiệu quả, đã buộc các hộ nông dân phải hạch toán kinh tế, tiết kiệm chi phí, thời
gian lao động để sản xuất kinh doanh có lãi cũng từ đó đã góp phần đưa kinh tế
nông nghiệp, nông thôn tiếp cận nhanh dần với sự vận hành của kinh tế hàng hoá
theo cơ chế thị trường.
Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần thì hộ sản xuất đã là đơn
vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh doanh lời ăn, lỗ chịu. Điều đó buộc từng hộ sản xuất
muốn tồn tại và phát triển thì phải gạt bỏ đi những thói quen tư duy kinh tế cũ mang
tính tự cấp, tự túc, mau chóng đáp ứng những yêu cầu mới của quá trình phát triển
một nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường. Một mặt, vốn đầu tư ngân hàng
buộc người nông dân vay vốn phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mặt khác với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, công nghệ đang là điều kiện tốt để
người nông dân thực hiện được yêu cầu sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhưng rõ
ràng muốn tiếp thu và duy trì những thành tựu của khoa học - kỹ thuật công nghệ
vào sản xuất thì đòi hỏi ở người nông dân phải không ngừng nâng cao trình độ mọi
mặt của mình.
I.3.5 - Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm cho vay tín dụng của các nước cho
đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Đầu tư và phát triển kinh tế có mối quan hệ nhân quả với nhau, một nền kinh
tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức trung bình thì phải giữ được tốc
độ tăng trưởng vốn đầu tư thoả đáng. Trong nông nghiệp, nông thôn cũng như vậy.
Thực tế của nhiều nước trên thế giới đã chứng minh được điều này và một trong
những nguồn vốn quan trọng để thực hiện chiến lược đầu tư thích đáng cho sự phát
triển nông nghiệp, nông thôn là tín dụng ngân hàng.
Qua khảo cứu tình hình đầu tư vốn tại NH cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn của một số nước trong khu vực như: THAILAND, INDONSEA,
PHILIPPINES, Ta rút ra được môt số kinh nghiệm có thể phù hợp với thực tiễn
nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Một là: Tất cả các nước đều rất quan tâm đến vai trò, vị trí của nông nghiệp,
nông thôn vì thế vấn đề đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn luôn
được coi trọng.
Sự coi trọng đó thể hiện ở việc thành lập các ngân hàng thương mại quốc
doanh chuyên phục vụ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, được nhà nước cấp
100% vốn tự có, được hưởng những chế độ ưu đãi đặc biệt mang tính hỗ trợ tạo
điều kiện về tài chính. Chính phủ các nước còn yêu cầu các ngân hàng thương mại
khác phải có trách nhiệm với vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn bằng cách
bắt buộc phải gửi một tỷ lệ vốn huy động được vào ngân hàng để tạo nguồn vốn cho
vay nông nghiệp, nông thôn.
Hai là: Trong cho vay nông nghiệp, nông thôn, các ngân hàng sử dụng linh
hoạt các hình thức chuyển tải vốn: Vừa trực tiếp, vừa gián tiếp.
Ba là: Phong phú và đa dạng về đối tượng cho vay tạo điều kiện cho sự tập
trung tối đa về thời gian, lao động để phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
Bốn là: Thực hiện ưu đãi lãi suất trong cho vay nông nghiệp, nông thôn,
nhằm khắc phục và trợ giúp nông dân trong sản xuất kinh doanh phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY TÍN DỤNG TẠI
NHNNO&PTNT NHẰM ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN YÊN BÁI
II..1- KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN TỈNH YÊN BÁI.
II.1.1 - Đặc điểm tự nhiên - xã hội tỉnh Yên Bái.
II.1.1.1 - Khái quát về vị trí địa lý và nguồn tài nguyên của tỉnh:
Yên Bái là một tỉnh miền núi, có diện tích tự nhiên là: 6.883km2. Dân số toàn
tỉnh gần 70 vạn người. Về tổ chức hành chính bao gồm 9 huyện, thị xã, trong đó có
2 thị xã, 2 huyện vùng cao, 3 huyện có nhiều xã vùng cao và 2 huyện vùng thấp. Có
159 xã, 10 thị trấn và 11 phường.
* Vị trí địa lý:
Tỉnh Yên Bái nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền tây bắc và trung du bắc
bộ. Có một địa hình được cấu tạo khá đa dạng và phức tạp: Đồng bằng phù sa ven
sông hồng, đồng bằng phù sa cổ lượn sóng, đồi thấp đỉnh tròn, đồi bát úp dốc thoải,
bồn địa, thung lũng, núi cao rãnh sâu, cao nguyên đá vôi dốc đứng. Độ dốc lớn,
trung bình 40 - 50 độ, lại chia cắt mạnh, cao dần từ đông sang tây và từ nam lên
bắc.
Địa hình Yên Bái được chia ra thành 2 vùng rõ rệt: Vùng thấp và vùng cao.
* Các nguồn lực chủ yếu.
- Tài nguyên khí hậu: Là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều,
nền nhiệt cao, nhiệt độ trung bình trong năm từ 18 đến 24 độ c, cao nhất 37 độ - 39
độ c, thấp nhất 2 - 4 độ c. Lượng mưa trung bình từ 1.800 - 2.000mm/ năm, tập
trung mưa nhiều vào 4 tháng từ tháng 6 đến tháng 9, chiếm đến 80% lượng mưa cả
năm.
Với lượng bức xạ phong phú, nền nhiệt lượng cao là một thuận lợi cho việc
tạo ra sinh khối lớn giúp cho cây trồng phát triển, cây ăn quả và cây lương thực
ngắn ngày quay vòng nhanh; Khí hậu mát ở vùng cao cho phép trồng và phát triển
các loại cây dược liệu quý, nhất là cây quế. Cũng như phát triển ngành chăn nuôi
gia súc có sừng như bò, dê, hươu...
- Tài nguyên sông ngòi: Với 2 con sống lớn chảy qua Yên Bái là sông
Hồng và sông Chảy và khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng với một hệ thống hồ,
đầm đã tạo cho Yên Bái có một chế độ thuỷ văn phong phú.
Các loại nước: Sông ngòi, suối hồ, nước mưa của Yên Bái thuộc loại nước
sạch đáp ứng chỉ tiêu đối với nước sinh hoạt tự nhiên.
- Tài nguyên rừng: Đến năm 2000 rừng Yên Bái có 274.418 ha. Trong đó có
180.430 ha rừng tự nhiên chiếm 65,7% tổng diện tích đất có rừng, cho trữ lượng 10
triệu m3; 93.988 ha rừng trồng cho trữ lượng 1,8 triệu m3 và 61 triệu cây tre, nứa,
vầu.
Yên Bái có các loại rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. Với
nhiều chủng loại cây cho gỗ quý, nhiều loại cây thuốc quý, nhiều loại động vật hiếm
và nhiều loại lâm đặc sản khác.
Xen kẽ các khu rừng lớn là các mặt bằng với nhiều bãi cỏ rộng có khả năng
phát triển chăn nuôi đại gia súc hoặc mở mang du lịch sinh thái, dịch vụ.
- Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản ở Yên Bái rất phong phú đa dạng:
Kim loại quý hiếm có mỏ vàng, mỏ bạc, các mỏ đá quý. Kim loại màu có đồng, chì,
kẽm, mỏ sắt với trữ lượng hàng triệu tấn.
Về nhiên liệu có mỏ than đá, than mỡ và nhiều mỏ than bùn. Khoáng sản phi
kim loại có Pirit, cao lanh, Graphít, đá phen gát, đá thạch anh.
Vật liệu xây dựng có thể khai thác với sản lượng lớn đá vôi, cát sỏi. Có thể
nói tài nguyên khoáng sản với sự phong phú đa dạng của nó được phân bố ở nhiều
nơi trong tỉnh là một thế mạnh của Yên Bái.
- Tài nguyên đất:
Toàn tỉnh có 67.278 ha đất nông nghiệp, chiếm 9,77% diện tích đất tự nhiên;
Đất lâm nghiệp 274.418 ha, đất chưa sử dụng là 324.488 ha; 18.804 ha mặt nước có
khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
- Nguồn nhân lực: Với dân số trên 70 vạn người, trong đó hơn 330 ngàn
người ở độ tuổi lao động, lại tập trung phần lớn ở nông thôn (hơn 75%) là nguồn
lực lớn đáp ứng nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế của tỉnh.
II.1.1.2 - Khái quát tình hình phát triển kinh tế tỉnh Yên Bái.
* Tăng trưởng kinh tế:
Yên Bái là miền núi, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù là tỉnh
cửa ngõ phía tây của miền tây bắc.Nhưng cùng với sự phấn đấu chung cảu toàn tỉnh
Yên Bái cũng có những khởi sắc trong những năm qua đặc biệt là việc thị xã của
tỉnh được nhà nước công nhận lên thành phố vào đầu năm 2002
Từ năm 1996-2000 nền kinh tế trong tỉnh tăng trưởng khá, đúng định hướng
và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8,3%/năm. Trong đó nông, lâm, ngư nghiệp
tăng 5,35%; công nghiệp - xây dựng tăng 9,8%; dịch vụ tăng 12,93%. Thu nhập
bình quân đầu người đạt 2,42 triệu đồng/ năm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy chưa đạt mục tiêu của tỉnh đề ra là 10% năm,
nhưng cao hơn 5 năm trước 0,87% và cao hơn mức bình quân chung của cả nước
1,67%.
Cơ cấu kinh tế về nông nghiệp năm 2000 đạt 42,8% trong tổng GDP toàn tỉnh
so với hơn 50% trong những năm qua, thể hiên sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
BIỂU 1: MỘT SỐ CHỈ TIÊU TỔNG HỢP VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH YÊN
BÁI.
CHỈ TIÊU ĐƠN THỰC HIỆN QUA CÁC NĂM So sánh%
VỊ 1996 1997 1998 1999 2000 20/
96
20/99
1- Dân số trung
bình
Người 638.87
9
648.79
2
658.548 670.256 682.17
1
106,7
7
101,77
2 - Tổng SP trong
tỉnh
Tr.Đ 895.11
6
991.16
5
1.092.2
83
1.161.82
8
1.235.3
91
138 106,33
(GDP theo giá CĐ
1994 )
- Nông, Lâm, thuỷ
sản
- 463.15
9
488.19
0
515.498 545.176 572.32
5
123,5
6
104,97
- Công nghiệp xây
dựng
-
235.89
7
259.10
7
295.739 306.201 327.27
4
138,3 106,88
- Dịch vụ - 196.06
0
243.86
8
281.046 310.451 335.79
2
171,2
7
108,16
3 - GDP. BQ đầu
người
1.401 1.527 1.659 1.739 1.811 129,2
6
104,5
( giá 1994) 1,000
đ
4 - Tổng sản lượng Tấn 171.00
0
170.52
6
174.002 181.398 190.05
9,6
111,1
4
104,77
lương thực quy thóc
LT.B.Q/người/năm Kg/N
g
222 268 263 270 279 125,6
7
103,33
5 - Tổng kim ngạch
XK
1.000
USD
7.293 8.944 12.002 11.496 13.757 188,6
3
119,66
Trong đó: X.K trực
tiếp
3.078 2.182 4.431 5.143 4.475 145,3
8
87
6 - Tổng thu ngân
sách
Tr.Đ 81.666 95.317 120.788 103.428 105.96 129,7
4
102,44
trên địa bàn
7 - Tổng chi ngân
sách
Tr.Đ 235.28
9
289.89
3
354.901 371.326 429.91
5
182,7
1
115,77
8 - Tăng trưởng
kinh tế
% 10,73 10,2 6,37 6,33 - 99,37
( Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê tỉnh Yên Bái )
Giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng lên hàng năm. Bình quân
thời kỳ 1996 - 2000 là 7,06%.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng bình quân tăng 9,9%.
Giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân là 9,94%.
Thu ngân sách tăng lên hàng năm. Tuy nhiên, Yên Bái vẫn là tỉnh phải dùng
ngân sách trung ương để bù đắp chi. Năm 1999 tỷ lệ thu ngân sách trên địa bàn là
27,46% so với tổng thu. Năm 2000 là 24,27%.
Sản lượng lương thực quy thóc hàng năm tăng bình quân 19.833 tấn., bình
quân đầu người là 279 kg.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực giảm tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
BIỂU SỐ 2 : CƠ CẤU KINH TẾ THEO NGÀNH CỦA YÊN BÁI ( Theo GDP )
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số 100% 100% 100% 100% 100%
1 - Nông, lâm, thuỷ sản 52,4 51,34 50,05 48,72 48,00
2 - Công nghiệp - xây
dựng
15,5 17,99 18,85 19,42 19,0
3 - Dịch vụ 32,1 30,67 31,1 31,86 33,00
( Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê tỉnh Yên Bái )
II.1.1.3 - Những thuận lợi, khó khăn đối với phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Yên Bái.
* Những thuận lợi:
- Yên Bái có một vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ để tiến sâu vào miền Tây
Bắc với một mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ, đường thuỷ thuận tiện, có
khả năng phát triển đường hàng không trong tương lai. Tạo nên những tiềm năng
cho việc phát triển sản xuất hàng hoá, mở rộng giao lưu, thông thương kinh tế với
bên ngoài.
- Tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cho phép mở rộng sản xuất
phát triển ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và tích
luỹ.
- Có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10 năm gần đây là 7,8% năm cao
hơn mức bình quân chung của cả nước. Tạo tiền đề để Yên Bái thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
* Những hạn chế và thách thức:
- Tài nguyên đa dạng và phong phú nhưng tận dụng và khai thác chúng còn
ở mức thấp.
- Điểm xuất phát của nền kinh tế trong tỉnh thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh
tế thấp.
- Trình độ dân trí chưa theo kịp với yêu cầu của phát triển kinh tế hàng hoá.
Tư tưởng bao cấp, trông chờ ỷ lại vẫn còn nặng nề trong một bộ phận dân cư và cán
bộ.
- Cơ sở hạ tầng thấp kém, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường không
mạnh, chưa hấp dẫn đối với sự đầu tư vốn của nước ngoài.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhiều năm qua chưa đạt được so với mục tiêu
của tỉnh đề ra, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương. GDP bình
quân đầu người hàng năm còn ở mức thấp so với mức bình quân chung của cả nước.
- Cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực sản xuất còn thấp kém do tổng mức đầu tư mới
đạt khoảng 60% yêu cầu, đầu tư còn dàn trải, thời gian đầu tư kéo dài, chất lượng
một số công trình thấp, trang thiết bị công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, nông nghiệp vẫn mang tính độc
canh, thuần nông. Công nghiệp phát triển chậm nhất là ở khu vực nông thôn.
Thương nghiệp nhà nước còn nhiều lúng túng, chậm thích ứng với cơ chế thị
trường. Xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh, du lịch kém
phát triển và chưa được đầu tư đúng mức.
II.1.3 - Tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Yên Bái:
II.1.3.1 - Những nét đặc trưng cơ bản của nông nghiệp, nông thôn Yên
Bái.
- Điều kiện tự nhiên về khí hậu, đất đai cho phép Yên Bái phát triển đa dạng
các loại cây trồng, vật nuôi, hình thành được các tập đoàn cây, con với quy mô lớn,
tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá có giá trị cao, có khả năng xuất khẩu lớn.
- Trình độ sản xuất nông nghiệp còn non kém, nhiều tập tục sản xuất lạc hậu
của đồng bào các dân tộc chưa được xoá bỏ, trình độ dân trí thấp, hạn chế đến khả
năng tự tiếp cận với cơ chế thị trường.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội nông nghiệp,nông thôn chưa phát triển tương
xứng với yêu cầu của sự phát triển.
- Thu nhập của nông dân thấp.
II.1.3.2 Tình hình phát triển NN-NT tỉnh Yên Bái giai doạn trước năm
1995.
Từ năm 1995 trở về trước kinh tế của tỉnh thuần nông nghiệp do đa số người
dân thu nhập từ nông nghiệp, GDP của ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất ,lớn
trên 60% tổng GDP toàn tỉnh, người dân chưa tìm được hướng đi lên cuộc sống rất
khó khăn, cùng với đó các chính sách kinh tế phát triển miền núi của chính phủ
chưa đạt hiệu quả cao, diện tích đồi rừng còn bị bỏ hoang phí nhiều gây lãng phí tài
nguyên của tỉnh, ngoài ra còn xảy ra tình trạng chặt phá đồi rừng do sự buông lỏng
quản lý của các cấp chính quyền trong thời gian này, nên thu nhập bình quân của
toàn tỉnh chỉ đạt dưới 1 triệu đồng một năm, tỉnh trong giai đoạn này thu ngân sách
không những không đủ bù chi mà yên bái vẫn là một tỉnh phải nhận ngân sách của
nhà nước trong chi tiêu và xây dựng cơ bản của địa phương.Được thể hiện:
+Ngay trong nội bộ ngành nông nghiệp:
-tỷ lệ của nông nghiệp trung bình là 79,64%./ Tổng giá trị ngành nông
nghiệp.
- tỷ lệ của lâm nghiệp trung bình là 20,02%/Tổng giá trị ngành nông
nghiệp.
-tỷ lệ của thuỷ sản trung bình là 0,34%/ Tổng giá ngành nông nghiệp.
+ Sản xuất lúa nông nghiệp trong tỉnh trước năm 1995 chỉ là sản xuất một vụ
ở khu vực vùng núi cao.
+ Cơ cấu kinh tế theo ngành thì nông nghiệp chiếm trung bình trên 60%/
Tổng giá trị theo GDP.
II.1.3.3 - Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển NN_NT Yên Bái
Nông nghiệp - nông thôn Yên Bái vẫn chưa phát triển tương xứng với những
tiềm năng về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và con người của tỉnh nên
nông nghiệp - nông thôn Yên Bái còn có những hạn chế sau:
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh nhất là về đất đai, lao động.
Năm 1995 diện tích đất đồi núi chưa sử dụng còn 299 ngàn ha, đất bằng chưa sử
dụng là 1.600 ha. Lao động nông thôn dư thừa vào những thời điểm không phải là
mùa vụ. Thuỷ sản chỉ mới dừng ở mức đáp ứng cho nhu cầu của nhân dân trong
tỉnh, còn nhiều hạn chế chưa có giải pháp khắc phục để phát triển hơn.
- Các DNNN sản xuất kinh doanh ngành nông nghiệp trong tỉnh vừa ít về số
lượng, nhỏ về quy mô vừa lạc hậu về máy móc thiết bị; Loại hình hợp tác xã nông
nghiệp hoạt động chỉ cầm chừng, ngoài ra một số còn kém hiệu quả trong tổng số 52
hợp tác xã nông nghiệp hiện có; Kinh tế hộ không đủ sức vươn ra tự tìm kiếm thị
trường cho nên các loại sản phẩm từ nông nghiệp sản xuất ra không được tiêu thụ
kịp thời, sản phẩm xuất thẳng không qua chế biến nên giá trị kinh tế thấp. Mặt khác,
trình độ sản xuất trong nông nghiệp chủ yếu là thủ công, công nghệ sinh học và kỹ
thuật tiên tiến ứng dụng vào sản xuất, chế biến còn chậm, chất lượng sản phẩm
trong nông nghiệp chưa cao, khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp trên thị
trường còn thấp, thị trường đầu vào có nhiều biến động nên chi phí cao, hiệu quả
thấp... dẫn đến lợi nhuận trong nông nghiệp thấp. Điều đó làm cho người nông dân
chưa yên tâm, không muốn đầu tư vào để tăng quy mô sản xuất tạo ra nhiều sản
phẩm.
- Việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm nghiệp chưa
mạnh, chưa toàn diện, một phần do vốn đầu tư thiếu và vì thế mới chỉ tập trung vào
một số lĩnh vực như sản xuất cây lương thực, cây công nghiệp.
- Các ngành phi nông nghiệp hiện nay ở Yên Bái còn hạn chế về số lượng và
quy mô, thị trường tiêu thụ không ổn định, khả năng cạnh tranh kém
- Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn thấp kém, chưa đáp ứng được
yêu cầu sản xuất hàng hoá. Thu nhập của nông dân còn thấp, đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân còn khó khăn, tỷ lệ đói nghèo đang là 17%. Đồng bào dân tộc
thiểu số ở vùng cao vẫn chưa từ bỏ hẳn việc du canh, du cư, nạn đói “giáp hạt” vẫn
còn xẩy ra.
- Với 34 dân tộc anh em sinh sống, trình độ dân trí chưa cao ảnh hưởng rất
lớn đến việc đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp.
Vì vậy bên cạnh những chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn của
nhà nước Yên Bái cần phải một lượng vốn rất lớn cho phát triển kinh tế mà vốn
ngân sách nhà nước chưa đáp ứng được. Do vậy kênh rót vốn qua ngân hàng đang
thực sự cần thiết cho phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái.
II.2- TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG NNO&PTNT YÊN BÁI.
Ngân hàng NNO&PTNT Yên Bái được thành lập theo Quyết Định số133/
QĐ -NH ngày 30 tháng 8 năm 1991 của Thống Đốc NHNN Việt Nam về việc:” Giải
thể NHNNO&PTNT Hoàng Liên Sơn và thành lập NHPTNT Tỉnh Yên Bái, nay là
NHNNO&PTNT Tỉnh Yên Bái”.
Là một NHTM quốc doanh của nhà nước hoạt động trên địa bàn tỉnh Yên
Bái, với nghiệp vụ kinh doanh như bao NH khác trong hệ thống NH, NH còn thực
hiện mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước giao cho là phát triển kinh tế tỉnh
Yên Bái.
Kinh tế tỉnh Yên Bái có điểm xuất phát thấp, chủ yếu là dựa vào nông
nghiệp, nhiệm vụ của NH là phải kích thích sự phát triển ngành này trên cơ sở đó
là” đòn bẩy” để thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH không chỉ là chỉ tiêu lợi nhuận, mà
còn là chỉ tiêu” hiệu quả đồng vốn kinh doanh của NH với kinh tế của địa phương”.
II.2.1- Mô hình tổ chức của NH NNO&PTNT Tỉnh Yên Bái.
NH NNO&PTNT Yên Bái là một chi nhánh của NHNNO &PTNT việt Nam,
có địa bàn trải rộng với 180 xã phường, thị trấn, với chiều dài trên 260 km, chiều
rộng 120 km.
NH có hội sở chính đặt tại trung tâm của tỉnh, có 9 chi nhánh NH huyện, thị
xã, có 8 NH cấp 4 trực thuộc hội sở và huyện thị, 1 trường nghiệp vụ NH khu vực
phía bắc đặt tại Hội sở chính của NH.
Tổng số cán bộ hiện nay của NH là 420 người.
*> Cơ cấu tổ chức của NH:
NH NNO&PTNT Yên Bái có một số chức năng, nhiệm vụ chính như sau: “
Trích QĐ của HĐQT về qui chế tổ chức hoạt động số 169/ QĐ ngày 7/9/2000 đối
với chi nhánh loại I”.
+ Trực tiếp hoạt động kinh doanh tiền tệ- tín dụng và các dịch vụ trên địa
bàn theo phân cấp của NHNNO&PTNT Việt Nam.
+ Tổ chức điều hành kinh doanh và kiểm tra kiểm toán nội bộ theo uỷ
quyền của tổng giám đốc NHNNO&PTNT Việt Nam.
+Thực hiện các chức năng khác được giao của lệnh của Tổng giám đốc
NHNNO&PTNT Việt Nam.
*> Những hoạt động chủ yếu của các chi nhánh NH trên địa bàn tỉnh.
Yên Bái có 2 Chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh là Ngân hàng đầu
tư và phát triển tỉnh và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Năm 1995,
Chi nhánh ngân hàng phục vụ người nghèo tỉnh được thành lập và đi vào hoạt động.
Nguồn vốn chủ yếu của các Chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh
tỉnh Yên Bái là huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh
tế - xã hội dưới tác động thực hiện của nhiều biện pháp có tính truyền thống và tích
cực, phù hợp với yêu cầu của người có tiền tạm thời nhàn rỗi, thông qua các hình
thức huy động khác nhau, như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, kỳ phiếu,
trái phiếu... cho nên nguồn vốn huy động tại chỗ đã không ngừng tăng lên.Hiện nay
tại địa bàn còn có tiét kiệm bưu điện
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng
TCCB
Đào tạo
Phòng
Hành
chính
Pháp
chế
Phòng
kế toán
ngân
quĩ
Phòng
kinh
doanh
Phòng
kinh tế
kế
hoạch
Phòng
điện
toán
Phòng
kiểm
tra
kiểm
toán nội
bộ
Nguồn vốn huy động tăng trưởng qua các năm đã giúp các Ngân hàng có
được thế chủ động hơn trong thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình, đồng thời
qua đó giải quyết được một phần nào khó khăn về vốn của Tỉnh, đáp ứng được nhu
cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
Các Ngân hàng thương mại trong tỉnh đã tích cực mở rộng cho vay, bám sát
vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực kinh tế của Tỉnh, thúc đẩy quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn dưới nhiều phương thức cho vay. Bình quân
tốc độ tăng dư nợ thời kỳ này đạt 7,94%. Cơ cấu dư nợ trung, dài hạn được nâng
lên. Thực hiện cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế, chủ yếu là cho các đối
tượng phục vụ nông nghiệp và liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Trong dư nợ
ngoài quốc doanh thì dư nợ hộ nông dân có tỷ trọng cao nhất. Với kinh tế nhà nước,
các Ngân hàng chủ yếu cấp vốn đối với các doanh nghiệp được củng cố, xắp xếp
lại, làm ăn có hiệu quả, là những doanh nghiệp thể hiện vai trò mũi nhọn của tỉnh.
Thực hiện yêu cầu đổi mới trong hoạt động ngân hàng, công tác huy động &
đầu tư vốn đã đạt được những kết quả : Huy động vốn tăng, mở rộng đầu tư có hiệu
quả (tỷ lệ nợ quá hạn được giảm thấp), nền kinh tế của tỉnh mà đặc biệt trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn đã có nhiều khởi sắc.
II.2.2- Thực trạng hoạt động huy động và cho vay tín dụng của NHNo Yên Bái
đối với quá trình đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Là chi nhánh duy nhất trên địa bàn có tổ chức rộng khắp tới các vùng nông
thôn rộng lớn, NHNo tỉnh Yên Bái đã không ngừng đổi mới hoạt động huy động và
cho vay theo hướng thị trường, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ ngày càng phù
hợp hơn với sự chuyển đổi của nền kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh
trên cơ sở thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đặc biệt là sự tác động tích cực đến phát
triển nông thôn, nơi đang có hơn 110 ngàn hộ nông dân với trên 80% dân số của
tỉnh đang sinh sống.
Thực trạng hoạt động huy động và cho vay tín dụng của NHNo tỉnh Yên Bái
đối với quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh được thể hiện cụ thể
trên các mặt sau:
II.2.2.1 - Hoạt động huy động nguồn vốn:
Một tất yếu của bất cứ một loại hình kinh doanh nào muốn đứng vững và
phát triển được, đều cần phải có vốn. Vốn có tính quyết định trước hết cho mọi hoạt
động kinh doanh- nhất là kinh doanh tiền tệ. Như các ngân hàng khác, NHNo Yên
Bái luôn chủ động, tích cực thực hiện hoạt động huy động vốn để có được khối
lượng vốn lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của sự nghiệp phát triển
kinh tế tỉnh Yên Bái.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của Ngân hàng NNo & PTNT nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái.pdf