Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam: Báo cáo tốt nghiệp
Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại
Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam
Mục lục
Lời nói đầu---------------------------------------------------------------------------------------4
Chương I: Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính--------------------6
1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản---------------------------6
1.2. Phương pháp giao dịch cho thuê tài sản------------------------------------------------10
1.2.1.Phân loại các phương thức cho thuê--------------------------------------------------10
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê------------------------------------------------------------14
1.3. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho thuê------------------------------------------------20
1.3.1.Về khía cạnh kinh tế -------------------------------------------------------------------20
1.3.2.Về khía cạnh pháp luật-------------------...
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại
Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam
Mục lục
Lời nói đầu---------------------------------------------------------------------------------------4
Chương I: Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính--------------------6
1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản---------------------------6
1.2. Phương pháp giao dịch cho thuê tài sản------------------------------------------------10
1.2.1.Phân loại các phương thức cho thuê--------------------------------------------------10
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê------------------------------------------------------------14
1.3. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho thuê------------------------------------------------20
1.3.1.Về khía cạnh kinh tế -------------------------------------------------------------------20
1.3.2.Về khía cạnh pháp luật------------------------------------------------------------------20
1.4. Những ưu thế và bất lợi của nghiệp vụ cho thuê --------------------------------------22
1.4.1.Đối với bên đi thuê ----------------------------------------------------------------------22
1.4.2.Đối với bên cho thuê- ------------------------------------------------------------------27
1.4.3.Đối với nền kinh tế ----------------------------------------------------------------------28
1.5.Sự phát triển của các công ty CTTC trong nền kinh tế thị trường -------------------29
1.6. Sự phát triển hoạt động cho thuê ở Việt Nam ----------------------------------------31
Chương II: Thực tế hoạt động cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam -------------------------------39
2.1 Thực trạng môi trường kinh doanh của các công ty CTTC thành viên của các Ngân hàng
thương mại--------------------------------------------------------------------------------37
2.1.1. Nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị ---------------------------------------------------37
2.1.2.Vấn đề lãi suất --------------------------------------------------------------------------37
2.1.3.Tính cạnh tranh -------------------------------------------------------------------------39
2.1.4.Khách hàng khó tính -------------------------------------------------------------------41
2.2. Công ty cho thuê tài chính I – NHNNo&PTNT Việt Nam ------------------------42
2.3. Quá trình thực hiện một giao dịch cho thuê tại công ty CTTC I ------------------47
2.3.1.Tiếp nhận thông tin---------------------------------------------------------------------47
2.3.2.Công tác thẩm định hồ sơ xin thuê---------------------------------------------------48
2.3.3.Phê duyệt và thông báo-----------------------------------------------------------------48
2.3.4. Đàm phán, ký kết và đăng ký hợp đồng cho thuê-----------------------------------48
2.3.5.Giao nhận và quản lý tài sản thuê-----------------------------------------------------48
2.3.6. Kiểm tra sau khi cho thuê--------------------------------------------------------------49
2.4. Thực tế hoạt động cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I – Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn Việt Nam---------------------------------------------------49
2.5. Đánh giá tình hình cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I – Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển Nông thôn Việt Nam---------------------------------------------------56
2.5.1. Những kết quả đạt được----------------------------------------------------------------56
2.5.2. Những hạn chế trong hoạt động cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I-------59
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho
thuê ở Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
Việt Nam--------------------------------------------------------------------------66
3.1. Định hướng phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam---------------------------------------------------------------------------66
3.2. Khả năng phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I---------68
3.2.1. Thị trường cho thuê của Công ty cho thuê tài chính I------------------------------68
3.2.2. Các loại tài sản dùng để cho thuê-----------------------------------------------------68
3.2.3. Thị trường cho thuê---------------------------------------------------------------------69
3.2.4. Khả năng tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ----------------------69
3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê ở Công ty
cho thuê tài chính I -------------------------------------------------------------------------71
3.3.1. Mở rộng mô hình tổ chức--------------------------------------------------------------71
3.3.2. Xây dựng chiến lược khách hàng-----------------------------------------------------72
3.3.3. Thiết lập chủng loại tài sản cho thuê thích hợp -------------------------------------73
3.3.4. Mở rộng địa bàn cho thuê--------------------------------------------------------------74
3.3.5. Đa dạng hoá nghiệp vụ cho thuê------------------------------------------------------75
3.3.6. Xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ cho thuê-----------------------------------------77
3.3.7. Xây dựng chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực --------------------------80
3.3.8. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho công ty------------------------------------------81
Kết luận-----------------------------------------------------------------------------------------82
Tài liệu tham khảo ---------------------------------------------------------------------------83
Lời nói đầu
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị cũng như về kinh tế. Đặc
biệt trong những năm 90, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ
tăng trưởng hàng năm cao duy trì ở mức 8%, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế dưới 10%, đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng
4/2001 có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kì mới phát triển đất nước trong những thập kỷ
đầu của thế kỷ XXI.
Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là: đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện
đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005) là nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm là 7,5%. Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 1995, tăng tỷ trọng nông
lâm- ngư nghiệp là 20- 21%, công nghiệp và xây dựng 38- 39%, các ngành dịch vụ 41- 42%.
Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân.
Như vậy, để thực hiện được những mục tiêu đề ra, nhu cầu về vốn của toàn bộ nền kinh
tế là vô cùng lớn, ước tính vốn trung bình mỗi năm cho kế hoạch 5 năm tới cần khoảng 30-
35 tỷ USD. Do đó, việc tìm ra giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển
trở thành một nhiệm vụ quan trọng hiện nay không chỉ của Nhà nước, của ngành ngân hàng
mà còn là của toàn dân. Bên cạnh các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam
đang sử dụng như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... thì hiện nay chúng ta đang áp dụng
loại hình tín dụng mới, đó là cho thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1998, là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong việc đa dạng hoá các loại hình tín
dụng, thúc đẩy hoạt động của thị trường cho thuê nói riêng và thị trường vốn nói chung tại
Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước
Do loại hình cho thuê còn mới mẻ nên việc nghiên cứu nội dung hoạt động, môi trường
kinh doanh, cơ cấu tổ chức... và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động này tại Công
ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là hết sức
cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian thực tập tại Công ty em đã
chọn đề tài: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho
thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Tiếp cận hoạt động cho thuê tại các Công ty Cho thuê Tài chính.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I- Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty
cho thuê tài chính I.
Chương I:
Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính
1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản.
Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử khá lâu đời và diễn ra trong
hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều lĩnh vực trên thế giới. Theo các thư
tịch cổ, các giao dịch cho thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước Công nguyên tại thành
phố Sumerian. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do.
Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa,
đất ruộng...
Vào khoảng năm 1700 tr.C.N, vua Babilon là Hamnurabi đã ban hành nhiều văn bản
quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có đưa ra những quy định về hoạt động cho
thuê tài sản.
Trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp- La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất
hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có
thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay đã gặp phải đã được giải
quyết từ nhiều thế kỉ trước.
Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền
thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương
thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, đã không
có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.
Đầu thế kỉ XIX, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng
loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỉ XX, giao dịch thuê mua đã có
những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kì. Nguyên nhân của sự phát triển này là do
sự hoạt động thuê mua đã có những thay đổi về tính chất của giao dịch.
Nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần
(Net lease) hay thuê tài chính (Finance lease), thuê tư bản (Capital lease) đã được sáng tạo ra
trước tiên ở Hoa Kì. Đó là sự ra đời của công ty tư nhân United States Leasing Corporation.
Sau đó nghiệp vụ leasing phát triển sang châu Âu và đã được ghi vào luật thuê mua
của Pháp (năm 1960) với tên gọi “credit bail”. Cũng năm 1960 hợp đồng thuê mua đầu tiên
đã được thảo ra ở Anh có trị giá 18000USD
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài sản, các hoạt động giao dịch thuê mua đã có
những bước phát triển hết sức mạnh mẽ cả về chủng loại tài sản, thiết bị và khối lượng giao
dịch. Trong giao dịch thuê mua ngày nay, các công ty Leasing có thể cho thuê cả những nhà
máy hoàn chỉnh theo phương thức chìa khoá trao tay. Đồng thời về mặt chủng loại hoạt động
cho thuê bao gồm từ thiết bị, dụng cụ văn phòng cho tới những toà nhà lớn, thậm chí cả
những tổ hợp năng lượng nguyên tử. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, tổng số vốn thiết bị cho thuê
năm 1987 ước tính lên tới 107,9 tỷ $ và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay, ngành
thuê mua thiết bị Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch
mua bán thiết bị hàng năm. Còn ở Anh, theo một công bố mới đây của hiệp hội tín dụng thuê
mua thiết bị, thuê vận hành chiếm khoảng 20% vốn tài trợ cho các hoạt động thuê mua và
năm 1993 tổng giá trị ngành công nghiệp thuê mua đạt 49 tỷ USD.
Tín dụng thuê mua cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu á và nhiều khu
vực khác kể từ đầu thập niên 70. Theo một thống kê gần đây cho thấy, ngành công nghiệp
thuê mua thế giới có giá trị trao đổi chiếm khoảng350 tỷ USD vào năm 1994 và đến năm
1998 con số này đã là 450 tỷ USD.
ở Việt Nam, trong điều kiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh là rất lớn và mang tính cấp bách hơn bao giờ hết, thì sự ra đời của
các công ty cho thuê tài chính- một kênh dẫn vốn trung gian- đã bước đầu tạo được chỗ đứng
của mình trên thị trường. Cho đến nay, Việt Nam đã có 9 công ty cho thuê tài chính, với
lượng vốn đầu tư khoảng 850 tỷ VNĐ/ năm. Tuy lượng vốn đầu tư này còn khá khiêm tốn so
với nhu cầu vốn của nền kinh tế song phần nào đã đáp ứng cho việc cung cấp và cải thiện
các loại máy móc thiết bị cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Như vậy, hoạt động cho thuê tài sản được thể hiện trước hết ở thoả thuận thuê tài sản
là thoả thuận mà theo đó, người cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản sang người thuê
trong một thời gian nhất định, được thoả thuận trước để nhận được những khoản tiền thuê.
Một thoả thuận thuê tài sản phải có những đặc điểm sau:
* Thời gian cho thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài
sảnvà không thể huỷ ngang theo ý muốn của một bên.
* Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động cho thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý đối
với tài sản thuộc về người cho thuê, và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Phần lớn
các chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro, thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng tài
sản được chuyển từ người cho thuê sang người thuê.
* Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định kỳ bao gồm
tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý và các chi phí quản lý khác. Do đó,
giống như hình thức tín dụng Ngân hàng, hoạt động cho thuê tài sản cũng mang tính hoàn
trả, tính thời hạn và lãi suất. Như vậy về thực chất, hoạt động cho thuê tài sản (leasing) là
một hình thức tài trợ nếu xét từ phương diện người cho thuê.
Như vậy, có thể định nghĩa hoạt động cho thuê tài sản dựa vào Nghị định số 16/2001/
NĐ- CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính là “ Cho thuê
tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết
bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên
cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với
các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. Có thể nhận rõ hình thức này qua việc so sánh
giữa cho thuê tài sản và thuê mua trả góp thông qua bảng so sánh sau:
Tiêu thức Cho thuê tài sản Thuê mua trả góp
a- Tài sản cho thuê
b- Người thuê
c- Thời hạn hợp đồng
d- Huỷ ngang hợp đồng
e- Giá trị còn lại của tài
sản
f- Bảo trì, mua bảo hiểm
Bao gồm tất cả các loại tài sản
và không có thế chấp.
Các pháp nhân
Có thời hạn khá dài: từ 1 đến
20 thậm chí 30 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Có thể chuyển giao cho người
thuê khi hợp đồng hết hạn.
Do người thuê thực hiện.
Đảm bảo cho người thuê đổi
Bao gồm tất cả các loại tài
sản và có thế chấp hoặc
không có thế chấp.
Các pháp nhân và thể nhân.
Có thòi hạn trung bình từ 1
đến 5 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Chuyển giao cho người thuê
khi kết thúc hợp đồng.
Do người thuê thực hiện.
Tài sản được khấu hao
g- Mục đích
h- Quyền sở hữu
i- Tính toán để khấu trừ
mới công nghệ kịp thời.
Thuộc quyền người cho thuê
và có thể được chuyển giao
cho người thuê.
Tổng số tiền thuê.
nhanh và không dễ bị lạc
hậu.
Chuyển giao cho người thuê
vào thời điểm kết thúc hợp
đồng.
Tổng tiền lãi và khấu hao.
Nếu chỉ xem xét về mặt thuật ngữ thôi thì ta thấy rằng đã có rất nhiều vấn đề. Khái
niệm này được chính thức đưa ra đầu tiên trong pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính với tên gọi là "tín dụng thuê mua" nhưng không có định nghĩa. Năm
1993, trong bản nghiên cứu của công ty tài chính quốc tế (IFC) đưa ra thuât ngữ "thuê mua"
và "tài trợ thuê mua". Nhìn chung từ đó đến nay, hai từ "thuê mua" và "tín dụng thuê mua"
được dùng phổ biến. Tuy vậy, vẫn không có một định nghĩa đầy đủ được chấp nhận thống
nhất. Nhiều người quan niệm thuê mua bao gồm cả cho thuê vận hành (quan niệm này dẫn
đến mâu thuẫn trong chính thuật ngữ). Một số khác cho rằng thuê mua không bao gồm cho
thuê vận hành và đưa ra khái niệm "thuê mua thuần" để phân biệt.
Nghị định số 16/ CP của chính phủ ngày 31/05/2001 đưa ra khái niệm "cho thuê tài
chính" và như vậy dùng thay thế từ "tín dụng thuê mua". Tuy nhiên, ngoài các văn bản có
tính chất pháp lý ra thì trên thực tế từ này rất ít được sử dụng. Để đảm bảo tính thống nhất
trong luận văn từ phần này trở về sau, em xin sử dụng thuật ngữ "cho thuê".
1.2. Phương thức cho thuê
Cho thuê là một phương thức tài trợ tín dụng trung, dài hạn không thể huỷ ngang
bằng tài sản chứ không phải bằng tiền. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua
tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản đó
với nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người thuê. Tuỳ theo quy
định của _ong quốc gia, nghiệp vụ này được coi là cho thuê tài sản khi thời hạn thuê mua
thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và giá trị hiện tại ròng của toàn bộ các
khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Thông thường một giao dịch cho thuê thường được chia thành ba phần như sau:
+ Thời hạn thuê cơ bản (Basic lease period): là thời hạn mà người thuê trả những khoản tiền
thuê cho người cho thuê để được quyền sử dụng tài sản. Trong _ong giai đoạn này, người
cho thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ số tiền đã bỏ ra ban đầu cộng với tiền lãi trên số vốn đã
tài trợ. Đây là thời hạn mà tất cả các bên không được quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không
có sự chấp thuận của bên kia.
+ Thời hạn gia hạn tuỳ chọn (Optional renewal Period): Trong giai đoạn gia hạn thứ hai này,
người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này
thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1- 2 % tổng số vốn
đầu tư ban đầu và thường phải trả trước vào đầu mỗi kỳ thanh toán.
+ Phần giá trị còn lại (Residual Value Share): Theo thông lệ, tại thời điểm kết thúc giao dịch
cho thuê người cho thuê thường uỷ quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Người thuê
được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho thuê đưa ra, hoặc
được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng bán hàng.
Khi thời hạn cho thuê căn bản đáo hạn, người thuê có quyền lựa chọn một trong
những hình thức mua lại tài sản với giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả thuận
đã được dự liệu trước trong hợp đồng – hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản
hoặc nhận làm đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ quyền của người cho thuê. Phương thức
cho thuê được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1.1 Phương thức cho thuê
Người cho
thuê
Hợp đồng
thuê TS
Quyền sử
dụng TS
Trả tiền
thuê TS
Người
thuê
HĐ
mu
a
bá
n
tà
i
Quyền
sở
hữu
pháp
lý
đối
với
Tr
ả
ti
ền
mu
a
tà
Giao
tài
sản
Bảo
trì
và
phụ
tùn
g
tha
y
Trả
tiền
Bảo
trì
và
phụ
tùng
Nhà cung cấp
1.2.1. Phân loại các phương thức cho thuê tài sản:
Nhằm so sánh những đặc điểm của các phương thức thuê tài sản với nhau để từ đó
giúp các bên có liên quan dễ dàng phân loại, nhận diện giao dịch thuộc phương thức thuê
nào để áp dụng các quy chế hạch toán, kế toán, hưởng các ưu đãi (nếu có) và quản lý chúng
(đối với các cơ quan Nhà nước) theo những quy chế đã được Nhà nước quy định. Trong hình
thức thuê tài sản có hai phương thức cho thuê vận hành và cho thuê tài chính hay còn gọi là
thuê ngắn hạn và thuê dài hạn. Bởi cho thuê vận hành là hình thức cho thuê kiểu truyền
thống, có thời hạn rất ngắn (khoảng 1- 5 năm) so với đời sống hữu ích của tài sản. Cho thuê
dài hạn hay còn gọi là cho thuê tài chính có thời hạn cho thuê dài hơn (từ trên 1 năm đến 20
– 30 năm). Sự khác biệt có thể được xem xét trong bảng sau :
Bảng 1.2 So sánh cho thuê vận hành và cho thuê
ST
T
Tiêu thức Thuê vận hành Thuê tài chính
1
2
3
4
5
6
7
Quyền sở hữu
Thời hạn thuê
Quyền huỷ ngang
hợp đồng
Rủi ro
Chi phí bảo trì, dịch
vụ và mua bảo hiểm
Ưu đãi về thuế
Bồi thường bảo
Tách biệt quyền sở hữu pháp lý
và quyền sử dụng
Rất ngắn so với đời sống hữu
ích của tài sản
Được quyền huỷ ngang hợp
đồng
Người cho thuê chịu mọi rủi ro
thiệt hại
Người cho thuê chịu mọi chi
phí vận hành, bảo trì, dịch vụ,
phí bảo hiểm.
Người cho thuê hưởng và khấu
trừ vào tiền thuê.
Như thuê vận hành
Thường dài hơn một nửa cho
tới bằng đời sống hữu ích của
tài sản.
Không được quyền huỷ ngang
hợp đồng
Người thuê chịu mọi rủi ro thiệt
hại.
Người thuê chịu mọi chi phí
vận hành, bảo trì, dịch vụ, phí
bảo hiểm.
Tương tự như thuê vận hành.
8
9
10
hiểm
Cung ứng tài sản
thuê.
Tiền bán tài sản.
Các loại tài sản
thường sử dụng
trong giao dịch.
Người cho thuê hưởng
Tài sản thuê mướn thường do
người cho thuê cung cấp.
Toàn bộ tiền thu được do bán
tài sản thuê thuộc quyền sử
dụng của người cho thuê.
Máy photocopy, máy vi tính, xe
ôtô, đồ đạc trong nhà, văn
phòng….
Người cho thuê hưởng
Tài sản cho thuê thường do
người thuê đặt hàng, giao nhận
và sử dụng.
Phần tiền bán tài sản lớn hơn so
với giá quy định của người cho
thuê được chuyển cho người
thuê hưởng như một khoản hoa
_ong bán hàng hay được khấu
trừ vào tiền thuê.
Bất động sản, xe lửa, tàu biển,
máy bay, thiết bị văn phòng…
Sự phân loại này được dựa trên hai căn cứ cơ bản là :
+ Những rủi ro và biện pháp bảo đảm cho giá trị còn lại của tài sản thuê do bên nào thực
hiện.
+ Quyền sử dụng và hưởng dụng toàn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản thuê mang lại có được
chuyển giao cho người thuê hay không ?
Dựa trên những cơ sở này, Uỷ Ban Tiêu Chuẩn Kế Toán Quốc Tế (IASC) đã đề ra 4
tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các hợp đồng thuê tài sản thuộc
phương thức nào:
Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp
đồng không ? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính còn không thì là thuê vận hành.
Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với
giá tượng trưng không ? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, còn nếu không thì là thuê vận
hành
Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê
hay không ? Nừu thoả mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính, các trường hợp còn lại thuộc
thuê vận hành.
Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiểu do người thuê trả có tương
đương hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng không ? Nếu
có là giao dịch thuê tài chính, nếu không là thuê vận hành.
Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thoả mãn một trong bốn tiêu chuẩn này đều
thuộc phương thức thuê tài chính. Những giao dịch còn lại thuộc thuê vận hành.
Sơ đồ 1.2 tóm tắt quy trình phân loại này
Tài
Quyền sở hữu
được chuyển
giao khi thời
Hợp đồng thuê có
quy định quyền
chọn mua theo
Thời hạn thuê
chiếm phần lớn
thời gian hữu
Giá trị hiện
tại của các
khoản tiền thuê
tối thiểu lớn
hơn hay tương
Thuê vận hành Thuê tài
chính
Có
Không
Có
Có
Có
Không
Không
Không
Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại theo IAS 17 của IASC, mỗi quốc gia đều có những
quy định cụ thể trong luật thuê mua của họ dựa trên cơ sở những điều kiện của mỗi nước.
Những quy định này có những khác biệt nhất định, song về cơ bản chúng không mâu thuẫn
với IAS 17 và tuỳ theo mức độ những quy định này có thể chi tiết cụ thể hơn IAS 17.
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê:
Tuỳ theo tính chất trong _ong giao dịch thuê mua mà có thể phân loại các thoả thuận
thành nhiều loại hợp đồng khác nhau.
1.2.2.1. Hợp đồng cho thuê trực tiếp:
Trong loại hợp đồng này, người cho thuê sử dụng thiết bị của họ có sẵn trực tiếp tài
trợ cho người thuê. Người cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài chính và
cũng có thể là công ty Leasing, sử dụng tài sản của họ tài trợ cho người thuê.
Đây là một hình thức tài trợ mà các nhà sản xuất thường sử dụng để đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm do họ sản xuất ra .Mặt khác, nhờ luôn cập nhật những công nghệ mới để chế
tạo ra các loại máy móc, thiết bị nên các nhà sản xuất có thể mua lại những thiết bị đã lạc
hậu về mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp các loại máy móc mới ,hiện đại do họ chế tạo ra.
Sơ đồ 1.3 – Hợp đồng tài trợ trực tiếp.
Người cho thuê Người thuê
1- Sử dụng các máy móc,thiết bị của chính
họ để cho thuê.
2- Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ.
1- Thuê máy móc thiết bị từ người có tài
sản đó
2- Ký kết với nhà cung cấp một phụ kiện
Người cho
thuê
hay
Nhà sản
xuất
Thiết bị (quyền
Các loại dịch vụ bảo trì và
phụ tùng
Trả tiền thuê và dịch vụ
phụ tùng
Bán lại các thiết
Người
thuê
Hay
Người
tiêu
thụ
3- Cung cấp các phụ tùng và dịch vụ bảo trì
cùng với thiết bị theo hợp đồng phụ.
4- Nhận các khoản tiền thuê và những hoản
tiền dịch vụ theo hợp đồng phụ.
5- Nhận lại tài sản đã lỗi thời và cung cấp
thiết bị thay thế.
hợp đồng về cung cấp phụ tùng và dịch
vụ bảo trì.
3- Trả tiền thuê theo định kỳ và trả tiền
phụ tùng và dịch vụ.
4- Bán lại thiết bị khi chúng đã lạc hậu và
nhận thuê những thiết bị mới.
1.2.2.2. Hợp đồng cho thuê liên kết:
Loại hợp đồng này bao gồm nhiều bên tài trợ cho người thuê. Sự liên kết này có thể xảy
ra theo chiều dọc hoặc chiều ngang tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính
của các nhà tài trợ. Trường hợp tài sản có giá trị lớn nhiều định chế tài chính hay các nhà chế
tạo cùng chia nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang.
Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hoặc các nhà chế tạo lớn giao tài sản cho chi
nhánh của họ (dealers) thực hiện giao dịch tài trợ cho khách hàng thì hình thành sự liên kết
theo chiều dọc ( Trust leases)
Các bước và đặc điểm trong giao dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có
khác biệt lớn so với hình thức cho thuê thuần tuý hay điển hình.
Người cho thuê Người thuê
1/ Có thể là sự liên kết giữa các định chế tài
chính với các nhà sản xuất hay giữa công ty
mẹ với các chi nhánh.
2/ Các loại tài sản _ong trong giao dịch
thường là những loại có giá trị cao.
3/ Các công ty con chuyên kinh doanh cho
thuê có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu
trong _ong lĩnh vực công nghệ hay loại thiết bị
cụ thể.
4/ Các đặc điểm khác tương tự như phương
1/ Là một doanh nghiệp nhận tài sản
thuê.
2/ Thực hiện các nghĩa vụ trả tiền thuê,
bảo quản tài sản, chịu rủi ro, mua bảo
hiểm... như trong phương thức thuê mua
thuần.
thức thuê mua thuần.
1.2.2.3. Hợp đồng cho thuê bắc cầu:
Hình thức này xuất hiện trong thời gian gần đây xuất phát từ thực tế các công ty cho
thuê có những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tài trợ cho khách hàng . Hình thức
này cho phép người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê từ một hay nhiều người cho
thuê nào đó ( Tuy nhiên,theo luật pháp của một số quốc gia khoản tiền vay này không được
vượt quá 80% tổng giá trị tài sản dược tài trợ) .Hình thức này được tóm tắt trong bảng sau:
Sơ đồ 1.4 – Thoả thuận thuê mua bắc cầu.
Người cho vay Người cho thuê Người thuê
1/ Cung cấp tín dụng trung và
dài hạn chiếm phần lớn giá trị tài
sản cho thuê.
2/ Nhận tiền trả nợ vay bằng tiền
thuê do người thuê trả theo yêu
cầu của người cho thuê.
1/ Sở hữu chủ tài sản cho thuê
và nhận được sự miễn giảm
thuế.
2/ Mượn đối ứng phần lớn giá
trị tài sản và bảo đảm khoản
vay bằng cả tài sản cùng các
khoản tiền cho thuê nó.
1/ Trả tiền thuê tài
sản cho người cho
thuê.
2/ Ngoài ra không có
sự khác biệt so với
hình thức thuê mua
Người cho vay
(Lender)
Tiề
n
trả
nợ
Tiề
n
cho
vay
Người cho
thuê
Tài sản
Tiền thuê
Người thuê
(Lessee
3/ Khoản cho vay được đảm bảo
bằng tài sản và tiền thuê.
3/ Trả nợ bằng tiền thuê tài
sản. Phần tiền thuê vượt quá
số tiền vay được giữ lại.
thuần.
Loại hình cho thuê này thường được sử dụng trong các giao dịch thuê mua đòi hỏi
một lượng vốn đủ lớn, chẳng hạn thuê một máy bay thương mại hoặc là một tàu trở hàng
hoặc là một tổ hợp chuyên ngành lớn.
1.2.2.4. Hợp đồng bán và cho thuê lại:
Bán và cho thuê lại là một thoả thuận tài trợ tiêu _ong mà bên A (người thuê) bán một tài
sản của chính họ cho bên B (người cho thuê). Đồng thời, ngay lúc đó một hợp đồng thuê
mua được thảo ra với nội dung bên B đồng ý cho bên A thuê lại chính tài sản mà họ vừa
bán.Trường hợp này xuất hiện khi các doanh nghiệp- nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ-
gặp rất nhiều khó khăn về vốn lưu động. Mà vay vốn sẽ gặp nhiều thủ tục, điều kiện đăng ký
khắt khe mà các doanh nghiệp này khó có thể thoả mãn. Đồng thời, trong trường hợp doanh
nghiệp có nhu cầu phải duy trì năng lực sản xuất nên không thể bán bớt tài sản cố định để
chuyển thành tài sản lưu động. Do đó, hình thức bán và tái thuê có thể đáp ứng được nhu cầu
này.
Sơ đồ 1.5. Thỏa thuận bán và tái thuê.
Công ty leasing
Người mua
Người cho thuê
Thoả thuân mua bán tài sản
Quyền sở hữu pháp lý
Tiền mua tài sản
Quyền sử dụng tài sản
Chủ sở hữu
ban đầu
Người bán
Người thuê Trả tiền thuê
Hợp đồng thuê mua
Người cho thuê Người thuê
1- Mua tài sản của người thuê và nắm
quyền sở hữu về mặt pháp lý.
2- Trả tiền cho người thuê theo giá tại
thời điểm thoả thuận mua tài sản.
3- Giao quyền sử dụng tài sản cho người
thuê.
4- Nhận các khoản tiền thuê và thực
hiện các điều kiện thuê tuỳ theo
phương thức thuê mua.
1- Bán tài sản cho người cho thuê và
chuyển giao quyền sở hữu về mặt pháp
lý.
2- Nhận được tiền theo giá tại thời điểm
thỏa thuận bán tài sản.
3- Thuê lại tài sản vừa bán cho người cho
thuê - Giữ lại quyền sử dụng tài sản.
4- Trả tiền thuê cho người cho thuê và thực
hiện các điều kiện tuỳ theo phương thức
cho thuê
Điều đáng lưu ý là những tài sản được sử dụng vào giao dịch này là những tài sản
còn giá trị sử dụng hữu ích. Giá mua của tài sản tuỳ thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản trên
thị trường vào thời điểm lập hợp đồng mua bán. Các loại thiết bị mới hay đă sử dụng đều có
thể được bán và tái thuê, giá của thiết bị mới thường căn cứ vào hoá đơn của nhà cung cấp,
còn giá của thiết bị đã qua sử dụng thì cần được định giá độc lập.
Những tiện ích của dịch vụ này là ngoài mục đích giải quyết nhu cầu vốn lưu động,
những công ty muốn tạo ra lợi nhuận ghi sổ hay lợi nhuận tính thuế với điều kiện giá bán tài
sản cao hơn phần khấu hao còn lại trong sổ sách cũng có thể áp dụng hình thức này.
Ngoài ra, hình thức này cũng còn được sử dụng để tái tài trợ trung, dài hạn đối với
những tài sản trước đó được mua bằng nguồn tiền vay hay được _ong để giảm chi phí huy
động vốn nếu hình thức này có mức lãi _ong thấp hơn các chi phí sử dụng vốn khác. Tại
Hoa Kỳ, hình thức giao dịch này có sức cạnh tranh rất cao trong ngành kinh doanh bất động
sản, còn trong các ngành sản xuất thì tuỳ thuộc vào chủng loại thiết bị mà chúng có sức cạnh
tranh từ vừa đến cao. Tại Việt Nam hiện nay, hình thức này đang được áp dụng tại một số
công ty cho thuê.
1.2.2.5. Hợp đồng cho thuê giáp lưng
Đây là phương thức tài trợ mà trong đó được sự thoả thuận của người cho thuê, người
thuê thứ nhất cho người thuê thứ hai thuê lại tài sản mà người thuê thứ nhất đã thuê từ người
cho thuê.
Hình thức thoả thuận cho thuê này thường được thực hiện dưới dạng hợp đồng hoàn
trả toàn bộ được ký kết giữa người cho thuê với người thứ nhất. Loại hợp đồng này là loại
thoả thuận không thể huỷ ngang . Nhưng do người cho thuê thứ nhất sau khi thực hiện được
một phần của hợp đồng không còn nhu cầu nữa hay vì một lý do nào đó nên phải tìm người
thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng. Bởi nếu không còn cho thuê tiếp được thì dù không
sử dụng tài sản vẫn phải trả tiền thuê.
Sơ đồ 1.6. Thoả thuận thuê mua giáp lưng
Người cho thuê Người thuê thứ nhất Người thuê thứ hai
1- Cho thuê tài sản và
nhận tiền thuê.
2- Các quyền lợi và
nghĩa vụ khác như
trong thoả thuận thuê
mua thuần.
1- Thuê tài sản từ người cho
thuê.
2- Cho người thuê thứ hai thuê
lại tài sản.
3- Không chịu trách nhiệm trực
tiếp đối với các rủi ro, thiệt
hại đối với tài sản.
4- Nhận tiền thuê từ người thuê
thứ hai và trả tiền thuê cho
người cho thuê.
1- Thuê tài sản từ người thuê
thứ nhất.
2- Trả tiền thuê cho người
thuê thứ nhất.
3- Các nghĩa vụ và quyền lợi
không khác so với nghĩa
vụ và quyền lợi của người
thuê trong thoả thuận thuê
thuần.
Người
cho
thuê
(Less
or)
Quyền sử
dụng tài
sản
Tiền
Người
thuê
thứ
nhất
Lessee
Quyền sử
dụng tài
sản
Tiền
Người
thuê
thứ hai
(Lessee
II )
Nhìn chung, hợp đồng cho thuê diễn ra rất đa dạng và khó có thể phân biệt _ong loại
thoả thuận cho thuê một cách rạch ròi. Các hình thức này đan xen vào nhau, nên việc xem
xét, phân tích chúng đòi hỏi phải có sự đánh giá trên nhiều phương diện.
1.3. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài sản
1.3.1 Về khía cạnh kinh tế:
a. Nhu cầu của doanh nghiệp:
Nghiệp vụ cho thuê ra đời và phát triển là do nhu cầu của các doanh nghiệp về tài
trợ cho các thiết bị trong khi họ không có hoặc không muốn bỏ vốn ra mua sắm để tập trung
nguồn vốn của họ vào các đối tượng thuộc vốn lưu động. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không
có nhu cầu thuê tài sản thì nghiệp vụ cho thuê cũng không thực hiện được.
b. Khả năng của bên cho thuê:
Bên cho thuê là các tổ chức tài chính, tín dụng nên có thể huy động nguồn vốn bằng
tiền hoặc tài sản trong nước và nước ngoài dễ dàng hơn các doanh nghiệp khác. Vì vậy họ
có khả năng tài trợ thiết bị bằng nghiệp vụ cho thuê cho các doanh nghiệp có nhu cầu thuê
tài sản.
1.3.2 Về khía cạnh pháp lý:
Nghiệp vụ cho thuê được thực hiện và phát triển dựa trên một môi trường pháp lý
hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động cho thuê. Ngoài những luật cơ bản chung
cho các hoạt đông của nền kinh tế, liên quan đến các hoạt động cho thuê còn có các luật như:
1.3.2.1. Các chính sách về khuyến khích đầu tư và kinh doanh:
Hầu hết các luật về khuyến khích đầu tư và kinh doanh đều đều áp dụng hình thức
miễn thuế hoặc giảm thuế hải quan đối với hàng nhập khẩu và tiêu dùng bao cấp. Do hoạt
động cho thuê làm gia tăng đáng kể đầu tư trong nước cho nên luật khuyến khích đầu tư
nên áp dụng cho hoạt động này. Sự liên quan của các luật thuế đối với việc thúc đẩy
nghiệp vụ cho thuê là ở chỗ: Liệu các luật này có phải là giải pháp trung hoà lợi ích giữa
người chủ sở hữu và người sử dụng thiết bị cho thuê hay không , tức là pháp luật có công
nhận rằng lợi ích kinh tế các thiết bị cho thuê cũng giống như lợi ích kinh tế có được của
cùng thiết bị ấy nếu được mua đứt bán đoạn và do vậy phải được hưởng các khuyến khích
bình đẳng như nhau hay không .
1.3.2.2. Pháp luật về bên cho thuê:
Sau khi xem xét các cơ sở pháp lý nêu trên thì còn cần phải xem xét nhiều vấn đề liên
quan tới các qui chế chi phối người cho thuê và nghĩa vụ cho thuê, kể cả việc các công ty
cho thuê có cần được Chính phủ cấp giấy phép và thanh tra đặc biệt không? Các vấn đề khác
về mặt quy chế có thể là : Nguồn vốn và thời hạn vốn, yêu cầu về khả năng trả nợ, khả năng
thanh toán, các quy định về thiết bị đủ tiêu chuẩn cho thuê và yêu cầu về kế toán.
1.3.2.3. Pháp luật về hợp đồng kinh tế và sở hữu tài sản:
Cần phải định nghĩa rõ ràng về bản chất của giao dịch cho thuê để bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người thuê và người cho thuê (đồng thời cũng buộc họ phải thực hiện các nghĩa
vụ). Đưa ra các phương thức cho thuê cần thiết , bởi có nhiều loại giao dịch cho thuê khác
nhau, bao gồm từ loại mua đứt bán đoạn thiết bị với điều kiện là người mua hoàn thành các
nghĩa vụ cụ thể (chủ yếu là thanh toán từng đợt theo thoả thuận) đến loại nghiệp vụ thuê tài
sản mà trong đó người thuê tạm thời sử dụng tài sản nào đó nhưng không có ý định sẽ sở
hữu nó sau này.
Nếu không phân biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ cho thuê với các giao dịch thương mại
hoặc tài chính khác thì hoạt động cho thuê sẽ phải tuân thủ các điều khoản bất lợi trong các
luật khác. Đồng thời các thủ tục pháp lý về chuyển nhượng tài sản và thoả thuận hợp đồng
nên để ở mức tối thiểu cần thiết để thực hiện giao dịch này.
1.3.2.4. Pháp luật về thuế:
Luật thuế của một nước phải có các điều khoản cụ thể về nghĩa vụ thuế và ưu đãi thuế
đối với các bên liên quan đến giao dịch cho thuê, kể cả phần khấu hao . Điều này cho phép
bên thuê có thể đánh giá chi phí thuê so với các chi phí tài trợ thiết bị khác (như vay vốn
ngân hàng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu...). Về phía người cho thuê chi phí của họ phải
được ưu đãi tương đối mới có thể thúc đẩy các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực này.
Bốn vấn đề pháp lý vừa được đề cập ở trên là rất cơ bản đối với việc phát triển dịch
vụ cho thuê và chúng có tầm quan trọng thứ hai sau nhu cầu thực sự về tài trợ cho thiết bị
của một tổ chức nói chung.
Kinh nghiệm cho thấy, nghiệp vụ cho thuê sẽ chỉ phát triển được khi các vấn đề pháp
lý và toàn bộ cơ sở pháp luật cho phép nghiệp vụ cho thuê trở thành biện pháp tài trợ hiệu
quả và cạnh tranh được về mặt chi phí. Có thể ban hành "Luật Cho thuê Tài chính" vì nó xác
định rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên tham gia giao dịch cũng như xác định chức năng
quản lý của Chính phủ nhằm thúc đẩy hoạt động này. Nếu Chính phủ lần đầu tiên đưa ra
hoạt động cho thuê thiết bị vào nền kinh tế và nếu cơ sở pháp lý cơ bản liên quan đến cho
thuê không rõ ràng thì việc ban hành luật cho thuê tài chính sẽ rất có ích. Nhưng nếu đã có
một cơ sở pháp lý lành mạnh hay có thể sửa đổi ngay được các luật không cần phải có luật
cho thuê tài chính cụ thể.
1.4. Những ưu thế và bất lợi trong nghiệp vụ cho thuê :
Mặc dù hoạt động cho thuê có rất nhiều ưu điểm và cũng nhận thấy rằng cho thuê là
hình thức tài trợ máy móc, thiết bị duy nhất cho các nghiệp vụ mà thị trường vốn còn chưa
phát triển, mặt khác khi đó cần có sự phát triển của hệ thống ngân hàng- tài chính ở một
trình độ nhất định. Song bên cạnh đó, hoạt động này cũng không thể dấu đi những hạn chế
nảy sinh (do điều kiện khách quan hay chủ quan mang lại) cụ thể là:
1.4.1. Đối với bên đi thuê:
Ưu thế:
- Hạn chế sự lạc hậu của máy móc và thiết bị
Do thời gian đi thuê ngắn hơn thời gian hữu dụng của máy móc, thiết bị, vì vậy, nghiệp
vụ cho thuê có thể giúp các doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu và lỗi thời của máy móc,
thiết bị trong sự phát triển không ngừng của công nghệ hiện nay.
- Được tài trợ với tỷ lệ cao và đến mức tài trợ toàn bộ cho chi phí mua sắm máy móc
thiết bị.
Việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bởi chính bản thân máy móc thiết bị cho thuê.
Nghĩa là, nó cho phép người cho thuê dễ dàng lấy lại máy móc, thiết bị trong trường hợp
hợp đồng bị vi phạm. Do vậy, doanh nghiệp thường không cần phải đặt tiền gửi hoặc thanh
toán trước đối với tài sản đi thuê. Tuy nhiên, trong những trường hợp có mức độ rủi ro cao
thì phải đặt cọc hoặc ký quỹ một khoản tiền. Nhưng những doanh nghiệp như vậy sẽ gặp
nhiều khó khăn hơn khi xin vay với các hình thức cho vay khác. Nói chung, hình thức tài
trợ thuê mua chiếm một tỷ lệ cao trong chi phí mua sắm thiết bị hơn các hình thức tài trợ
khác.
- Không hạn bị chế về hạn mức tín dụng:
Tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng nên không làm tăng số nợ của doanh nghiệp
.Vì vậy không ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doang nghiệp .
- Không bị đọng vốn trong tài sản cố định:
Do không phải bỏ ngay ra một khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiết bị nhưng
doanh nghiệp vẫn có tài sản để sử dụng nên doanh nghiệp không bị đọng vốn trong tài sản
cố định, tập trung được vốn tự có và vốn vay của ngân hàng để đáp ứng những nhu cầu về
vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Thu hút vốn nước ngoài:
Thông qua tín dụng thuê mua, các doanh nghiệp Việt Nam có thể huy động được vốn
nước ngoài thông qua các công ty cho thuê quốc tế hoặc các công ty liên doanh cho thuê
hoạt động ở Việt Nam. Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn
quốc tế thấp hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc, thiết bị của các
công ty nước ngoài có thể nhận được vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với lãi suất trên
thị trường vốn Việt Nam bằng VND.
- Đơn giản hơn các hình thức tài trợ khác trong khi xem xét uy tín doanh nghiệp cần
được tài trợ và tài trợ một cách nhanh chóng.
Đối với các công ty nhỏ hoặc ít uy tín trên thị trường vốn thì tài trợ cho thuê được coi
như là hình thức duy nhất để có thể sử dụng những thiết bị lớn trong thời gian dài. Do
quyền sở hữu pháp lý thuộc về người cho thuê nên các công ty cho thuê có thể chấp nhận
những người đi thuê không có uy tín lớn, hơn nữa các công ty nhỏ có thể không có mối
quan hệ gần gũi với ngân hàng và các ngân hàng có thể lưỡng lự khi cho các công ty này
vay các khoản vay có kỳ hạn.
- Cho phép người thuê hoãn thuế
Các khoản tiền thuế phải nộp hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó
chúng làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó.
Khoản chi phí này được nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và nhân với lãi
suất cho vay của ngân hàng, sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn thuế bởi thuê mua mang
lại cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Tổng số tiền thuế phải nộp của doanh nghiệp hàng năm là 50 triệu đồng, mức
thuế thu nhập doanh nghiệp là 32%, lãi suất ngân hàng là 12%. Khoản tiền tiết kiệm được
do hoãn thuế là:
50 *[ 12% (1-0.32)] = 4.08 triệu
Như vậy, doanh nghiệp đã tiết kiệm được 4.08 triệu đồng do chậm nộp thuế lợi tức để sử
dụng chúng vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh mà không phải đi vay và không phải trả lãi
suất vay.
- Thanh toán tiền thuê linh hoạt:
Tuỳ theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và điều kiện lưu chuyển tiền tệ của mình , các
doanh nghiệp đi thuê có thể lựa chọn phương thức trả tiền sao cho phù hợp nhất với tình
hình thực tế kinh doanh của mình như trả tăng dần, giảm dần hay trả theo niên kim cố
định...
- Cho thuê là hình thức tài trợ không làm thay đổi các hệ số phân tích tài chính:
Hầu hết các nước(trừ Mỹ, Mexico... ) kể cả Việt Nam đều coi hoạt động cho thuê là
phương thức tài trợ ngoài bảng cân đối nên người thuê không phải hạch toán tài sản thuê
vào bảng tổng kêt tài sản. Do đó, các hệ số phân tích tài chính của người thuê sẽ được biểu
hiện tốt hơn của người mua tài sản bằng tiền đi vay tuy rằng về bản chất thực tế hoạt động
kinh doanh về cơ bản là giống nhau
- Hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị cho thuê có lợi nhuận cao hơn sử dụng vốn vay
thông thường do doanh nghiệp sẽ:
+ Sử dụng được tối đa công suất thiết bị.
+ Tránh được rủi ro mất giá do lạm phát.
+ Giảm được chi phí quản lý và chi phí nghiệp vụ.
+ Luôn được sử dụng các máy móc thiết bị với công nghệ tiên tiến phối hợp với hoạt
động sản xuất kinh doanh, đáp ứng được thời cơ kinh tế.
Bất lợi:
- Chịu chi phí thuê tài sản cao hơn lãi suất vay vốn của các hình thức tài trợ vốn khác
trên cùng một thị trường vốn.
Do công ty cho thuê thu lợi nhuận trên các khoản tiền mà họ vay để tài trợ cho giao
dịch cho thuê cho nên chi phí và thuế thường cao hơn chi phí vay vốn đầu tư mà doanh
nghiệp phải trả.
- Doanh nghiệp không được hưởng khoản tiền chiết khấu như mua tài sản
bằng tiền mặt.
Vào giai đoạn cuối của hợp đồng cho thuê, dù đã trả gần đủ số tiền thuê nhưng bên
thuê vẫn không được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác.
- Nếu tài sản được hoàn trả cho bên cho thuê ở thời điểm kết thúc hợp đồng, doanh
nghiệp không được hưởng giá trị còn lại của tài sản, bởi trong phí thuê đã tính gộp cả phần
tiền trả cho quyền chọn mua.
- Doanh nghiệp không được hưởng những khoản miễn giảm thuế dành cho tài sản
cho thuê, thiết bị dùng vào việc cho thuê thường được miễn giảm thuế nhập khẩu và bên
cho thuê được hưởng khoản lợi này.
Là khách hàng đi thuê thiết bị, tài sản của người cho thuê hay là người nhận sự tài trợ
tín dụng của công ty cho thuê. Người thuê cũng là người có quyền sử dụng, hưởng dụng
những lợi ích mà thiết bị mang lại và có trách nhiệm trả những khoản tiền thuê theo thoả
thuận. Do đó, sự thành công của một giao dịch cho thuê phụ thuộc nhiều vào năng lực hoạt
động sản xuất kinh doanh và đạo đức của người thuê. Liên quan đến người thuê (và các
trung gian trong hoạt động cho thuê) có thể kể tới một số rủi ro sau đây:
- Người thuê không đủ khả năng thanh toán tiền thuê do tình hình tài chính quá khó
khăn (do năng lực quản trị kém, nguồn nguyên liệu bị biến động hoặc nhu cầu thị trường
biến động quá nhanh, ngành kinh doanh hoặc sản phẩm đang bị suy thoái).
- Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý: Nhằm chiếm dụng vốn tài trợ thông qua các hình thức
như :
+ Hoá đơn khống : Kẻ lừa đảo dùng một hoá đơn xuất hàng khống để lừa đảo nhà tài trợ
, nhưng trên thực tế không có tài sản nào cả.
+ Dùng một tài sản để được tài trợ nhiều lần, kẻ lừa đảo tạo ra nhiều hoá đơn giao hàng
của một tài sản để nhận tài trợ từ nhiều người cho thuê. Mỗi hoá đơn được gửi đến cho một
nhà tài trợ. Loại hoá đơn lừa đảo này rất khó phát hiện bởi mỗi nhà tài trợ đều nhận được
hoá đơn gốc của nhà cung cấp.
+ Thổi phồng giá trị tài sản: Hình thức này thường xảy ra trong hình thức bán và tái
thuê, hay trong trường hợp máy móc thiết bị cũ.
Nếu là thiết bị mới, kẻ lừa đảo thường tìm cách để có đầy đủ bảng báo giá và cataloge
với giá cao hơn thực tế (Nhà tài trợ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của một chuyên gia về thiết bị
để chống lại hình thức lừa đảo này).
+ Người thuê tự ý bán tài sản thuê.
+ Cung cấp sai lệch các thông tin tiêu dùng.
- Rủi ro do trung gian: Thông qua hệ thống đại lý (cung cấp tài sản, bảo trì...) người
cho thuê rất có thể không nhận được tiền thuê do sự cố ý hay vỡ nợ ....của các đại lý. Loại
rủi ro này thường xuất hiện trong các giao dịch cho thuê giáp lưng.
1.4.2. Đối với bên cho thuê:
Ưu thế:
- Cho thuê góp phần đa dạng hoá các phương thức đầu tư :
Nghiệp vụ này góp phần làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư của các tổ chức tài
chính, tín dụng. Nó cũng phần nào thay thế các hình thức đầu tư khác phù hợp với khả
năng và nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp ở từng thời kỳ khác nhau trong quá trình phát
triển. Do vậy, thông qua hình thức cho thuê có thể mở rộng diện khách hàng tiếp cận với
khu vực tài chính.
- Cho thuê là hình thức tài trợ tương đối ít rủi ro:
Do người cho thuê luôn giữ quyền sở hữu về tài sản trong suốt thời gian cho thuê nên
người cho thuê có thể tránh được những mất mát, thiệt hại bằng cách thu hồi tài sản ngay khi
người thuê có những biểu hiện không tốt hoặc bị phá sản mà không cần sự phán quyết của
toà án. Vì vậy, việc thu hồi tài sản này thường là thuận lợi, ít tốn kém chi phí hơn so với việc
thu hồi tài sản mà doanh nghiệp thế chấp khi doanh nghiệp vay vốn.
Tài trợ qua nghiệp vụ cho thuê đảm bảo việc sử dụng vốn đúng đắn và hiệu quả do
người thuê tự chọn tài sản cần thuê để phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh của
mình. Mặt khác, người đi thuê trả tiền thuê bằng hiệu quả thu được từ việc sử dụng tài sản
thuê. Người cho thuê có nhiều khả năng thu hòi được khoản chênh lệch khi hết thời hạn hợp
đồng mà người đi thuê trả lại máy móc, thiết bị. Bởi vì, thông thường thì thiết bị thu về có
giá trị tái đầu tư cao hơn giá trị còn lại của thiết bị đã dự tính từ đầu.
Phương thức cho thuê giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh: Trong thời
gian tài trợ, vốn của người cho thuê bỏ ra để mua máy móc thiết bị cho thuê sẽ được thu hồi
dần, cho phép người cho thuê có thể sử dụng nguồn vốn này để tái đầu tư vào các hoạt động
kinh doanh sinh lợi và giữ vững nhịp độ hoạt động của mình.
- Hồ sơ, thủ tục cho thuê đơn giản hơn nhiều so với hồ sơ xin vay vốn ngân hàng
hoặc những thoả thuận tăng vốn cho doanh nghiệp .
Bất lợi:
Trong hoạt động cho thuê người cho thuê cũng có thể gặp phải một số rủi ro về:
- Rủi ro về tài chính: Loại rủi ro này thường xuất phát từ những nguyên nhân như:
+ Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn.
+ Tiền thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc.
- Rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê:
+ Tài sản cho thuê được thu hồi về không thể cho thuê tiếp hoặc không bán được chúng.
+ Tài sản do nhà cung ứng giao cho bên thuê không đúng theo hợp đồng, tài sản không
được phép kinh doanh.
+ Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý.
- Rủi ro khách quan:
+ Rủi ro do môi trường kinh doanh đem lại : Do tình hình biến động xấu của nền kinh tế
dẫn tới đình trệ sản xuất và làm giảm nhu cầu thuê thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất.
+ Rủi ro do thay đổi tỷ giá: Loại rủi ro này thường xảy ra theo hướng bất lợi cho người
cho thuê đối với loại thiết bị nhập khẩu hay
+ Rủi ro do biến động lãi suất: Do sự biến động lãi suất trên thị trường vốn dẫn tới sự
chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất tài trợ, gây bất lợi cho người cho thuê.
+ Rủi ro do sự biến động của pháp luật.
+ Rủi ro bất khả kháng: Môi trường kinh tế vĩ mô không thuận lợi như: Không có luật
quy định rõ ràng quyền về sở hữu hay không có thông tin mua bán máy móc , thiết bị cũ
hoặc các quy chế xuất nhập khẩu, thuế.... không chặt chẽ thì nguy cơ bị đọng vốn, mất vốn,
gây ra lỗ trong kinh doanh là điều rất dễ xảy ra.
1.4.3 . Đối với nền kinh tế.
Ưu thế:
- Góp phần giải quyết vốn đầu tư :
Mức độ rủi ro trong hoạt động cho thuê thấp nên có thể khuyến khích các thành phần
kinh tế, cá nhân và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt
động cho thuê giải quyết được sự khó khăn về vốn của các doanh nghiệp và nếu mở rộng
phạm vi hoạt động ra khỏi một nước thì cho thuê còn cho phép nền kinh tế thu hút được vốn
đầu tư từ bên ngoài qua máy móc, thiết bị cho thuê. Thông qua vai trò trung gian giữa
người cung ứng thiết bị với người cần thuê thiết bị mà công ty cho thuê đã góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình chu chuyển và lưu thông vốn cho nền kinh tế.
- Thúc đẩy đổi mới công nghệ cho sản xuất:
Thông qua nghiệp vụ cho thuê, các doanh nghiệp có thể nhận được các máy móc, thiết bị
với công nghệ mới cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nên đã góp phần
làm cho nền kinh tế phát triển.
Bất lợi:
Hiện nay, các nước phát triển đang có xu hướng muốn chuyển giao các công nghệ
gây ô nhiễm môi trường, hao tốn nguyên- nhiên liệu, sử dụng nhiều lao động, điều kiện an
toàn không đảm bảo, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng kém..., sang các nước đang phát
triển. Do đó, nếu không có được chính sách Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đúng đắn, khoa
học thì nghiệp vụ cho thuê sẽ làm tăng sự lãng phí nguồn ngoại tệ hiếm hoi của đất nước,
biến đất nước thành "bãi thải các thiết bị công nghiệp".
1.5. Sự phát triển của các công ty cho thuê trong nền kinh tế thị trường.
Do yếu tố đặc thù của nghĩa vụ cho thuê, là một hình thức của sự vay mượn nếu xét
theo phương diện người thuê và nó cũng chính là hình thức tài trợ nếu xem xét từ phía
người cho thuê. Đồng thời phương thức này cũng khác với hình thức bán hàng trả góp hay
cho vay của các khách hàng. Vì thế, hoạt động cho thuê tài sản phải được thực hiện thông
qua các công ty chuyên doanh cho thuê (Leasing company).
ở một số quốc gia, luật pháp qui định không cho các thể nhân, doanh nghiệp tư nhân
hay các công ty phi tài chính hoặc các ngân hàng thương mại được tham gia hoạt động cho
thuê tài sản ( Hàn Quốc, Anh, ... ).
Tuy nhiên, đối với một số quốc gia khác, qui định về hoạt động này có được nới rộng
hơn. Song, tựu trung lại, công ty cho thuê được coi là một công ty tài chính hoạt động chủ
yếu trong lĩnh vực cho thuê , và có thể phân chia các công ty chuyên doanh cho thuê (
Leasing ) thành ba loại:
* Các công ty cho thuê phụ thuộc: Các công ty này thường là các công ty con của các
tập đoàn công nghiệp lớn, chủ yếu cho thuê các tài sản do công ty mẹ sản xuất. * Các công
ty cho thuê độc lập: Loại hình công ty này thường do các chuyên gia tài chính - những
người có đầy đủ kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu dự án, đánh
giá giá trị tài sản ... Các công ty này thường có phạm vi và qui mô hoạt động rộng lớn, có
mạng lưới chi nhánh hoạt động rộng rãi và có khả năng khắc phục được tình trạng lạc hậu
công nghệ của máy móc thiết bị. Loại công ty này thường tập trung chuyên môn hoá một số
loại tài sản nhất định hay một số ngành công nghiệp nhất định.
* Các công ty cho thuê thuộc sở hữu ngân hàng: Loại hình công ty này xuất hiện muộn
hơn hai loại hình công ty cho thuê nêu trên. Các công ty cho thuê thuộc sở hữu ngân hàng
có cách thức hoạt động kinh doanh khá đặc biệt, cho thuê những tài sản theo yêu cầu của
khách hàng có nguồn vốn lớn,... đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về những tài sản có
giá trị lớn, thời gian thuê kéo dài...
Nội dung hoạt động chủ yếu của các công ty cho thuê là cho thuê tài sản. Bên cạnh
đó, các công ty cho thuê có thể thực hiện một số các hoạt động khác như:
+ Tư vấn và bảo lãnh cho khách hàng trong các giao dịch có liên quan đến hoạt động
cho thuê tài sản.
+ Cung cấp các dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa liên quan đến hoạt động cho thuê tài
sản.
+ Cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản.
1.6. Sự phát triển của hoạt động cho thuê ở Việt Nam
1.6.1. Quá trình hình thành và phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Việt Nam:
Vốn xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là nông nghiệp lạc hậu, hình thành chủ
yếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với các doanh nghiệp này, vốn và máy móc thiết bị còn
rất hạn chế. Cho nên, nhu cầu thuê tài sản cho sản xuất kinh doanh lớn và cũng có một số
người có tài sản nhàn rỗi để cho thuê. Do đó, hoạt động cho thuê cũng đã có từ rất lâu ở Việt
Nam. Tuy nhiên, các hoạt động cho thuê tài sản trong thời gian trước đây còn ít và chưa
được phổ biến do hoạt động sản xuất của người sản xuất còn nhỏ bé.
Mặc dù, nghiệp vụ cho thuê đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu á từ
những năm 70 nhưng ở Việt Nam nghiệp vụ này còn rất mới mẻ. Phần lớn các hoạt động
cho thuê và cho thuê tài sản ở Việt Nam đến nay mới chỉ là cho thuê vận hành. Nghiên cứu
quá trình phát triển nghiệp vụ cho thuê ở Việt Nam, có thể chia làm hai giai đoạn:
a) Giai đoạn trước năm 1986
Giai đoạn này áp dụng cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoạt động cho
thuê chủ yếu là cho thuê vận hành. Các doanh nghiệp cho thuê lẫn nhau các máy móc, thiết
bị, nhà kho. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn này chưa được dùng tài
sản để cho thuê mặc dù có tài sản cố định chưa dùng đến. Điều này đã gây lãng phí vốn cho
doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, còn có loại cho thuê không nhằm mục đích sản xuất kinh
doanh, đó là việc Nhà nước cho tư nhân thuê nhà ở. Đây là một dạng tài trợ bao cấp từ ngân
sách Nhà nước để giải quyết nhu cầu khó khăn về nhà ở của cán bộ công nhân viên chức và
nhân dân. Tiền thu được do thuê nhà ở rất thấp khó có thể tái tạo được tài sản khi nhà ở hết
hạn sử dụng .
Như vậy, loại cho thuê vận hành nói trên chưa gắn với việc tài trợ vốn trung, dài hạn
của các định chế tài chính, trong đó có các ngân hàng thương mại .
b ) Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Sau năm 1986, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quá trình tái
cấu trúc nền kinh tế được tiến hành động thời với quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
đất nước. Các thành phần kinh tế đã được công nhận và hoạt động kinh doanh của họ ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Trong thời kì này, hoạt động cho thuê có sự phát triển cả về hình
thức cho thuê, doanh số cho thuê và nhu cầu thuê tài sản cũng trở nên rộng rãi và phong phú
hơn.
Do hậu quả của việc phân phối các tài sản không đồng bộ trong các doanh nghiệp
Nhà nước của cơ chế quản lý cũ để lại nên đã dẫn tới việc thừa thiếu máy móc thiết bị. Từ
đó, các doanh nghiệp phải thuê lẫn nhau để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của
họ, hoàn toàn mang tính tự phát. Hoạt động này chỉ được chính thức thừa nhận từ năm 1991
theo thông tư số 34/TC – DN ngày 31/7/1991 của Bộ tài chính. Thông tư này cho phép các
doanh nghiệp dùng tài sản như nhà xưởng, máy móc, xe cộ chưa sử dụng đến có thể cho các
tổ chức khác thuê. Mặt khác, nhu cầu đầu tư đổi mới trang thiết bị hiện đại phát sinh mạnh
mẽ do qui luật cạnh tranh của kinh tế thị trường thông qua chất lượng sản phẩm mà một số
doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư lớn và cần phải có máy móc, thiết bị với công nghệ hiện đại
mới có thể cung ứng được các sản phẩm và dịch vụ có tính cạnh tranh trong và ngoài nước
như các doanh ngiệp thuộc ngành dầu khí, hàng không, vận tải biển... mà khả năng của họ và
thị trường trong nước chưa thể đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp này phải thông qua
Chính Phủ và các cơ quan chức năng của Việt Nam làm đại diện và bảo lãnh để thuê tài sản
nước ngoài.
Ví dụ như :
+ Tổng công ty Vietfratch đã thuê và mua lại một số tàu biển theo phương thức cho
thuê trả góp.
+ Tổng công ty hàng không Việt Nam thuê máy bay vận tải hành khách.
Ngoài việc các doanh nghiệp tự thuê lẫn nhau hay các doanh nghiệp Việt Nam thông
qua đại diện là Chính Phủ và cơ quan chức năng thuê của các doanh nghiệp nước ngoài thì
các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam cũng tham gia vào hoạt động này, theo hai
hướng:
Một là, xuất phát từ các ngân hàng thương mại phải tiến hành xử lý tài sản thế chấp,
cầm cố của các doanh nghiệp bằng cách bán đấu giá để thu hồi vốn cho vay. Tài sản mà các
doanh nghiệp đem thế chấp cho Ngân hàng là các bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng
đất... còn tài sản cầm cố là các động sản như thiết bị, phương tiện vận tải, ... Việc bán đấu
giá chúng là không dễ dàng bởi:
+ Các tài sản này thường là cũ và lạc hậu
+ Tâm lý người mua thường e ngại khi xem xét có nên mua hay không các tài sản bị
đem bán đấu giá.
+ Ngoài các lý do trên, cũng có ít người hay doanh nghiệp có khả năng mua các tài sản
có giá trị lớn.
Hai là, dùng vốn kinh doanh để liên doanh, liên kết xây dựng hoặc mua một số bất động
sản như nhà kho, khu dân cư , ... để bán hoặc cho thuê.
Như vậy, phần lớn các hoạt động cho thuê của các Ngân hàng thương mại nêu trên
chỉ là giải quyết nợ tồn đọng trong các tài sản thế chấp, cầm cố mà Ngân hàng đã phải dùng
vốn kinh doanh của mình để xiết nợ. Qui mô hoạt động đầu tư của các Ngân hàng thương
mại trong lĩnh vực cho thuê chưa lớn song cũng đã một phần nào giải quyết dược việc thu
hồi nợ khó đòi và cũng đã mang lại một số lợi ích sau khi bán hoặc cho thuê các tài sản mà
họ đã góp vốn liên doanh hoặc mua nói trên.
Nghiên cứu nghiệp vụ phát triển cho thuê ở Việt Nam, người ta rút ra một số điều
sau:
* Nhu cầu thuê rất lớn, đa dạng, không chỉ ở những ngành mũi nhọn như dầu khí,
hàng không, hàng hải ... mà còn cả trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ các máy móc thiết bị cho sản xuất chế biến ...
* Tình trạng thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam là
phổ biến, làm cản trở quá trình đổi mới công nghệ thiết bị. Nhiều máy móc thiết bị của
doanh nghiệp đã rất lạc hậu ( từ 5-:- 10 thế hệ so với máy mới ) cần được thay thế hoặc trang
bị mới, nhằm nâng cao chất lượng, số lượng sản phẩm hàng hoá, giành được ưu thế cạnh
tranh trên thị trường.
* Chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam thể hiện đường lối Công nghiệp hoá-
Hiện đại hoá, tạo điều kiện cho nền kinh tế – kinh tế Việt Nam tiếp cận với thị trường thế
giới, tạo khả năng tiếp nhận và hoà nhập với cuộc cách mạng Khoa học – kỹ thuật trên thế
giới.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, trước khi có quyết định số 149/QĐ - NH5 ngày
27/5/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành thể lệ tín dụng
thuê mua và Nghị Định 16/CP ngày 02/5/2001 do Chính phủ ban hành về tổ chức và hoạt
động của công ty Cho thuê tài chính Việt Nam, các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã
nhận thức dược sự cần thiết phải thực hiện nghiệp vụ cho thuê nên đã tổ chức thành lập các
công ty cho thuê như :
+ Công ty thuê mua và tư vấn đầu tư Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (LINCO)
thành lập cuối năm 1994 sau đổi thành công ty cho thuê tài chính Ngân hàng ngoại thương
Việt Nam .
+ Công ty cho thuê tài chính quốc tế (VILC) liên doanh giữa Ngân hàng công thương
Việt Nam với công ty tài chính quốc tế (IFC) Ngân hàng tín dụng Nhật Bản (NCB), ngân
hàng ngoại thương Pháp (BFCE), công ty cho thuê công nghiệp Hàn Quốc (KILC). Đây
cũng là công ty cho thuê tài chính liên doanh quốc tế đầu tiên hoạt động ở Việt Nam, có
thời hạn hoạt động 50 năm và vốn hoạt động là 5 triệu USD, trong đó phía Việt Nam góp
19%, IFC 15%, PFCF 17%, NCB 17%, KILC 32%. Công ty này đặc biệt chú trọng giúp các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam tiếp cận với những thiết bị và công nghệ phù hợp .
+ Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành lập năm
1995. Thực tế, từ khi thành lập tới năm 1998, công ty mới chỉ chuẩn bị cơ sở vật chất, đến
1998 mới thực tế hoạt động.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt
Nam): thành lập công ty thuê mua và tư vấn đầu tư theo quyết định số 130/QĐ - NHNN
ngày 28/9/1994 của tổng giám đốc NHNo VN nhưng trên thực tế vẫn chưa hoạt động. Đến
năm 1998 công ty này được đổi tên thành công ty cho thuê tài chính NHNo& PTNTVN với
hai chi nhánh một ở Hà Nội một ở thành phố Hồ Chí Minh .
+ Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài ANZ -V-TRACT .
+ Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài đầu tiên được thành lập của Hàn Quốc
KEXIM (KCLC).
+ Công ty cho thuê tài chính Việt Nam (VINALEASE): đây là công ty liên doanh giữa
ngân hàng ngoại thương VN với hai đối tác nước ngoài là công ty cho thuê Nhật Bản (JLC)
và ngân hàng tín dụng dài hạn Nhật Bản (LTCB).
1.6.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động cho thuê:
Thông qua một số văn bản pháp lý liên quan tới quá trình hình thành và phát triển của
hoạt động cho thuê như :
- Quyết định số 507/TC ĐTXD ngày 22/7/1986 của bộ tài chính.
- Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của hội đồng bộ trưởng
- Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23/5/1994
- Thể lệ tín dụng thuê mua ban hành kèm theo quyết định số 149/QD – NH5 ngày 27/5/1995.
- Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam ban
hành kèm theo nghị định số64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ.
- Thông tư số 03/TT - NH5 ngày 9/2/1996 hướng dẫn thực hiện qui chế tạm thời về tổ chức
và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam
- Quyết định số 104/QĐ - NH5 ngày 2/5/1996 của ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
mẫu điều lệ công ty tài chính của tổng công ty Nhà nước.
- Thông tư số 61TC/TTCP ngày 23/10/1996 của bộ tài chính hướng dẫn nghĩa vụ thuế của tổ
chức và cá nhân nước ngoài có hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải
tại Việt Nam.
- Quyết định số 278/QĐ NH5 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc huỷ bỏ quyết định
149/QĐ - NH5 ngày 27/5/1995 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng
thuê mua.
- Nghị định số 16/2001/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 2/5/2001 ban hành thay thế nghị định
64/ CP của chính phủ về hoạt động cho thuê tài chính.
Chương II
Thực tế hoạt động cho thuê ở công ty cho thuê tài chính I
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2.1.Thực trạng môi trường kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính thành viên
của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.1.1. Nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị.
Kể từ sau đại hội VI, nước ta chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nền kinh tế mở. Lúc này các doanh nghiệp Việt Nam
buộc phải cạnh tranh để tồn tại. Giải pháp để cạnh tranh thắng lợi đã quá rõ ràng: Các doanh
nghiệp cần đổi mới máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, liên
tục cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, việc thực hiện những giải pháp trên
khó hơn việc chỉ ra nó rất nhiều. Nguyên nhân có rất nhiều, từ khách quan đến chủ quan,
nhưng kết quả là sau nhiều năm chuyển đổi, trình độ công nghệ Việt Nam vẫn thuộc dạng
lạc hậu nhất thế giới.
2.1.2. Vấn đề lãi suất.
Có thể nói, lãi suất cho vay của ngân hàng ảnh hưởng đến cả việc huy động và sử
dụng vốn của các công ty cho thuê. Đơn giản bởi hai lý do:
Thứ nhất, nguồn vốn vay Ngân hàng đặc biệt từ các Ngân hàng mẹ luôn là một nguồn
quan trọng, nhất là trong thực tế hiện nay thị trường vốn của Việt Nam chưa phát triển.
Thứ hai, nghiệp vụ cho thuê còn khá mới mẻ với khách hàng nếu so với nguồn tài trợ
bằng tiền vay từ ngân hàng. Các khách hàng luôn đặt cho thuê trong mối quan hệ với vay
tiền từ Ngân hàng, cụ thể qua việc so sánh phí thuê phải trả và lãi suất cho vay của Ngân
hàng. Xét về mặt lý thuyết, rõ ràng phí cho thuê phải cao hơn lãi suất cho vay cùng kỳ hạn vì
hoạt động cho thuê phát sinh nhiều chi phí hơn. Tuy nhiên khi lãi suất cho vay trung dài hạn
của Ngân hàng giảm xuống thì không thể không giảm phí thuê. Nếu công ty giữ nguyên phí
thuê thì khách hàng sẽ tính toán để chuyển sang vay trung dài hạn từ các Ngân hàng. Tình
hình này có thể nhận thấy khá rõ trong thực tế hoạt động của các công ty cho thuê tài chính
trong những năm 1998 - 1999.
Như đã biết Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách lãi
suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các tổ chưc tín dụng.
Trong khuôn khổ trần lãi suất cho vay, tổ chức tín dụng được quy định các mức lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung- cầu về vốn trong từng giai đoạn,
nhằm mở rộng tín dụng góp phần vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế. Trong năm 1998,
trần lãi suất cho vay bằng VNĐ của các Ngân hàng thương mại quốc doanh ở khu vực thành
thị được quy định là 1,2 -1,25%/ tháng thì mức phí thuê của các công ty cho thuê trong thời
kỳ này giao động từ 1,4-1,5%/ tháng. Kết quả tất yếu của sự chênh lệch này là hầu hết các
công ty cho thuê đều "vắng khách". Đến năm 1999, Ngân hàng Nhà nước liên tục hạ trần lãi
suất để thực hiện kích cầu và đến ngày 25/10/1999 trần lãi suất cho vay trung dài hạn của
các Ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ còn 0,85%/ tháng. Các công ty cho thuê đương
nhiên phải tiến hành hạ phí cho thuê theo, nhưng vẫn luôn cao hơn lãi suất cho vay từ 0,1-
0,2%/ tháng vì các công ty tính thuế bằng lãi suất cho vay cùng kỳ hạn cộng với phí cho
thuê, phí bảo hiểm...
Như vậy, lãi suất cho vay nói riêng và việc điều hành chính sách tiền tệ qua công cụ
lãi suất của Ngân hàng Nhà nước nói chung giống như một sự rủi ro đối với hoạt động của
các công ty cho thuê tài chính. Các công ty cho thuê hiện nay đều thụ động trong việc điều
chỉnh phí cho thuê theo sự thay đổi lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước. Các công ty
cho thuê đã xác định phí cho thuê bằng lãi suất cho vay cùng kỳ hạn cộng với các chi phí
liên quan đến hoạt động cho thuê là rất bất hợp lý. Thực tế hoạt động cho thuê ở nhiều quốc
gia phát triển thì giá của một hợp đồng cho thuê thường không cao hơn nhiều so với lãi suất
cho vay cùng kỳ hạn. Khi một khách hàng tự vay vốn Ngân hàng để tiến hành đầu tư máy
móc thiết bị thì phải chịu nhiều chi phí trung gian trong quá trình mua bán. Trong khi đó,
công ty cho thuê tài chính với thế mạnh trong hoạt động chuyên biệt của mình và mối quan
hệ với nhà cung cấp, có thể loại bỏ được chi phí này.
Do đó, việc xây dựng và xác định một chính sách lãi suất ( hay phí cho thuê ) dựa trên
cơ sở lãi suất cho vay cùng kỳ hạn của các Ngân hàng của các công ty cho thuê là rất cần
thiết nhằm tạo khả năng cạnh tranh trên thị trường vốn.
2.1.3. Tính cạnh tranh
Hiện nay ở Việt Nam có 9 công ty cho thuê tài chính. Như vậy, khác với thời kỳ
1995-1999 (thị trường tín dụng cho thuê còn tương đối mới mẻ, mức độ cạnh tranh chưa gay
gắt), với sự tham gia của 9 công ty bao gồm 5 thành viên của bốn Ngân hàng Quốc doanh
lớn, 2 liên doanh và 2 công ty 100% vốn nước ngoài, cuộc chiến giành thị phần đã đến hồi
gay gắt.
Có thể khái quát một số nét về hoạt động của các công ty cho thuê tại Việt Nam trong
hai năm 1999 - 2000 như sau (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước):
* Về tổng dư nợ cho thuê:
Dư nợ cho thuê của các công ty cho thuê tài chính 100% vốn Việt Nam năm 1999 là
202,5 tỷ VND, chiếm 42% so với toàn khối và tăng 198% so với 31/12/1998. Sang năm
2000, con số này là 500 tỷ VND chiếm 62,5% so với toàn khối và tăng 146,9% so với cùng
kỳ 1999. Như vậy số liệu cho thấy, mặc dù được thành lập sau nhưng dư nợ của nhóm công
ty này tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn khối.
Dư nợ cho thuê của các công ty cho thuê có vốn nước ngoài năm 1999 là 284 tỷ
VND, chiếm 58% so với toàn khối, giảm 46% so với 31/12/1998. Sang năm 2000, dư nợ của
nhóm công ty này là 299,9 tỷ USD, chiếm 37,5% so với toàn khối và tăng 5,6%. Nguyên
nhân chủ yếu là do hai công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài phải hạn chế
hoạt động trong năm do khó khăn của Ngân hàng mẹ ở chính quốc.
* Về nợ quá hạn
Năm 1999, nợ quá hạn của các công ty 100% vốn Việt Nam bằng 0, giảm 100% so
với mức dư nợ quá hạn tại thời điểm 31/12/1998 (18 tỷ VND). Sang năm 2000, nợ quá hạn
của các công ty này tăng lên 0,5 tỷ VND, chiếm 10,2% so với toàn khối và tăng 100% so với
1999.
Còn đối với các công ty có vốn nước ngoài, nợ quá hạn năm 1999 là gần 3,3 tỷ VND.
Sang năm 2000, nợ quá hạn của các công ty này là 4,4 tỷ VND, chiếm 89,8% so với toàn
khối và tăng 33,3% so với cùng kỳ 1999.
* Doanh số cho thuê:
Doanh số cho thuê toàn khối năm 2000 là 719,3 tỷ VND, tăng 47,85% so với năm
1999, cụ thể:
Doanh số cho thuê của các công ty 100% vốn Việt Nam năm 2000 là 566,5 tỷ VND,
chiếm 67,6% so với toàn khối và tăng 88,8% so với năm 1999 ( 300 tỷ VND).
Trong khi đó doanh số cho thuê của các công ty có vốn nước ngoài năm 2000 là
233,4 tỷ VND, chiếm 32,4% so với toàn khối và giảm 36% so với năm 1999 (364,8 tỷ
VND).
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, trong năm 1999, hầu hết các công ty cho thuê
đều có lợi nhuận trước thuế (trừ Ngân hàng ngoại thương Việt Nam) và sang năm 2000, một
số công ty đã tạo được lợi nhuận trích lập các quỹ.
Như vậy, các công ty cho thuê thành viên của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
đã hoạt động hiệu quả hơn so với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ngay khi mới thành
lập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do có thời gian hoạt động thí điểm trước đây
nên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và đã tạo lập được mối quan hệ bước đầu với khách
hàng. Một số đã tranh thủ được mạng lưới khách hầng truyền thống từ Ngân hàng mẹ.
Đối với công ty có vốn nước ngoài, hoạt động kém hiệu quả do tỷ lệ chi phí vận hành
còn cao, các chi phí quảng cáo tiếp thị lớn trong khi chưa mở rộng được hoạt động cho thuê.
Hiện nay các công ty cạnh tranh nhau rất quyết liệt thông qua phí cho thuê và uy tín
của Ngân hàng mẹ. Mỗi công ty luôn có khách hàng truyền thống và uy tín của mình. Tuy
nhiên, do dịch vụ cho thuê là mới và quy mô của các công ty tương đương nhau (vốn tự có
đều khoảng 55-70 tỷ VND) nên mỗi công ty phải tính rất kỹ giá cả mà cụ thể là phí cho thuê
của các công ty khác. Đến thời điểm đầu tháng năm năm 2000, nhiều công ty đã hạ phí cho
thuê với khách hàng truyền thống xuống bằng sàn lãi suất cho vay trung dài hạn của ngân
hàng mẹ.
Tóm lại, sự cạnh tranh trên thị trường cho thuê sẽ ngày càng gay gắt. Mặc dù đã có
những thành công nhất định trong vài năm đầu hoạt động nhưng các công ty cho thuê thành
viên của các Ngân hàng thương mại quốc doanh tiếp tục bó hẹp thị trường của mình trên cơ
sở khách hàng truyền thống của ngân hàng mẹ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trước các công
ty có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, do mới hoạt động trong thời gian ngắn, các công ty
có vốn đầu tư nước ngoài chấp nhận chịu lỗ và chỉ phục vụ được các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Nhưng trong tương lai không xa, họ sẽ vươn tới thị
trường của các công ty cho thuê tài chính thành viên của 4 Ngân hàng thương mại quốc
doanh. Với lợi thế quan hệ rộng rãi với các nhà sản xuất nước ngoài, họ có thể đánh bật các
công ty cho thuê tài chính thành viên của các Ngân hàng ra khỏi thị trường truyền thống.
Vấn đề này đòi hỏi các công ty thuộc tứ đại Ngân hàng Việt Nam phải có những chiến lược
kinh doanh đúng đắn để đảm bảo đứng vững và mở rộng thị phần.
2.1.4. Khách hàng khó tính.
Các khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của các công ty cho thuê tài chính
đều rất khó tính. Tại sao lại như vậy? Để có được một câu trả lời chính xác, chúng ta sẽ xem
xét hoạt động cho thuê dưới góc độ khách hàng.
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị cũng như thay
mới hoàn toàn công nghệ tại các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn. Trong khi đó, các doanh
nghiệp đều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn huy động vốn như vốn tự có, vay
trung dài hạn từ các Ngân hàng,...
Thứ hai, vấn đề phí cho thuê gần như đã được các công ty cho thuê giải quyết ổn thoả
khi phí cho thuê được giảm xấp xỉ sàn lãi suất cho vay trung dài hạn mà Ngân hàng Nhà
nước quy định.
Thứ ba, các doanh nghiệp cũng đã nhận thấy nhiều lợi thế của cho thuê như vấn đề
thuế thu nhập, khấu hao nhanh, không cần tài sản thế chấp,...
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp, hiện tại vẫn coi cho thuê chỉ là hình thức tài trợ
cuối cùng khi họ đưa ra phương thức tài trợ vốn. Qua nhiều phân tích, có thể tóm gọn một số
nguyên nhân sau:
+Một là, các doanh nghiệp hiện nay đa phần đều chưa thực sự hiểu đúng về nghiệp
vụ cho thuê. Rất nhiều giám đốc doanh nghiệp không phân biệt được cho thuê tài sản và mua
trả góp. Họ cho rằng tài sản đi thuê chỉ đem lại lợi ích cho họ từ khoảng thời gian khấu hao
còn lại. Bên cạnh đó, họ không thấy được bản chất của vấn đề phí đi thuê tài sản. Trong
nhận thức của các doanh nghiệp, phí thuê luôn luôn được so sánh với lãi suất cho vay cùng
kỳ hạn của các Ngân hàng thương mại. Nhìn về danh nghĩa, phí cho thuê tuy có cao hơn lãi
suất cho vay bằng tiền một chút nhưng thực chất lại thấp hơn nhiều nếu đầu tư vào tài sản để
thế chấp vay vốn Ngân hàng.
+ Hai là, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có tâm lý thích sử dụng vốn của Ngân
hàng. Sở thích trên bắt nguồn từ cơ chế cho vay hiện nay cho phép việc gia hạn nợ thậm chí
đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ đối với các khoản cho vay quá hạn. Các doanh nghiệp, đặc biệt
các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong các ngành chủ đạo làm ăn không hiệu quả, rõ
ràng coi đây như là một lợi ích quan trọng khi vay tiền từ các Ngân hàng thương mại quốc
doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp phần lớn đều thiếu vốn lưu động, do đo họ muốn mua để
sở hữu qua đó có thể thế chấp để vay tiền từ Ngân hàng.
Chính những hạn chế trên dẫn đến sự khó tính của khách hàng khi tiến hành giao dịch
với các công ty cho thuê tài chính. Và sự khó tính này phần nào tạo ra sự thiếu sôi động trên
thị trường cho thuê.
2.2. Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam (Agriculture Leasing Company I - ALC I)
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường của
Việt Nam đặt ra trước mắt rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. áp lực đòi hỏi phải có sự
tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao phát sinh từ nhiều phía: nguy cơ tụt hậu, tỷ lệ tăng dân số
cao, nạn thất nghiệp trầm trọng...
Điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đề ra những phương hướng, chiến lược cụ
thể trước mắt và lâu dài trong công cuộc đổi mới đất nước, đưa đất nước phát triển theo
hướng kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Để làm được điều này, nhu cầu
tiêu dùng của người dân phải tăng lên, đi cùng với nó là sản xuất phát triển.
Song hiện nay, Việt Nam mới chủ yếu phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhu
cầu vốn lại rất lớn. Nếu chỉ dựa hoàn toàn vào các Ngân hàng thương mại hay sử dụng
phương pháp chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ thì: thứ
nhất, nhu cầu vốn vẫn không đủ; thứ hai, đây mới chỉ là giải pháp tạm thời, mang tính tình
huống. Do đó, các doanh nghiệp để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, họ
luôn phải tìm kiếm những nguồn vốn ổn định và lâu dài với chi phí vốn thấp.
Nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã cho thấy sự cần thiết khách quan và
tiềm năng phát triển của hoạt động cho thuê tài sản ở Việt Nam. Và trên thực tế, hoạt động
này được chính thức thừa nhận ở nước ta từ năm 1991 (theo thông tư số 34/TC DN ngày
31/7/1991). Xuất phát từ tình hình thực tế trên, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam đã xúc tiến nghiên cứu hoạt động này và áp dụng vào thực tế. Công ty thuê
mua và tư vấn đầu tư của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam được
thành lập theo quyết định số 130/QĐ - NHNo ngày 28/9/1994 và qui chế tổ chức hoạt động
của công ty thuê mua và tư vấn đầu tư cũng đã được xác định tại quyết định số 501/QĐ -
NHNo ngày 4/11/1994 của tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
Việt Nam. Các qui định đó như sau:
- Công ty thuê mua và tư vấn đầu tư trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn Việt Nam . Công ty chỉ là đại diện pháp nhân và hạch toán kinh tế nội bộ.
- Công ty thuê mua và tư vấn đầu tư có các nhiệm vụ sau:
+ Được uỷ quyền tập trung các nguồn vốn đầu tư.
+ Góp vốn liên doanh, liên kết theo uỷ quyền của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt
Nam.
+ Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê.
- Mô hình tổ chức bộ máy của công ty bao gồm hai phòng: phòng kế toán và phòng
nghiệp vụ kinh doanh.
Sau khi có Nghị định 64 /CP của Chính phủ cùng với thông tư 03/TT - NH5 của
Ngân hàng Nhà nước và qua kinh nghiệm của một số công ty cho thuê trong và ngoài nước
khác thì công ty thuê mua và tư vấn đầu tư phải được tổ chức lại để có thể hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Do đó, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đã
quyết định thành lập công ty cho thuê tài chính trực thuộc.
Theo quyết định thành lập số 238/QĐ - NHNN 5 ngày 14/7/1998 của thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, hai công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam được thành lập bao gồm:
+ Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam đặt trụ sở tại thành phố Hà Nội.
+ Công ty cho thuê tài chính II - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam đặt trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh.
Riêng công ty cho thuê tài chính I, theo giấy phép kinh doanh số 112447 do sở kế
hoạch và đầu tư Hà Nội cấp ngày 7/9/1998 với mức vốn điều lệ 65 tỷ VNĐ, công ty hoạt
động theo các văn bản về hoạt động cho thuê tài chính trước đó và điều lệ hoạt động theo qui
định số 492 - QĐ/ HĐQT do thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định; tổ chức và
hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước và các luật về Ngân hàng và công ty tài chính,
các qui định của pháp luật hiện hành, điều lệ của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
- Hoạt động chủ yếu của Công ty cho thuê tài chính I bao gồm: cho thuê máy móc,
thiết bị và các động sản khác ( gọi chung là tài sản cho thuê ) phục vụ sản xuất kinh doanh
và các dịch vụ của các ngành kinh tế, ưu tiên phục vụ phát triển kinh tế nội ngành, các ngành
nông - lâm - ngư nghiệp, nhất là đối với các khách hàng truyền thống.
- Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và các chi nhánh,
văn phòng đại diện của công ty là một pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại
Ngân hàng Nông nghiệp, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động kinh doanh và những cam kết của mình.
- Địa bàn hoạt động của Công ty cho thuê tài chính I từ Huế trở ra, được thành lập các
chi nhánh, văn phòng đại diện tại các khu vực khi được hội đồng quản trị Ngân hàng Nông
nghiệp phê duyệt và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận.
- Thời hạn hoạt động của công ty là 70 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động.
Việc gia hạn thời hạn hoạt động của công ty do hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp
quyết định và phải được thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
- Nghiệp vụ hoạt động của công ty theo qui định của nghị định 16/CP của Chính phủ
bao gồm:
+ Được phép huy động vốn từ các nguồn sau:
* Được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo qui định của
Ngân hàng Nhà nước.
* Được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác có kỳ hạn trên một
năm để huy động vốn của tổ chức cá nhân trong và ngoài nước khi được thống đốc Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận.
* Được vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
* Được nhận các nguồn vốn khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
+ Cho thuê tài chính đối với khách hàng theo qui định của pháp luật hiện hành về cho
thuê tài chính.
+ Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những hoạt động, dịch vụ có liên quan
đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.- Thực hiện các nghiệp vụ khác do tổng giám đốc Ngân
hàng Nông nghiệp giao và phải được Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng của
Nhà nước cho phép.
- Vốn vay:
+ Vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
+ Vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước theo qui định của
pháp luật hiện hành.
+ Phát hành trái phiếu và giấy tờ có giá khác khi được Ngân hàng Nông nghiệp chấp
thuận và được thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
+ Tổng nguồn vốn đi vay so với vốn tự có không được vượt quá tỷ lệ qui định hiện
hành của Ngân hàng Nhà nước.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý:
Công ty chịu sự quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp về chiến lược phát triển, tổ chức
và nhân sự, chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước về nội dung và phạm vi hoạt động và
chịu sự thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng Nhà nước có
thẩm quyền.
- Tổ chức bộ máy của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
Ban Giám đốc
Phòng
t.chí
nh
Phòng
kinh
doanh
Phòng
tổng
hợp
Bộ
phận
k.toán
- Tính cho đến thời điểm hiện tại, tại trụ sở chính công ty có 4 phòng và 32 biên chế. Công
ty có giám đốc, phó giám đốc, 4 trưởng phòng, 4 phó phòng; tại chi nhánh ở Hải Phòng có
12 biên chế. Mặc dù được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngày 14/7/1998
nhưng công ty chỉ ổn định tổ chức, đào tạo nghiệp vụ, nghiên cứu nhu cầu cho thuê và khả
năng đáp ứng của công ty và chỉ thực tế đi vào kinh doanh kể từ đầu năm 1999.
2.3 Quá trình thực hiện một giao dịch cho thuê tại công ty cho thuê tài chính I- Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
2.3.1/ Tiếp nhận thông tin:
Trong một giao dịch cho thuê, luôn luôn ít nhất phải có hai bên tham gia đó là khách
hàng xin thuê và người cho thuê. Do đó, trước hết khách hàng có nhu cầu xin thuê tài sản sẽ
thiết lập một bộ hồ sơ xin thuê bao gồm những hồ sơ sau:
Hồ sơ pháp lý:
- Quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh, điều lệ hoạt động của doanh
nghiệp.
- Quyết định bổ nhiệm hoặc công nhận tổng giám đốc (giám đốc), kế toán trưởng.
Hồ sơ xin vay:
- Đơn đề nghị thuê tài chính.
- Dự án đầu tư được duyệt hoặc phương án sản xuất kinh doanh là cơ sở xin thuê tài
chính có khả năng thực thi, có hiệu quả.
- Các tài liệu về tài sản thuê và văn bản thoả thuận với bên cung ứng tài sản.
- Báo cáo về tình hình tài chính hai năm liền kề và quý gần kề với quý thực hiện thuê tài
chính trong năm kế hoạch hiện hành. Các lần sau chỉ cần gửi báo cáo tháng hoặc quý liền kề.
- Bảng kê dư nợ vay, thuê các tổ chức tín dụng và các khoản phải trả khác đến ngày xin
vay.
- Bảng kê vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp nếu có.
2.3.2. Công tác thẩm định hồ sơ xin thuê:
Cán bộ chuyên quản thực hiện thẩm định và lập báo cáo thẩm định, ghi rõ ý kiến và
lý do đồng ý hay không đồng ý trình trưởng phòng kinh doanh. Trưởng phòng kinh doanh có
trách nhiệm kiểm tra bộ hồ sơ và báo cáo kết quả thẩm định. Sau khi có kết quả thẩm định,
trưởng phòng kinh doanh ghi rõ ý kiến đồng ý hoặc không đồng ý trình cấp trên có thẩm
quyền xem xét quyết định.
2.3.3. Phê duyệt và thông báo
Hồ sơ sau khi được giám đốc phê duyệt, cán bộ chuyên quản thông báo cho khách
hàng để thực hiện các bước tiếp theo của quy trình cho thuê.
Nếu không cho thuê, công ty thông báo rõ lý do và trả lại bộ hồ sơ cho khách hàng
thuê.
2.3.4. Đàm phán, ký kết và đăng ký hợp đồng cho thuê
Cán bộ chuyên quản trực tiếp đàm phán và soạn thảo các điều khoản trong hợp đồng
cho thuê với bên thuê. Sau khi thống nhất nội dung hợp đồng đi đến ký kết hợp đồng.
Trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và văn bản thoả thuận của bên thuê đối với
nhà cung cấp về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, cách thức, thời gian và địa điểm giao
nhận lắp đặt và bảo hành tài sản thuê, cán bộ chuyên quản soạn thảo hợp đồng mua bán tài
sản. Sau khi thống nhất nội dung hợp đồng đi đến ký kết.
Sau khi hợp đồng cho thuê và hợp đồng mua tài sản đã được ký kết, phòng kế toán
căn cứ vào hợp đồng và chứng từ hoá đơn hợp lệ thực hiện công tác hạch toán kế toán và
thanh toán tiền mua tài sản.
2.3.5. Giao nhận và quản lý tài sản thuê.
Bên thuê trực tiếp nhận tài sản thuê từ người bán theo thoả thuận trong hợp đồng thuê
tài chính, hợp đồng mua tài sản. Trong một số trường hợp có thể nhận từ bên cho thuê. Bên
thuê chịu trách nhiệm kiểm tra tình trạng kỹ thuật của tài sản thuê theo điều kiện đã được
thoả thuận trong hợp đồng mua tài sản. Nếu phát hiện tài sản thuê không đáp ứng được các
đặc tính kỹ thuật, chủng loại đã được thỏa thuận trong hợp đồng mua tài sản, bên thuê có
quyền từ chối nhận hàng bằng văn bản, nêu rõ lý do từ chối gửi cho bên cho thuê và nhà
cung cấp.
Việc giao nhận và kiểm tra tình trạng kỹ thuật của tài sản thuê phải có sự chứng kiến
của bên cho thuê (phòng kinh doanh). Kết thúc kiểm tra giao nhận phải có biên bản giao
nhận có đầy dủ chữ ký của các bên có liên quan.
Phòng kinh doanh làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài sản và đăng ký bảo hiểm tài
sản theo quy định, đính ký hiệu sở hữu tài sản.
2.3.6. Kiểm tra sau khi cho thuê.
Sau khi hiệu lực hợp đồng cho thuê được bắt đầu, cán bộ chuyên quản kiểm tra sau
khi cho thuê bao gồm: Kiểm tra lần đầu (sau khi bên thuê nhận tài sản thuê 30 ngày), kiểm
tra định kỳ (được thực hiện phù hợp với kỳ thanh toán tiền thuê) và kiểm tra đột xuất do
trưởng phòng kinh doanh đề xuất với giám đốc công ty quyết định khi cần thiết.
Mỗi lần kiểm tra, cán bộ kiểm tra phải lập biên bản và báo cáo với trưởng phòng kinh
doanh để có ý kiến xử lý các vi phạm (nếu có) trình giám đốc quyết định. Biên bản kiểm tra
cần viết ngắn gọn, nêu rõ nội dung sai phạm và giải pháp chỉnh sửa. Sau đó lưu vào bộ hồ sơ
thuê tài chính của từng món vay.
2.4. Thực tế hoạt động cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I - Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chính thức đi vào hoạt động được hơn 4 năm, Công ty cho thuê tài chính I bước đầu
đã khẳng định được hướng đi đúng đắn của mình. Với số lượng hợp đồng cho thuê tăng rất
đáng kể cho thấy uy tín của công ty ngày càng được mở rộng, khách hàng xin thuê ở công ty
ngày một gia tăng. Song nếu nhìn vào cơ cấu loại hình doanh nghiệp cho thuê ta thấy rằng tỷ
phần các khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước ngày một giảm đi so với công ty trách
nhiệm hữu hạn (TNHH) và doanh nghiệp tư nhân (đặc biệt so với công ty TNHH). Điều này
gây bất lợi cho công ty ở chỗ, thực tế đối với các doanh nghiệp Nhà nước, khả năng trả nợ
cao hơn và mức độ rủi ro của loại hình doanh nghiệp này cũng thấp hơn so với các loại hình
doanh nghiệp còn lại (như doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác
xã) do được Nhà nước bảo trợ. Song từ khi có luật mới quy định rằng các doanh nghiệp Nhà
nước có thể vay vốn ngân hàng mà không cần thế chấp tài sản thì hình thức cho thuê tài sản
của công ty đối với các doanh nghiệp Nhà nước không còn được hấp dẫn như trước nữa.
Điều này đã dẫn đến một thực tế là các doanh nghiệp Nhà nước thích vay vốn qua ngân hàng
hơn là thuê tài sản của các công ty cho thuê, do đó số lượng khách hàng là doanh nghiệp
Nhà nước thuê tài sản ở công ty giảm đi dẫn đến làm thay đổi cơ cấu dư nợ của công ty.
Bảng phân loại số lượng khách hàng thuê
Loại hình doanh nghiệp
Số dự án xin thuê
2001 2002 2003
1. Doanh nghiệp Nhà
nước.
18 42.86% 28 12.28% 48 13.87%
2. Doanh nghiệp tư nhân. 8 19.05% 8 3.51% 10 2.89%
3. Công ty cổ phần. 0 0% 12 5.26% 24 6.94%
4. Công ty TNHH. 14 33.33% 173 75.88% 254 73.41%
5. Hợp tác xã. 2 4.76% 7 3.07% 10 2.89%
Tổng 42 100% 228 100% 346 100%
Thực tế này được xem xét kỹ hơn khi so sánh doanh số cho thuê và cơ cấu dư nợ của
mỗi loại doanh nghiệp. Mặc dù tính cho đến quý I/2003 doanh số cho thuê đối với doanh
nghiệp Nhà nước tăng lên đến 33133 triệu VNĐ song dư nợ chỉ có 22454 triệu (giảm 16%
so với năm 2002). Trong khi đó, doanh số cho thuê đối với công ty TNHH, công ty cổ phần
và doanh nghiệp tư nhân đều tăng gấp từ: 1,44 đến 2,9 lần so với năm 2002 (công ty cổ phần
tăng 2,084 lần; công ty TNHH tăng 1,44 lần và doanh nghiệp tư nhân tăng 2,9 lần). Và cùng
với doanh số cho thuê, dư nợ của các công ty này cũng tăng lên rất nhiều. Rõ ràng là hoạt
động cho thuê của công ty đã mở rộng sang các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Đây cũng là một xu thế tất yếu chung đối với loại nghiệp vụ này. Nhất là lại áp dụng vào
điều kiện kinh tế của Việt Nam, chủ yếu phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xem xét bảng tính phần trăm dư nợ từng ngành so với tổng dư nợ thì ta đặc biệt thấy
rằng việc áp dụng hình thức cho thuê tài sản đối với các công ty TNHH và công ty cổ phần
tăng lên đáng kể. Điều này đưa đến một vấn đề là khả năng trả nợ của các công ty này liệu
có đảm bảo một hệ số an toàn hay không?
Bảng tính phần trăm dư nợ của từng loại doanh nghiệp so với tổng dư nợ
Đơn vị tính: %
STT Loại doanh nghiệp 2002 2003 QI/2004
1
2
3
4
5
Doanh nghiệp Nhà nước
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
Doanh nghiệp tư nhân
Hợp tác xã
66,2
0
27
5,3
1,5
27,16
3,89
63,98
2,43
2,54
19,13
6,20
68,42
3,83
2,42
Tổng 100% 100% 100%
Trong năm 2002,do doanh số cho thuê còn nhỏ (27.344 triệu VNĐ) nên thu nhập chủ
yếu của công ty là thu lãi tiền gửi tại NHNo Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác trong
nước.
Sang năm 2003, quy mô cho thuê của công ty tăng lên (tổng giá trị tài sản cho thuê
tăng 283,7% so với năm 2002), do đó, công ty đã phải vay thêm vốn của NHNo Việt Nam
với số tiền là 21,566 tỷ VNĐ và chiếm dụng vốn 13,880 tỷ VND. Dư nợ năm 2001 đạt 98,427 tỷ
VNĐ đạt 151,4 % kế hoạch và tăng 427,6% so với cùng kỳ năm 2002.
Thu nợ năm 2002 đạt 29,501 tỷ VND bằng 681,4% so với năm 2001. Dư nợ bình
quân một cán bộ tín dụng đạt 14,061 tỷ VND.
Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001-2002
Đơn vị tính: Triệu VNĐ
( Nguồn: Báo cáo của công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp&PTNT Việt
Nam ).
Sang năm 2003, thu nhập từ lãi và phí cho thuê có sự tăng trưởng rất đáng kể
(+520%) song thu lãi tiền gửi cũng giảm đi nhiều (-91,15%). Do số lượng các hợp đồng xin
thuê của công ty tăng lên (từ 42 lên 288 hợp đồng, tăng 585,7%) do đó chi phí nghiệp vụ cho
ST
T
Chỉ tiêu
2002 2003
Chênh lệch
2003/ 2002
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
I Tổng thu nhập
6264 100 5722,664 100
(-
541,336)
-8,64
1 Thu lãi cho thuê 847 13,52 5242,828 91,61 4395,828 520
2 Thu lãi tiền gửi 5416 86,46 479,396 8,38 -
4936,604
-91,15
3 Thu khác 1 0,02 0,44 0,01 (-0,56 ) -56
II Chi phí 1150 100 2885,084 100 1735,084 150,90
1 Trả lãi tiền vay 39 3,39 139,678 4,84 100,678 258,15
2 Chi nghiệp vụ 299 26,00 420,018 14,56 121,018 40,47
3 Chi lương 321 27,96 1893,55 65,63 1572,55 489,9
4 Chi bảo hiểm 11 1,00 26,044 0,90 15,044 136,76
5 Chi tài sản 462 40,17 380,153 13,18 -81,847 17,70
6 Chi khác 7 0,61 6,775 0,23 -0,225 -3,20
7 Chi dvụ ttoán &
NQ
1 0,09 11,436 0,40 10,436 1043,6
8 Thuế, phí, lệ phí 9 0,70 7,205 0,26 -1,795 -19,94
III Kết quả kinh
doanh
5114 2837,580 -
2276,420
-44,50
thuê tăng (40,47%). Mặc dù thu lãi và phí tăng mạnh song tổng thu nhập từ hoạt động cho
thuê giảm (-8,64%) và tổng chi phí của công ty tăng (150,7%), dẫn đến kết quả hoạt động
kinh doanh của công ty giảm (-44,5%). Nguyên nhân là hầu hết các loại chi phí đều tăng và
tăng với tốc độ cao, đặc biệt trong đó, chi lương cho nhân viên và trả lãi tiền vay tăng vọt
(489,9% và 251,15%) tỷ VND.
Bảng dư nợ hoạt động cho thuê của các công ty cho thuê tài chính năm 2002
Đơn vị: tỷ VNĐ
Stt Tên công ty CTTC
Doanh số cho
thuê
Dư nợ cho
thuê
Nợ quá hạn
% % %
1 Cty CTTC quốc tế Việt Nam (VILC) 148,4 20,63 149,3 18,66 0,40 8,16
2 Cty CTTC Kexim Việt Nam (KVLK) 77,0 10,7 143,6 17,95 4,00 81,63
3 Cty CTTC ANZ- VTRAC 8,0 1,12 7 0,88 0 0
4 Cty CTTC NH Công thương Việt
Nam
87,1 12,11 90,8 11,35 0 0
5 Cty CTTC NH Ngoại thương Việt
Nam
52,5 7,30 42,3 5,29 0,28 5,72
6 Cty CTTC NH Đầu tư và phát triển
VN
63,0 8,76 91 11,38 0,07 1,43
7 Cty CTTC I NH No và PPNT Việt
Nam
104,9 14,58 98,4 12,30 0 0
8 Cty CTTC II NH No và PTNT Việt
Nam
178,4 24,8 177,5 22,19 0,15 3,06
Cộng 719,3 100 799,9 100 4,9 100
Nếu tính chung cả hai công ty cho thuê của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam thì doanh số cho thuê là lớn nhất, chiếm 39,38% tổng doanh số cho
thuê. Song nếu tính riêng doanh số cho thuê của công ty cho thuê tài chính I thì so với các
công ty cho thuê tài chính khác, thị phần của công ty đạt mức khá và hơn nữa, công ty không
có nợ quá hạn.
Nhìn chung, nếu mới chỉ xem xét ở một vài điểm chính thu lãi từ hoạt động cho thuê
cao, mức dư nợ cho thuê cao thị phần tương đối lớn, số lượng khách hàng tăng ta có thể
nhận xét khái quát rằng hoạt động cho thuê của công ty phát triển đúng hướng. Song để có
thể chi tiết hơn các hoạt động của công ty, ta sẽ xem xét hoạt động cho thuê của công ty
thông qua những khía cạnh cơ cấu tài sản thuê và chất lượng các khoản cho thuê của công
ty.
Cơ cấu tài sản thuê (2002-2003)
Đơn vị tính: triệu đồng
S
T
T
Nội dung
Số dự án
Doanh số
cho thuê
Doanh số
thu nợ
Dư nợ Tỷ lệ %
2002 2003 2002 2003 2002 2003 2002 2003 2002 2003
1
Ô tô các loại 22 238 17509 91168 3216 24270 14292 85040 62,1 81,5
2
Thiết bị y tế 01 03 4353 0 602 607 3751 3144 16,2 3,2
3
Thiết bị
Xâydựng
16 20 5322 5751 478 3014 4845 9775 21,1 9,9
4
Thiết bị dây
Chuyền sx
0 20 0 6279 0 1120 0 3618 0 3,6
5
Tàu thuỷ 0 2 0 1716 0 440 0 1275 O 1,3
6
Thiết bị
văn phòng
03 05 160 0 33 50 127 75 0,6 0,2
Tổng 42 288 27344 104914 4329 29501 23015 98427 100 100
Từ cơ cấu tài sản cho thuê, ta nhận thấy, hướng đầu tư của công ty trong thời gian
hoạt động vừa qua là tập trung chủ yếu vào những tài sản dễ quản lý, nhanh chóng phát huy
hiệu quả đó là những phương tiện vận tải, ô tô du lịch, thiết bị xây dựng và dây chuyền sản
xuất. Nhưng theo bảng cơ cấu tài sản cho thuê này, số lượng ô tô các loại chiếm tỷ trọng lớn
so với toàn bộ đi thuê.
Năm 2001, cho thuê nội ngành mới chỉ chiếm 17,28% tổng dư nợ, song đó cũng là cơ
sở để đội ngũ cán bộ công ty thực hành những bài tập sự đầu tiên, tạo đà để mạnh dạn đầu tư
tiếp theo. Qua thuê nội ngành, các chi nhánh thành viên cũng hiểu rõ hơn về nghiệp vụ cho
thuê tài chính.
Nếu phân tích theo cấp quản lý
S
T
T
Nội dung
Số dự án
Doanh số
cho thuê
Doanh số
thu nợ
Dư nợ Tỷ lệ
%
2002 2003 2002 2003 2002 2003 2002 2003 2002 2003
1
Cho thuê DN
Nội ngành
5 0 4295 0 318 846 3977 3130 17,28 3,18
2
Cho thuê DN
Ngoại ngành
37 288 23049 104914 4011 28655 19038 95297 82,72 96,82
Tổng 42 288 27344 104914 4329 29505 23015100 98427 100 100
Đến năm 2002, không có một dự án cho thuê nội ngành nào song không phải vì thế
mà uy tín của công ty bị thu hẹp trong lĩnh vực này mà quan trọng hơn, công ty đã tìm thấy
khách hàng thuê cho mình.
Khai thác thế mạnh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
có hệ thống chi nhánh rải rác khắp đất nước, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam trong văn bản 135 về việc uỷ thác cho thuê, kết quả ban đầu đã cho
thuê thông qua uỷ thác được là 1.004 triệu, chiếm 4,4 % so với tổng dư nợ.
Trong hơn hai năm hoạt động nhìn chung về cơ bản chất lượng hoạt động cho thuê
của công ty là tốt. Trong hai năm 2002-2003 tỷ lệ nợ quá hạn là rất thấp (0,1%), hầu hết
khách hàng đều thực hiện trả nợ thuê đầy đủ, đúng hạn, chỉ có một số khách hàng chậm
thanh toán tiền thuê, nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn. Điều này cho thấy công tác
thẩm định hồ sơ xin vay của cán bộ tín dụng công ty là tốt.
Nhìn tổng thể, hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm qua đạt được kết
quả toàn diện, dư nợ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước và có những chuyển biến
tích cực. Hầu hết các chỉ tiêu đã hoàn thành vượt mức trung ương giao.
Đơn vị VNĐ
Năm Dư nợ trong hạn Dư nợ quá hạn Tỷ lệ %
2002
2003
QI/2004
23.015.000.000
98.427.000.000
11751024633
0
98.427.000
115.411.769
0
0,1%
0,098%
Trên đây là toàn bộ tình hình hoạt động của công ty trong thời gian hơn hai năm vừa
qua. Về cơ bản, hoạt động kinh doanh của công ty là tốt và có tiềm năng. Song bên cạnh đó,
nó cũng có một số hạn chế mà công ty chưa khắc phục được. Thông qua đánh giá thực trạng
hoạt động của công ty, ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này.
2.5. Đánh giá tình hình cho thuê ở Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam:
2.5.1. Những kết quả đạt được
2.5.1.1. Qui mô khách hàng và doanh số cho thuê ngày một tăng
Quy mô khách hàng ngày càng được mở rộng số lượng hợp đồng thuê tài sản của
công ty ngày một tăng lên, chứng tỏ công ty đã bắt đầu dần dần có uy tín trên thị trường.
Hiện nay, đối tượng khách hàng chủ yếu của công ty là các doanh nghiệp TNHH và công ty
cổ phần. Mặc dù tỷ phần các khách hàng của công ty thì tăng không đáng kể. Do đó, một
mặt công ty vẫn cố gắng thực hiện tốt việc quản lý và giữ vững mối quan hệ với các khách
hàng đang giao dịch. Mặt khác, công ty tiến hành nhiều biện pháp nhằm thu hút các doanh
nghiệp quốc doanh như: Công ty điện tử công nghiệp Hà nội, Công ty vận chuyển khách
hàng du lịch và taxi, công ty công trình giao thông 128, tổng công ty Muối. Bên cạnh đó,
công ty cũng chủ động mở rộng cho thuê với đối tượng là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh có vốn hoạt động và giá trị tài sản cho thuê tương đối nhỏ, song phải trả trước 30 -
40% tổng giá trị tài sản (và còn có thể ký quỹ 10 - 15% tổng giá trị tài sản nếu thấy có rủi ro
xẩ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn V.pdf