Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Liêm: Báo cáo tốt nghiệp
"Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát
triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm"
2
mục lục
Nội dung Trang
- Lời mở đầu : 3
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 3
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu khoá luận 5
- Chương I : Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất
và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
6
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường 6
1. Khái niệm hộ sản xuất 6
2. Vai trò của của HSX trong nền kinh tế thị trường 7
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh
tế HSX
9
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
HSX
11
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng 11
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với HSX 13
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân
hàng và HSX
16
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX 17
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hà...
87 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Liêm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp
"Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát
triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm"
2
mục lục
Nội dung Trang
- Lời mở đầu : 3
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 3
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu khoá luận 5
- Chương I : Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất
và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
6
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường 6
1. Khái niệm hộ sản xuất 6
2. Vai trò của của HSX trong nền kinh tế thị trường 7
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh
tế HSX
9
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
HSX
11
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng 11
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với HSX 13
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân
hàng và HSX
16
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX 17
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng 17
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với HSX
18
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân
hàng đối với HSX
23
- Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
27
I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 27
1. Đặc điểm kinh tế xã hội tác động đến kinh doanh kinh
doanh của NHNo huyện Từ Liêm
27
2. Quá trình hình thành phát triển và chức năng của NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm
29
3
3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm
31
II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo &
PTNT Hà Tây
32
1. Huy động vốn 32
2. Hoạt động cho vay 34
III. Thực trạng tín dụng đối với HSX tại NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm
40
1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo
huyện Từ Liêm
40
2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo
huyện Từ Liêm trong thời gian qua
42
IV. Đánh giá về hoạt động tín dụng đối với HSX tại
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
58
1. Kết quả đạt được 58
2. Hạn chế trong hoạt động cho vay hộ sản xuất 62
- Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất
68
I. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX 68
1. Chính sách tín dụng đối với HSX của Nhà nước 68
2. Định hướng chung của NHNo & PTNT Việt Nam 68
3. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây 69
4. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX của
NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây
70
II. Một số giải pháp cơ bản 71
1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với
HSX
71
2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay HSX 81
3. Giải pháp bổ trợ 84
III. Kiến nghị 86
1. Kiến nghị với Nhà nước 86
2. Kiến nghị với chính quyền địa phương 88
3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam 89
Kết luận 90
Tài liệu tham khảo 91
4
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT
huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát
triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn
chồng chất, nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh
nghiệp Nhà nước và các HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân
hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp và chính sách giao đất
sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị trường hoạt động cũ bị thu
hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện
chuyển hướng trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là
"nông nghiệp, nông thôn và nông dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng
đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ
sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn. Vốn tín dụng Ngân
hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản xuất
kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn
việc làm và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH -
HĐH nông nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính
sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói
riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho
vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc mở rộng cho vay hộ sản
xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động này, món vay
nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ
trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng
5
nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng
nhất là trong môi trường kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp,
nông thôn.
Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu
cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của
TDNH đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm
quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn
tại, trên cơ sở đó có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất
lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, mạnh dạn đề xuất một số
kiến nghị để thực hiện giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm trong năm 1998 - 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích
tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích thống kê, so sánh.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn
vận dụng vào NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
5. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương.
6
Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng
tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần
phát triển kinh tế hộ sản xuất.
7
Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông
nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh
tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông
nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà kinh tế
bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô
hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các
nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất
trong hệ thống lý thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội
hiện thời.
1. Khái niệm hộ sản xuất :
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng
ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các
nước có nền sản xất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua
nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét
một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong một số từ điển chuyên
ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người cùng
sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia
đình.
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây
dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và
Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo
quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được
hiểu như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình". Thành phần chủ
8
yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình
xã viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn.
Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản
xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh
ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên
đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong
thời gian qua.
2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường:
Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận
là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng
động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất
hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản
xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề
truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất để có hiệu
quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của
hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị
tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.
a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là
kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp
theo là giai đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá
quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian
tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên
quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có
thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền
kinh tế kém phát triển.
b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao
động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
9
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất ,
lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của
cải vật chất cho mọi quốc gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn,
nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực này còn đang ở mức thấp
do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13 triệu lao động chưa
được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa
được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự
mất cân đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử
dụng hợp lý nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần
phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những
năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất
trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc
đẩy sản xuất hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ,
các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là
sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường.
Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất
lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp
khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có
thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không
sợ ảnh hưởng đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và
Nhà nước có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát
triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản
xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo
ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất :
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn,
chúng ta tiến lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức
rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà
nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo
10
điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông
thôn.
Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán
cho nông nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng
chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông
nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh
tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông
nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và
Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định
hướng nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí
của nó.
Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể
hoá một bước quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý
nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản
xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế
tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày
2/ 3/ 1992 cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998,
luật công ty. .. thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình
đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều
21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 : "kinh tế gia đình được
khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt
đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị
quyết TW 5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một
chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5
quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh
doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm.
11
Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo
hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát
triển. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông
nghiệp nông thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói
riêng đã được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH - HĐH nông nghiệp
nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực
kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển
kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ
được khuyến khích phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu
dài, luôn luôn có vị trí quan trọng".
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất:
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín
dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất
định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ
bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại
hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng , tín dụng
Nhà nước , tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng
nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các
Ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được
thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự
có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ
khác"
12
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những
hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc
điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư
chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì
vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng
quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín
dụng hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng
giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi
được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở
hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tài sản thể chấp
thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng
với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng
điều kiện vay vốn Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp,
hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm
thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/
CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ, thông tư 01/ TD - NH ngày
26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị
định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm
ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng
chính phủ, văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước thực hiện quy định trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân
hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp sau đó một loạt các
thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số 283/ QĐ
- NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân
hàng, văn bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ. Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/
8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện giải
pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/ 2000/
NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT -
NHNo & PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng
mới gần đây nhất ngày 18/ 1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã
13
giải quyết cơ bản những khó khăn thắc mắc về cơ chế thủ tục tạo môi
trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các văn bản trên đã
mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong
khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để
mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn
tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và
phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho
phép.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành
sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện
tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối
với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan
trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng
hoá.
Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất
kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ
sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế hộ sản xuất.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để
duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển
kinh tế.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự
chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng
các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì
chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các
khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản
chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của
tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự
hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có
khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc
sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng
cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho mọi người.
14
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất
quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và
rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng
Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của NHNo
ngày càng tăng.
b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn
và tập trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của
tín dụng Ngân hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp
cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân
hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho
vay.
Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản
xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời
Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân
hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất
vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu
quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông.
Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất
góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
c. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề
truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao
động.
Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa
được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh
việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH chúng ta cũng
phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh
tế , đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực
của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành
nghề mới thu hút được số lao động nhàn dỗi, giải quyết việc làm cho người
15
lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ
ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành
nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề
này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ.
d. Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội :
Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong
những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có
thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc
đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở
nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn
đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân,
đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và
thành thị càng nhích lại gần nhau hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong
xã hội , giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm
nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm
thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở lên khá hơn, hộ khá trở lên
giầu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như : rượu
chè, cờ bạc, mê tín dị đoan... nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn
của lực lượng lao động. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng
Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ
sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất :
Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng
giống như các quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng mặt
16
khác đó còn là chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, có rất
nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng này.
- Chính sách của chính phủ : trên 80% dân số ở nước ta sống ở nông
thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy
sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời
sống kinh tế đất nước. Vì vậy, chính sách đối với hộ sản xuất có vị trí quan
trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính sách về đầu tư vốn
có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết khó khăn về vốn sản xuất kinh
doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ
sở để vốn tín dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất.
- Chính sách của Ngân hàng : Trong sản xuất kinh doanh , mục tiêu
hàng đầu là đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro
đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không
cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều trong công việc mở rộng cho vay và
giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đối với
NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ chính,
do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng tới quy định đến
khối lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất : Mối quan hệ giữa Ngân hàng và
khách hàng vay vốn là quan hệ 2 chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh
doanh của các hộ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay
của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay phần lớn hộ gia đình
năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn hạn
chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung, tự cấp, sản xuất nhỏ, manh
mún, sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển , người nông dân còn chưa thực
sự đặt quá trình sản xuất của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với
các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó, tìm phương hướng tự sử lý để
phát triển. Cho nên, việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất gặp
nhiều khó khăn.
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng :
Trong nền kinh tế thị trường., bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất
ra cũng phải là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là
mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận
17
xét rằng : "Chất lượng phù hợp với mục đích của người sản xuất và người
sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng là một sản phẩm
hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng".
Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là
hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản
phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã
sử dụng. Do vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau :
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với
yêu cầu của khách hàng về lãi xuất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức
thanh toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn
đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng : Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù
hợp với phạm vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn
đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có
lợi nhuận.
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ
sản xuất được xác định là khách hàng chính của NHNo Việt Nam. Trong
quá trình cung ứng sản phẩm của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan
trọng và cần thiết là đánh giá được chất lượng của sản phẩm cung ứng, cụ
thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất , nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích
của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các chỉ
tiêu đánh giá chất lượng cụ thể.
2.1. Chỉ tiêu định tính :
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay :
Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đề được dựa trên một nguyên tắc nhất
định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh
hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế , chính trị, xã hội của đất nước, do vậy
các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi Ngân hàng
lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc
18
quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho
vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc
cho vay hay không.
Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là :
- Thứ nhất : Cho vay có mục đích kế hoạch.
- Thứ hai : Cho vay có đảm bảo
- Thứ ba : Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một
khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện :
Chi tiêu định tính thứ 2 để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
đó là cho vay đảm bảo có điều kiện. Các điều kiện để một khách hàng được
vay tại NHNo & PTNT Việt Nam.
- Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và
chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất
phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở có
xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường)
nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không
có nợ quá hạn tren 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp
luật phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh
doanh khả thi có hiệu quả.
- Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay.
+ Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay
bằng tài sản, quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm,
thủy hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất).
19
Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5
điều kiện cho vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay.
c. Quá trình thẩm định.
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định
tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân
hàng nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật đạo đức của
khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách
hàng... Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và
theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về
quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng.
Một khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải
đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản
cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là
sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và
nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất
lượng.
2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương
đối. Bên cạnh mặt trừu tượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định
tính thì mặt cụ thể của nó có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định lượng.
a. Doanh số cho vay hộ sản xuất :
Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số
tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một
năm.
Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng
cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một
năm.
D. số cho vay HSX
Tỷ trọng cho vay HSX = ------------------------------------ x 100 (%)
Tổng D. số cho vay
b. Doanh số thu nợ sản xuất :
20
Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số
tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một
thời kỳ.
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng
chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho
vay hộ sản xuất của ngân hàng trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính
bằng công thức :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
--------------------------------------------- x 100 (%)
Doanh số cho vay hộ sản xuất
c. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền
Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định kể từ ngày khoản
cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ
tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn HSX
Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = ---------------------------------- x 100 (%)
Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất
lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Hoạt động Ngân hàng nói
chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói tiêng đều chứa đựng nhiều rủi
ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do
vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ
quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan đến
sự sống còn của Ngân hàng.
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử
dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi
Tỷ lệ khó đòi = ---------------------------------- x 100 (%)
Tổng nợ quá hạn
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu
cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
d. Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất :
21
D. số thu nợ HSX
Vòng quay vốn tín dụng HSX = -----------------------------
Dư nợ bình quân HSX
Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính
bằng cách lấy trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một
chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần
xuất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng chứng tỏ
đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm
chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
e. Lợi nhuận của Ngân hàng :
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với
NHNo hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận
Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất
lượng cho vay hộ sản xuất.
f. Một số chỉ tiêu khác.
D. số cho vay HSX
Chỉ tiêu 1 = -----------------------------------------
Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền
vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên.
Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh của hộ sản xuất tăng lên. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có
xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất cho vay nhiều
hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi.
Chỉ tiêu 2:
Tỷ lệ cho vay trung
- dài hạn HSX =
Dư nợ cho vay trung dài hạn HSX x 100 % Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn
trung, dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh
giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt
Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung
22
dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng Ngân hàng
thương mại.
Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín
dụng của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu 3 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết
hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu
quả của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể
tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện
hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với hộ sản xuất :
Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có
ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu
phải nâng cao chất lượng tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu
thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn làm tốt điều này, trước hết phải
xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
3.1. Yếu tố môi trường :
Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ
sản xuất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất
nông nghiệp ở nước ta còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự
nhiên có ảnh hưởng rất lớn.
- Môi trường kinh tế xã hội :
Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín
dụng hộ sản xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện
cho hộ sản xuất làm ăn có hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các
khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả
kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và
lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
- Môi trường chính trị pháp lý :
23
Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý
để hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh
của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật
về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ
sở để xử lý, giải quyết khi xảy các tranh chấp tín dụng.
Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng hộ sản xuất.
- Môi trường tự nhiên : Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất
kinh doanh của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ
thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản
xuất kinh doanh xuôn xẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính để trả nợ
Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt
hại lớn về kinh tế , việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhất nhiều khó khă. Diễn
biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể tránh được khi
thiên tai xảy ra. Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến
chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng :
Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì
có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Trình độ của khách hàng : Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ
quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng
quản lý khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có
khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khách hàng không có
khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì việc trả nợ Ngân
hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích : Đây là yếu tố thuộc về chủ
quan của khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc
sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất
hiện ngay từ đầu khi vay hoặc sau khi đã vay được. Tuy nhiên, việc khách
hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách
hàng cố ý lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố
24
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có
được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có được hoàn trả lại
hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng.
3.3. Yếu tố thuộc về Ngân hàng :
Bên cạnh yếu tố môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân
hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân
Ngân hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản
thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng : Là một trong những chính
sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng
đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút
được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do
đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
tín dụng.
- Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể
chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để
các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng Ngân hàng có được thực hiện hay
không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ
chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng.
- Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có
thể đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều
kiện về đảm bảo tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.
- Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
khoản cho vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi
khoản cho vay được quyết định thông qua các chỉ tiêu định tính.
- Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp
thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được
yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có
biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng giảm sút.
- Hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm
bắt được các thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định một khoản cho
vay. Yếu tố này rất quan trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho
vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra.
Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ
sản xuất cả về mặt kinh tế , chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc
25
lực của Nhà nước , là đòn bẩy kinh tế , là động lực thúc đẩy hộ sản xuất
phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của
mình đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như đối
với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng Ngân
hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó
việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất
quan trọng đối với Ngân hàng nói chung và NHNo Huyện Từ Liêm nói riêng.
26
Chương II.
thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến hoạt động kinh doanh
của NHNo Huyện Từ Liêm :
Huyện Từ Liêm là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên
là 219.214 ha, dân số 2,3 triệu người, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, 80 % dân số sống ở nông thôn, tổng số khoảng 53 vạn hộ, trong đó
hộ nghèo là 12 %. Địa bàn hành chính gồm 2 thị xã, 12 huyện, 15 xã trong
đó 1/ 4 số xã có làng nghề Tiểu thủ công nghiệp với 130 nghìn lao động có
tay nghề.
Năm 2000 kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh cụ thể là :
- Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 1.027.000 tấn tăng 10,3% so
với năm 1999.
- Tổng sản phẩm trong tình (GDP) tăng 7,2 % so với năm 1999.
- Giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng 4,6 % so với năm 1999.
- Cơ cấu kinh tế : nông nghiệp 44 %, công nghiệp 31,65 %, dịch vụ
24,35 %.
Đặc điểm kinh tế xã hội có nhiều ảnh hưởng thuận lợi cũng như khó
khăn đối với hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm nói chung
và hoạt động tín dụng nói riêng.
a. Thuận lợi :
Huyện Từ Liêm là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng có lợi thế
về cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm. Tỉnh có hệ thống đường liên
huyện, liên xã, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng. Hơn nữa, tỉnh tập trung nhiều làng nghề với nhiều ngành nghề tiểu
thủ công nổi tiếng đang được khôi phục và phát triển. Đây là những điều
kiện thuận lợi để Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách có
hiệu quả.
27
Nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế thay đổi
theo hướng tích cực, cơ cấu trong nông nghiệp có su hướng tăng, tỷ trọng
ngành chăn nuôi. Công tác chuyển đổi HTX nông nghiệp theo mô hình
kiểu mới thực hiện tốt, đã xây dựng được 494/ 533 HTX nông nghiệp đạt
96 %. Bước đầu thực hiện chuyển đổi kinh tế từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn
đạt 112/ 315 xã. Đây là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của Ngân
hàng.
Một số ngành có điều kiện phát huy tiềm năng đã mạnh dạnh áp
dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Nhận thức của người nông dân về sự cần thiết đưa các giống mới năng suất
cao vào trồng trọt, chăn nuôi ngày càng cao tạo điều kiện đầu tư vốn có
hiệu quả.
Ngành Ngân hàng dần dần hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp với
thực tế địa bàn nông thôn, cũng như việc ban hành một số văn bản, chính
sách của tỉnh cụ thể hoá các chính sách kinh tế xã hội đối với nông nghiệp,
nông thôn của Đảng và Nhà nước , từ đó hoạt động của Ngân hàng được
thuận lợi hơn trước.
b. Khó khăn :
Nền kinh tế của cả nước nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng phát
triển chưa ổn định gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
thành phần kinh tế.
Công cuộc phục vụ nông nghiệp như cơ khí, chế biến trên địa bàn
tỉnh chưa phát triển đã hạn chế rất lớn đến sức sản xuất của các hộ gia đình.
Giá cả sản phẩm nông nghiệp so với giá hàng công nghiệp, dịch vụ có sự
chênh lệch khá lớn theo hướng thiệt hại cho người nông dân. Vì vậy không
khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và ảnh hưởng lớn đến đời
sống các hộ nông dân. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu của tỉnh chưa tìm lại
được hướng đi sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu.
Do đó không tạo được động lực phát triển sản xuất nông nghiệp. Tiểu thủ
công nghiệp hiệu quả theo hướng có lợi cho nông dân.
Từ Liêm là một huyện tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, do đó rất nhiều
những người có trình độ KHKT cao sau khi được đào tạo đã ở lại Hà Nội
làm việc. Vì vậy, nguồn nhân lực của Huyện Từ Liêm đã mất đi rất nhiều
lợi thế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Huyện Từ Liêm trong
28
quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Huyện Từ Liêm nói riêng.
Từ đó tạo một lực cản hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm.
Bên cạnh những đặc điểm kinh tế xã hội là những khó khăn tác động
đến hoạt động của NHNo Huyện Từ Liêm ở trên thì sức cạnh tranh của các
chi nhánh NHTM khác và các quỹ tín dụng nhân dân ngày càng tăng đã
gây trở ngại không nhỏ trong NHNo. Mặc dù NHNo Huyện Từ Liêm
chiếm ưu thế hơn hẳn về thị trường hoạt động nguồn vốn kinh doanh cũng
như dư nợ cho vay các thành phần kinh tế, chuyên môn của đội ngũ lãnh
đạo , cán bộ nhưng sức ép cạnh tranh của các tổ chức trên qua những chính
sách lãi xuất huy động tiền gửi, chính sách thu hút khách hàng vay vốn. ..
cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà trực tiếp là lợi nhuận NHNo.
Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi Ngân hàng phải nỗ lực phấn đấu bền bỉ,
kiên quyết tự đổi mới hoạt động kinh doanh từng bước vượt qua những khó
khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh năm 2000.
2. Quá trình hình thành, phát triển và chức năng của NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm :
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương
mại, Ngân hàng phát triển , Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân
hàng Hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
NHNo & PTNT Việt Nam thành lập ngày 26/ 3/ 1988 theo NĐ 53/
HĐBT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ)
NHNo & PTNT Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước dạng đặc biệt tổ chức
theo mô hình tổng công ty Nhà nước , tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư.
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm là thành viên của NHNo & PTNT
Việt Nam, được thành lập và đi vào hoạt động từ thágn 7/ 1988 trên cơ sở
sát nhập 8 đơn vị thuộc NHNo Hà Sơn Bình và 6 đơn vị thuộc NHNo thành
phố Hà Nội. Về mô hình tổ chức toàn tỉnh có 14 chi nhánh NHNo huyện,
thị xã, 45 Ngân hàng loại 4 và 8 Ngân hàng lưu động thực hiện việc giao
dịch trực tiếp với khách hàng trên mạng lưới máy vi tính.
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm thực hiện chức năng kinh doanh đa
năng, chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng đối
29
với khách hàng trong và ngoài nước, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế
- xã hội; uỷ thác tín dụng đầu tư cho chính phủ, các chủ đầu tư trong nước
và ngoài nước trong các ngành kinh tế , trước hết trong lĩnh vực kinh tế
nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong kinh tế đối ngoại NHNo
Huyện Từ Liêm cung ứng các dịch vụ : thanh toán quốc tế, tài trợ XNK,
bảo lãnh và tái bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, thanh toán biên giới. NHNo
Huyện Từ Liêm chịu sự quản lý của NHNo Việt Nam, NHNN huyện Từ
Liêm.
NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển sang Ngân
hàng thương mại quốc doanh, đối tượng đầu tư chủ yếu phục vụ nông
nghiệp - nông thôn và nông dân, do đó chịu ảnh hưởng rất lớn vào thiên
nhiên, nên hoạt động kinh doanh NHNo huyện Từ Liêm gặp rất nhiều khó
khăn. Chính vì vậy NHNo huyện Từ Liêm đã kiên trì và kiết quyết tập
trung chỉ đạo trong nhiều năm qua theo hướng hoạt động kinh doanh theo
cơ chế thị trường, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với những định
hướng lớn , đó là :
- Có nguồn vốn lớn
- Có mạng lưới rộng khắp chất lượng
- Có đội ngũ cán bộ tốt.
- Có công nghệ và công cụ điều hành hiện đại.
- Có nguồn tài chính thường xuyên có lãi.
3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
Đối tượng phục vụ chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm là các hộ
nông dân. Toàn tỉnh có 53 vạn hộ gia đình, trong đó hộ sản xuất nông
nghiệp hơn 49 vạn hộ. Trong đó, số hộ giầu là 4,7 vạn hộ chiếm tỷ trọng
85%, hộ khá có 95,6 vạn hộ, chiếm tỷ trọng 21,6 %, số hộ trung bình 28,1
vạn hộ chiếm tỷ trọng 53,0 %, hộ nghèo 6,4 vạn hộ tỷ trọng chiếm 12 %
chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh có 112 làng nghề thủ công,
mỹ nghệ, chế biến... đang được khôi phục và phát triển , 403 hộ gia đình
làm kinh tế trang trại đang đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả.
Với những đặc điểm về tự nhiên - kinh tế - xã hội riêng có của Hà
Tây đã tác động đến đặc điểm của khách hàng chủ yếu của NHNo huyện
Từ Liêm.
30
Người nông dân là người bạn đáng tin cậy của NHNo huyện Từ
Liêm, họ có sức lao động cần cù, chịu khó và sòng phẳng trong quan hệ
vay trả. Đây là một trong những lý do của NHNo thực hiện chủ trương cho
các HSX vay dưới 5 triệu đồng không cần tài sản thế chấp trước khi chính
phủ ban hành quyết định 67/ 1999/ QĐ - TTg. Hiện nay theo quyết định 67,
Chính phủ quyết định cho phép NHNo cho vay hộ nông dân dưới 10 triệu
đồng không phải thế chấp.
Tuy nhiên, hộ nông dân có thu nhập rất thấp, công cụ sản xuất thủ
công, kỹ thuật lạc hậu, hoạt động sản xuất chịu nhiều ảnh hưởng lớn của
thời tiết, môi trường tự nhiên, trình độ KHKT, trình độ quản lý của hộ rất
thấp. Do đó khả năng mở rộng cho vay của NHNo huyện Từ Liêm cũng bị
hạn chế.
Với đặc điểm sản xuất kinh doanh nhỏ trong quy mô hộ gia đình,
chưa hướng tới xuất khẩu, do đó thường những món vay có giá trị nhỏ,
nhưng số lượng món vay rất lớn, địa bàn rộng nên chi phí cho một món vay
còn cao.
Mặc dù, hộ sản xuất còn một số hạn chế trong quá trình sản xuất
kinh doanh của mình nhưng hộ có nhu cầu vay vốn rất lớn để duy trì và
phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, hộ sản xuất rất cần tới sự giúp đỡ về
vốn của NHNo huyện Từ Liêm.
II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển hẳn sang
NHTM gặp không ít những khó khăn, nhưng NHNo huyện Từ Liêm vẫn
kiên trì và kiên quyết đi theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và NHNo Việt Nam, sự ủng hộ
của các cấp, các ngành, cùng sự cố gắng nỗ lực của tập thể từ lãnh đạo đến
CBNV, NHNo huyện Từ Liêm đã từng bước khắc phục được khó khăn.
NHNo huyện Từ Liêm đã phát triển kinh doanh đa năng, đổi mới công cụ
điều hành, tổ chức khoán tài chính đến nhóm và người lao động, lấy kết
quả kinh tế và mục tiêu sinh lời làm thước đo chính trong kinh doanh. Vì
vậy, NHNo huyện Từ Liêm đã trở thành một trong những Ngân hàng đứng
đầu trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam.
1. Huy động vốn: Nguồn vốn chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm
bao gồm : vốn huy động (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi
31
trung, dài hạn và vay các TCTD khác) và vốn tự có. Tổng nguồn vốn của
NHNo huyện Từ Liêm tính đến ngày 31/ 12/ 2000 là 1.735 tỷ đồng gấp 10
lần so với mức ban đầu thành lập. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình
quân giai đoạn 1995 - 2000 ở mức cao, xấp xỉ 50 %/ năm. Bình quân vốn
đạt 1.740 triệu đồng/ cán bộ.
Nguồn vốn huy động của NHNo huyện Từ Liêm chiếm khoảng 80%
tổng nguồn vốn bao gồm : tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền
gửi trung dài hạn và vay các TCTD khác. Kết quả huy động vốn của NHNo
huyện Từ Liêm được phản ánh trong bảng số 1, không kỳ hạn là chủ yếu là
tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế (TCKT). Tỷ trọng trung bình
của loại vốn này là 16 % trong tổng nguồn vốn huy động, với tốc độ tăng
trưởng hàng năm khá cao, trung bình 38 %. Ưu điểm lớn của nguồn vốn
này là chi phí thấp (lãi xuất không đáng kể) nên được các Ngân hàng rất trú
trọng phát triển. Với phương án quản lý hợp lý có tính đến sự an toàn chi
trả (tính thanh khoản) sẽ phát huy được hiệu quả của nguồn vốn này.
Tiền gửi ngắn hạn tăng khá, mức tăng trung bình là 25 % trong đó
tiền gửi kỳ phiếu nhỏ hơn 1 năm tăng rất mạnh chứng tỏ phương thức huy
động này phù hợp với nhu cầu của người gửi tiền về kỳ hạn cũng như lãi
suất tương ứng. Hiện nay kỳ phiếu nhỏ hơn 1 năm có các hình thức gửi 3
tháng, 6 tháng, trả lãi sau, 12 tháng tra lãi trước, lãi suất điều chỉnh theo tín
hiệu thị trường. Tiền gửi ký phiếu năm 2000 đạt 611.315 tỷ đồng tăng 71 %
so với năm 1999 chiếm tỷ trọng 49,4 % tổng nguồn vốn huy động. Đây là
một kết quả đáng mừng vì trong khu vực thị trường này sự cạnh tranh đặc
biệt là vấn đề lãi suất tiền gửi rất lớn. Hầu hết người gửi tiền đều mong
muốn đầu tư an toàn và nhận được lãi suất cao do vậy một sự thay đổi nhỏ
trong lãi suất tiền gửi sẽ có sự dịch chuyển vốn từ Ngân hàng này sang
Ngân hàng khác, một phần, lãi suất tiền gửi thực tế (trừ tốc độ lạm phát) là rất
nhỏ.
Huy động tiết kiệm là chiến lược chính của mỗi Ngân hàng nhằm
mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn và tự lực về nguồn vốn. Đối với NHNo
huyện Từ Liêm có địa bàn hoạt động rộng và chủ yếu ở nông thôn và phục
vụ nông dân nên huy động tiết kiệm có những đặc điểm khác so với các
Ngân hàng trên địa bàn.
32
So sánh huy động tiết kiệm ở thành thị và nông thôn.
Tại sở giao dịch của NHNo huyện Từ Liêm có thể huy động được
38,6 % tổng tiền gửi toàn tỉnh. Trong khi đó, tỷ trọng tiền gửi huy động
được tại một chi nhánh huyện chiếm khoảng 4,2 - 7,6 %. Tại tất cả các chi
nhánh huyện và liên xã của NHNo huyện Từ Liêm , vốn huy động chỉ có
thể thoả mãn 20 - 25 % tổng nhu cầu về vốn của chi nhánh đó
33
Bảng 1 : Huy động tiết kiệm tại NHNo huyện Từ Liêm (tính đến
tháng 12/ 2000).
Đơn vị : triệu đồng
Số huyện : 13
1. Tổng số hộ trong khu vực 552.825
2. Tổng số người gửi tiền : 69.721
Tỷ trọng những người gửi tiền/ tổng số hộ (%) 12,6
3. Tổng số tiền gửi tại chi nhánh tỉnh : 714.652
4. Tổng số tiền gửi tại sở giao dịch : 256.956
Tỷ trọng tổng số tiêng gửi (%) : 35,9
5. Số tiền gửi trung bình : 97
Trong năm 2000 cả 14/ 14 NHNo huyện, thị đều có số dư nguồn vốn
tăng, tuy nhiên có sự chênh lệch rất lớn giữa các địa bàn. Hai thị xã (Hà
Đông, Sơn Tây) có mức huy động cao nhất, tương ứng là 370 tỷ và 209 tỷ
trong khi trung bình huyện chỉ đạt trên dưới 56 tỷ đồng. Điều này tạo ra sự
bất hợp lý giữa cân đối nguồn vốn huy động cho vay tại từng địa bàn, các
chi huyện phụ thuộc vào vốn vay từ NHNo tỉnh. Do vậy, luôn phải có sự
điều chỉnh vốn giữa các chi nhánh gây khó khưan cho công tác kế hoạch
cũng như hoạt động kinh doanh của từng đơn vị và NHNo tỉnh
Tóm lại , nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
luôn có mức tăng trưởng khá, ổn định và vững chắc, do vậy Ngân hàng
luôn có đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh
của các thành phần kinh tế trong tỉnh.
2. Hoạt động cho vay :
Hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM là hoạt động cấp tín dụng cho
các khách hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý
Ngân hàng là lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng
đồng. Việc không đáp ứng các đòi hỏi hợp pháp của khách hàng về tín
dụng sẽ dẫn đến thiệt hại trước mắt của kinh doanh và kết quả cuối cùng là
vấn đề tồn tại của Ngân hàng. Vì vậy, xét về khía cạnh nào đó, khách hàng
vay vốn chính là ân nhân của Ngân hàng.
34
Có thể thấy qua số liệu báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của Ngân
hàng đã đạt được kế quả khá nổi bật. Dư nợ cho vay năm sau luôn cao hơn
năm trước, tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân giai đoạn 1995 - 2000 là
26 %. Đến cuối năm 2000 tổng mức dư nợ đạt hơn 1.031 tỷ đồng là một
trong những chi nhánh có dư nợ cao toàn ngành. Tuy nhiên, mấy năm gần
đây tốc độ tăng trưởng dư nợ có dấu hiệu chứng lại, năm 2000 tăng 27,3 %
so với năm 1999. Kết quả này phản ánh chủ trương của NHNo Việt Nam
đối với các Ngân hàng chi nhánh trong năm 2000 là phải tập trung củng cố
chất lượng tín dụng và xử lý nợ quá hạn.
2.1. Cơ cấu cho vay :
Có nhiều cách phân loại cơ cấu cho vay. Với mỗi cách phân loại có
thể thấy mặt cụ thể của thực trạng cho vay.
a. Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn cho vay :
Bảng 2 : Phân loại dư nợ cho vay của NHNo huyện Từ Liêm theo kỳ hạn
N
ăm
Ngắn hạn
(%)
Trung, dài hạn
(%)
Tổng
cộng
1
995
63,4 36,6 100
1
996
68 32 100
1
997
63,6 36,4 100
1
998
51,8 48,2 100
1
999
51,5 48,5 100
2
000
48,8 51,2 100
Xét về kỳ hạn cho vay, hoạt động tín dụng có nhiều biến đổi theo
hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của các thành phần
kinh tế. Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả hoạt động tín dụng giai đoạn 95 -
2000 có thể thấy rõ tỷ trọng cho vay trung, dài hạn có xu hướng tăng và
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu cho vay của Ngân hàng. Nếu so
mức phấn đấu toàn ngành đề ra là tỷ trọng vốn trung - dài hạn đạt 35 %
35
tổng dư n ợ thì NHNo huyện Từ Liêm đã đạt mức kế hoạch đề ra ngay từ
năm 1995 (hơn 36%) và đến cuối năm 2000 tỷ lệ này là 51,2 %, nếu tính số
tuyệt đối thì con số đạt được khá ấn tượng là hơn 528 % tỷ đồng.
Mặt khác, dễ thấy tỷ lệ này chưa phải là mức ổn định. Năm 1995 tỷ
trọng là 36 %, năm 96 đạt 32 % năm 97 lên 36 %, năm 98 lên hơn 48 %,
năm 99 đạt 49 % và năm 2000 đạt 51,2 %. Tuy nhiên với tỷ lệ cao hơn 30
% liên tục như vậy chứng tỏ hoạt động Ngân hàng đang dần dần phát triển
theo chiều sâu đã đáp ứng được nhu cầu vốn trung - dài hạn của các thành
phần kinh tế trên địa bàn, vốn này thường là vốn đầu tư mở rộng sản xuất,
tăng cường trang thiết bị... thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ và vững
chắc , do vậy nâng cao hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng , tạo ra nguồn thu
ổn định cho Ngân hàng.
b. Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế :
Xét về cơ cấu dư nợ đối với các khu vực kinh tế cũng phản ánh sự
chuyển hướng rõ n ét trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hướng về
khách hàng đông đảo là các hộ nông dân và địa bàn nông thôn là chủ yếu.
Điều hành thể hiện qua tỷ trọng vốn cho vay đối với hộ sản xuất rất cao.
Bảng 3 : Phân loại dư nợ cho vay theo khu vực kinh doanh của NHNo Hà
Tây.
Năm
Chỉ tiêu
9
5
9
6
9
7
9
8
9
9
2
000
Tổng dư nợ 4
57.467
5
66.144
6
79.409
7
26.625
8
09.812
1
.031.069
- Doanh nghiệp Nhà
nước
3
8.524
2
9.664
4
3.677
5
6.634
4
6.626
1
06.921
Tỷ trọng % 7
,1
5
,6
6
,4
7
,7
5
,8
6
,3
- Hợp tác xã 5
.051
4
.434
2
.060
3
.347
2
.961
3
.000
Tỷ trọng % 1
,1
0
,7
0
,4
0
,4
0
,35
0
,30
- Hộ sản xuất 4
13.892
5
17.346
5
72.849
5
72.505
6
43.131
7
83.093
Tỷ trọng % 9
1,8
9
1,2
8
4,4
8
2,1
7
9,4
8
1,0
36
- Hộ nghèo 1
4.700
5
8.763
9
4.139
1
17.094
1
38.055
Tỷ trọng % 2
,5
8
,8
9
,8
1
4,5
1
2,4
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Nhìn chung khối lượng cho vay các DNNN rất nhỏ, ở khu vực này
chỉ đạt dưới 14 % tổng dư nợ giai đoạn 95 - 2000. Một phần phản ánh sự
chuyển hướng kinh doanh trong hệ thống NHNo, lấy hộ nông dân làm đối
tượng phục vụ chủ yếu. Tính từ năm 1995 đến nay, lượng vốn đầu tư có
tăng nhưng tốc độ tăng không đáng kể. Đây là điều Ngân hàng không mong
muốn song nó phản ánh một thực tế là số DNNN trên địa bàn vẫn đang
trong tình trạng khó khăn, quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có rất thấp, trang
thiết bị công nghệ lạc hậu, quản lý kém dẫn đến sự cạnh tranh kém. Mặc
dù các doanh nghiệp đã được sắp xếp cho phù hợp theo quy định của Chính
phủ nhưng đến nay trong số 163 DNNN (có 76 DNNN Trung ương) toàn
tỉnh chỉ có 139 đơn vị có quan hệ tín dụng vói Ngân hàng, trong đó khoảng
73 đơn vị có quan hệ thường xuyên.
Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới, những DNNN sẽ có
vai trò hết sức quan trọng. Thực tế trong số 462 doanh nghiệp hoạt động
trong tỉnh số DNNN chiếm 45 % nhưng vốn kinh doanh chiếm tới 86 % ,
doanh thu bình quân chiếm 90 %, nộp ngân sách chiếm 92 %. Như vậy
tiềm năng của khu vực này còn rất lớn, không tương xứng với khối lượng
cho vay hiện tại
- Cho vay hợp tác xã :
Dư nợ cho vay giảm liên tục về khối lượng cũng như tỷ trọng trong
tổng dư nợ và số hợp tác xã có quan hệ tín dụng với Ngân hàng rất nhỏ (26/
176 hợp tác xã). Nguyên do chủ yếu là các HTX nông nghiệp đã bị thu hẹp
vai trò, chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh từ khi Nhà nước giao sử
dụng đất lâu dài và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các hộ nông dân.
Mô hình HTX kiểu mới theo luật HTX trong giai đoạn thử nghiệm chưa
phát huy được vai trò mới của mình do đó không đáp ứng được các đòi hỏi
của điều kiện vay vốn và trình độ cán bộ quản lý của HTX còn quá yếu.
- Cho vay hộ sản xuất :
37
Ngược lại với các khu vực trên, cho vay đối với hộ sản xuất phát
triển mạnh mẽ, thu được kết quả to lớn chứng minh sự đúng đắn trong xác
định đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng. Chiến lược kinh doanh
hướng về các hộ gia đình thể hiện qua mức tăng dư nợ hộ sản xuất trong
nhiều năm. Trong giai đoạn 1995 - 2000 tỷ trọng bình quân dư nợ hộ sản
xuất / tổng dư nợ xấp xỉ 88%, tạo ra nguồn thu vững chắc quyết định kết
quả tài chính luôn luôn có lãi của Ngân hàng.
- Cho vay hộ nghèo :
Thực hiện chủ trương "xóa đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà nước ,
Ngân hàng đã thực hiện đầu tư cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất với mức
lãi suất ưu đãi đạt kết quả khả quan. Đến năm 2000, dư nợ cho vay hộ
nghèo đạt 138 tỷ. Hình thức cho vay đối với hộ nghèo thực hiện qua tổ
nhóm (5.500 tổ) rất có hiệu quả, tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp 0,11 % chứng tỏ
công tác xã hội hoá hoạt động kinh doanh Ngân hàng đạt được rất tốt, giúp
nhiều hộ gia đình thoát khỏi đói nghèo, vươn lên trong cuộc sống.
2.2. Chất lượng tín dụng Ngân hàng :
Chất lượng tín dụng được xem là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản
ánh kết quả hoạt động tín dụng trong một giai đoạn của Ngân hàng thương
mại.
Bảng 4 : Nợ quá hạn tại NHNo huyện Từ Liêm giai đoạn 1995 - 2000
Chỉ tiêu Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá
hạn (%)
1995 8.098 1,72
1996 6.554 1,12
1997 6.943 1,03
1998 7.006 0,96
1999 8.646 1,06
2000 10.200 1,10
Qua con số nợ quá hạn hàng năm có thể thấy chất lượng tín dụng của
Ngân hàng là tốt. Thể hiện tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ chỉ tiêu 1% năm.
Phần lớn nợ quá hạn nằm trong cho vay ngắn hạn, tậpt rung vào khu vực hộ
sản xuất. Nếu xét số tuyệt đối thì nợ quá hạn có chiều hướng tăng song
38
không có nghĩa chất lượng cho vay giảm sút bởi vì doanh số cho vay và dư
nợ năm sau cao hơn năm trước. Ngoài ra, do số lượt hộ vay càng nhiều, tất
yếu rủi ro tín dụng xảy ra sẽ lớn hơn. Con số tương đối sẽ phản ánh chính
xác hơn chất lượng tín dụng Ngân hàng. Năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn là 1,1
% đạt mức kế hoạch đề ra và là mức rất thấp so với mức trung bình ngành
(khoảng 5%). Từ năm 1995 đến nay số liệu được kiểm tón quốc tế hàng
năm thực kiểm và đều đánh giá Ngân hàng hoạt động tốt, có chất lượng qua
đó nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, số khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng ngày
càng tăng. Xét riêng hộ sản xuất năm 1999 có hơn 18,4 ngàn hộ còn dư nợ
chiếm 36 % số hộ toàn tỉnh, với tổng số lượt vay 101.063 lượt. Đến 31/ 12/
2000 có 194 ngàn hộ có dư nợ chiếm 39 % số hộ toàn tỉnh, với tổng số lượt
hộ vay là 102.269 lượt giúp cho các hộ có đủ vốn sản xuất kinh doanh ,
khơi dậy tiềm năng lao động, đất đai khôi phục và phát triển các ngành
nghề TTCN truyền thống, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Như vậy, sau khi xem xét một vài nét cơ bản về hoạt động kinh
doanh của NHNo huyện Từ Liêm , có thể đánh giá sơ bộ hoạt động Ngân
hàng là chất lượng, hiệu quả có sự phát triển ổn định và vững chắc đã dần
chiếm được lòng tin của khách hàng. Đây là cơ sở thuận lợi cho Ngân hàng
tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tiếp theo, khi
hoàn cảnh kinh tế xã hội đang nảy sinh nhiều khó khăn cho hoạt động Ngân
hàng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài nghiên cứu sẽ đi sâu vào nghiên
cứu về chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, bởi vì vấn đề
này có ý nghĩa quyết định đến sự an toàn cũng như lợi nhuận trong hoạt
động kinh doanh của Nhà nước thương mại hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp và địa bàn nông thôn với tren 90 % khách hàng là nông dân.
III. thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm :
Trong vòng 2 - 3 năm trở lại đây, NHNo Việt Nam thường xuyên có
những thay đổi về cơ cấu, chính sách nhằm thu hút và phục vụ tốt hơn
khách hàng của mình. Đồng thời nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cũng
như phù hợp với nhu cầu đặc điểm kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Để phù
hợp hơn với xu thế cho vay hộ Dân số - KHHGĐ , NHNo Việt Nam ban
39
hành quyết định 180 HĐQT- QĐ có hiệu lực từ 1/ 1/ 1999 để thay thế QĐ
499A - TDNT NHNo về quy định cho vay đối với khách hàng là hộ sản
xuất. Theo QĐ 180 HĐQT thì hộ sản xuất không phân chia thành hai loại
như trong QĐ 499A nhưng gần đây nhất có QĐ 06/ HĐQT thay thế cho
QĐ 180 trước đây về việc ban hành QĐ cho vay đối với khách hàng. Tuy
nhiên do ở Hà Tây HTX hoạt động hiệu quả thấp, các công ty TNHH và
DNTN hoạt động quy mô nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn hạn chế
nên quan hệ tín dụng với NHNo chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với các thành
phần kinh tế khác. Thành phần này chiếm 1 - 2 % tổng dư nợ, 2 - 3 % tổng
dư nợ hộ sản xuất. Vì vậy, sử dụng cách phân chia như quyết định 180 -
HĐQT ở NHNo huyện Từ Liêm cho giai đoạn phân tích vẫn phản ánh đúng
thực trạng cho vay hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm. Để đánh giá
thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm nói chung
và chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm nói
riêng thì trước hết phải phân tích các chỉ tiêu chất lượng tín dụng đối với hộ
sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm.
1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo huyện Từ Liêm :
Để đảm bảo chất lượng tín dụng phần lớn cán bộ tín dụng tại NHNo
huyện Từ Liêm đã thực hiện các quy trình sau :
- Về hồ sơ vay vốn : Cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn
của khách hàng, đối chiếu danh mục hồ sơ như quy định của NHNo Việt
Nam , kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của từng loại hồ sơ, báo cáo trưởng
phòng tín dụng.
- Quá trình thẩm định món vay được NHNo Việt Nam quy định
hướng dẫn cụ thể. Tại NHNo huyện Từ Liêm khi khách hàng vay những
món vay đến 5 triệu đồng (trước khi có quyết định 67/ QĐ - TTg) và hiện
nay là đến 10 triệu đồng thì cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập kế
hoạch theo yêu cầu trong đơn xin vay vốn. Trong nhiều trường hợp, cán bộ
tín dụng đã thay khách hàng làm điều này. Bởi vậy trên thực tế đã có nhiều
trường hợp cán bộ tín dụng không thực hiện bất kỳ một hoạt động phân tích
nào khi thẩm định các dự án mà khách hàng "lập" với khoản vay đến 10
triệu đồng. Trên thực tế nhiều khách hàng đã sử dụng vốn vay không đúng
mục đích như trong đơn xin vay. Cả cán bộ tín dụng và người vay vốn đều
không biết chắc chắn về khả năng sinh lời của dự án. Các biện pháp thẩm
định vốn vay hiện thời không thề đánh giá hoặc kiểm soát được hiệu quả sử
dụng vốn vay của người vay vốn.
40
Như vậy quá trình thẩm định nếu không được thực hiện tốt tại NHNo
huyện Từ Liêm thì sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng ngân
hàng đối với hộ sản xuất.
- Sau khi thẩm định xong nếu không cho vay thì thông báo cho
khách hàng biết bằng văn bản.
- Nếu cho vay thì cùng khách hàng lập hồ sơ vay vốn, hợp đồng tín
dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán, thanh
toán, cán bộ tín dụng vào sổ theo dõi cho vay thu nợ.
- Sau khi thực hiện giải ngân, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra
tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Căn cứ vào kết quả kiểm tra tuỳ theo mức độ vi phạm của khách
hàng có thể xử lý tạm ngừng cho vay, chuyển nợ qúa hạn, chấm dứt cho
vay, khởi kiện trước pháp luật.
- Khi món vay của khách hàng đến hạn thì cán bộ tín dụng phải
thông báo cho khách hàng biết số tiền, ngày đến hạn trả trước khi đến hạn 10
ngày.
- Trường hợp nợ đến hạn nhưng khách hàng chưa trả được nợ do
nguyên nhân khách quan và khách hàng có giấy đề nghị gia hạn nợ thì cán
bộ tín dụng kiểm tra xác minh trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc.
- Đôn đốc khách hàng trả nợ đúng kỳ hạn và đề xuất các biện pháp
khi cần thiết, lưu giữ hồ sơ theo quy định của NHNo Việt Nam
- Về xử lý rủi ro:
Vốn trong trường hợp bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan bất
khả kháng như bão, lụt, hạn hán, dịch bệnh Nhà nước có chính sách xử lý
thiệt hại cho người vay và Ngân hàng cho (xoá, miễn, khoanh, dãn nợ) tuỳ
theo mức độ thiệt hại. Các tổ chức tín dụng phải lập hồ sơ đầy đủ như đã
hướng dẫn tại thông tư liên tịch 03/ 1997 ngày 22/ 11/ 1997 của Ngân hàng
Nhà nước và Bộ tài chính và các văn bản hướng dẫn của NHNo Việt Nam
2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo huyện Từ
Liêm trong thời gian qua :
2.1. Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất :
Với tính chất sản xuất ở quy mô gia đình nhỏ bé, việc mở rộng tín
dụng đối với khu vực hộ sản xuất rất khó khăn, thể hiện ở doanh số cho vay
không tăng trong 3 năm liền (98 - 2000) và thấp hơn năm 95. Năm 95
41
doanh số cho vay có mức tăng đột biến (dư nợ rất cao so với năm 94) Sau
đó giảm xuống mức trung bình là khoảng 620 tỷ dồng/ năm.
Doanh số cho vay giai đoạn sau không tăng, phản ánh một điều là
Ngân hàng càng chú trọng đến vấn đề chất lượng tín dụng khi mà môi
trường kinh doanh còn chưa ổn định. Nhưng đây là điều không mong muốn
của Ngân hàng bởi vì thu hẹp doanh số cho vay đồng nghĩa với giảm nguồn
thu chính của Ngân hàng.
Xét về kỳ hạn cho vay, xu hướng dễ nhận thấy là doanh số cho vay
ngắn hạn (<1 năm) giảm dân trong khi doanh số cho vay trung - dài hạn lại
tăng dần.
42
Bảng số 5 : Doanh số cho vay hộ sản xuất phân theo loại cho vay
N
ăm
Ngắn hạn
(%)
Trung, dài hạn
(%)
Tổng
cộng
1
995
74,5 25,5 100
1
996
82,4 17,6 100
1
997
73,3 36,7 100
1
998
67,8 32,2 100
1
999
65,7 34,3 100
2
000
48,8 51,2 100
Doanh số cho vay trung - dài hạn có xu hướng gia tăng, trừ năm
1996 có giảm so với năm 1995. Năm 1996 doanh số cho vay trung - dài
hạn chỉ chiếm 17,6 % tổng doanh số cho vay hộ sản xuất. Tuy nhiên, trong
4 năm sau đó (từ 1997 đến 200), doanh số cho vay trung - dài hạn liên tục
tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Đến năm 2000 doanh số cho vay hộ
sản xuất trung - dài hạn đã đạt được 51,2% tổng doanh số cho vay hộ sản
xuất. Như vậy tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của những hộ nông dân nhỏ, thông qua vốn đầu tư dài hạn, tuy
tỷ trọng dư nợ cũng như tốc độ tăng rất nhanh so với 1999.
Những kết quả trên đây đã phần nào cho thấy chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất trong những năm qua. Để phân tích chính
xác hơn ta xem xét số tiền vay mỗi lượt hộ của từng hộ.
Bảng số 6 : Số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất
Đơn vị tính : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Doanh
số cho vay
Ngắn
hạn
Tru
ng - dài
hạn
DS cho
vay/ số lượt
hộ vay
1995 564.9
44
4,00 8,89 4,5
1996 479.1
67
4,42 7,18 4,97
43
1997 546.4
28
4,97 6,12 5,06
1998 530.8
26
6,77 3,71 5,26
1999 521.9
13
6,05 3,93 5,16
2000 657.1
00
4,28 5,12 6,42
Nguồn : báo cáo kết quả hoạt động tín dụng HSX năm 96, 97, 98, 99,
2000.
Số tiền trung bình mỗi lượt vay của hộ sản xuất có xu hướng tăng
nhưng không đáng kể, với mức trung bình là 6 triệu đồng. Với số tiền vay
khá nhỏ như vậy chỉ đảm bảo sản xuất ở quy mô như trước, khó tăng thu
nhập cho hộ sản xuất.
Số tiền trung bình mỗi lượt vay trung - dài hạn của hộ sản xuất có xu
hướng tăng lớn : Năm 1999 là 3,93 triệu/ lượt, năm 2000 là 5,12 triệu/ lượt;
trong khi đó năm 1995 là 8,89 triệu đồng/ lượt. Điều này chứng tỏ hộ sản
xuất nhỏ, manh mún, kỹ thuật lạc hậu ít quan tâm tới đầu tư thiết bị, kỹ
thuật mới vào sản xuất , do đó sản xuất kém hiệu quả. Trong quá trình đầu
tư tín dụng hộ sản xuất NHNo huyện Từ Liêm luôn quan tâm đến việc mở
rộng quy mô đầu tư tín dụng HSX đồng thời trú trọng đến việc nâng cao
chất lượng các khoản vay.
Tại NHNo huyện Từ Liêm có sự khác biệt rất lớn về doanh số cho
vay giữa các huyện thị. Doanh số cho vay hộ sản xuất cao chủ yếu tập
trung ở một số huyện Phú Xuyên, Mỹ Đức, Sơn Tây, Hà Đông. Năm 2000
NHNo huyện Phú Xuyên đạt doanh số rất cao là 121 tỷ đồng so với mức
trung bình 14 Ngân hàng huyện thị là 48 tỷ cho thấy đây là một thị trường
rất hấp dẫn và có hiệu quả (doanh số thu nợ năm 2000 trên 69 tỷ, bình quân
dư nợ một hộ sản xuất đạt khoảng 6,5 triệu đồng). Trái lại một số Ngân
hàng huyện khác doanh số đạt thấp, như NHNo Quốc Oai chỉ đạt 51 tỷ,
Đan Phượng 48 tỷ mặc dù tiềm năng trên địa bàn rất lớn.
2.2. Doanh số thu nợ.
Đối với một Ngân hàng kết quả thu nợ có ý nghĩa rất quan trọng
phản ánh chất lượng tín dụng Ngân hàng , bảo đảm kinh doanh Ngân hàng
an toàn và có lãi.
44
Các số liệu thu được cho thấy doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng
liên tiếp trong 4 năm từ 1995 đến 1998, (năm 1999 có sụt giảm so với năm
1998) cho đến năm 2000 doanh số cho vay tăng lên doanh số thu nợ chứng
tỏ Ngân hàng đều coi trọng 2 mục tiêu (cho vay - thu nợ).
Bảng số 7 : Tỷ lệ (%) doanh số thu nợ HSX/ DS cho vay HSX tại NHNo
huyện Từ Liêm.
Đơn vị : triệu đồng
Doanh số cho vay Doanh số thu nợ % DSTN/
DSCV
N
ăm
D
S cho
vay
N
gắn hạn
T
- D hạn
D
S thu nợ
N
gẵn hạn
T
- D hạn
N
gắn hạn
T
- D hạn
1
995
5
57.697
4
15.358
1
42.339
3
94.812
3
68.272
2
6.540
8
9
1
9
1
996
4
74.456
3
90.797
8
3.659
4
12.223
3
38.132
7
4.091
8
0
7
1
1
997
4
91.673
3
59.286
1
32.387
4
47.097
3
48.410
9
8.687
9
6
7
3
1
998
5
22.145
3
51.963
1
70.182
5
20.069
3
84.794
1
35.272
1
08
8
4
1
999
5
34.467
3
55.920
1
78.547
5
10.928
3
47.015
1
63.913
9
1
7
8
2
000
8
10.786
5
10.700
3
00.086
6
66.968
4
80.058
1
86.910
9
4
8
2
Năm 2000 doanh số thu nợ tăng, tuy nhiên tỷ lệ doanh số thu nợ/
doanh số cho vay vẫn đạt được 89 %. Trong 6 năm, tỷ lệ doanh số thu nợ/
doanh số cho vay liên tục tăng và đạt trung bình là 88 %. Đây là dấu hiệu
đáng mừng về chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Đặc biệt tỷ lệ doanh số thu
nợ/ doanh số cho vay trung - dài hạn tăng từ 19 % năm 1995, năm 2000 đạt
82 %.
Từ doanh số thu nợ hộ sản xuất tính chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
một năm. Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng. Vòng
45
quay vốn tín dụng cao cho thấy tốc độ thu nợ cũng như hiệu quả vốn tín
dụng Ngân hàng cao.
Bảng số 8 : Vòng quay vốn tín dụng HSX giai đoạn 95 - 2000.
Chỉ tiêu Vòng quay VTD Ngắn hạn
1995 0.97 1.2
1996 0.83 1.12
1997 0.91 1.15
1998 0.94 1.18
1999 0.8 0.98
2000 0.86 0.96
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là chu kỳ sản xuất kinh doanh
kéo dài, thường các món vay ngắn hạn từ 6 tháng đến 1 năm. Do đó, vốn
tín dụng có tốc độ quay vòng thấp. Kết quả cho thấy vòng quay vốn ngắn
hạn luôn đạt trên 1 lần, chỉ riêng năm 1999 : 0,98 %, năm 2000 đạt 0,96
lần. Như vậy là đạt yêu cầu, tuy nhiên, Ngân hàng phải tập trung nâng cao
chất lượng tín dụng trong những năm tới để vòng quay vốn tín dụng ngắn
hạn luôn đạt trên 1 lần.
2.3. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất :
Dư nợ là thước đo tầm vóc của một ngân hàng nên bất kỳ NHTM
nào cũng chú trọng tăng trưởng dư nợ. Do xác định kháchh hàng phục vụ
chính là các hộ nông dân, NHNo huyện Từ Liêm luôn phấn đấu tăng dư nợ
cho vay hộ sản xuất. Đến cuối năm 2000, dư nợ cho vay hộ sản xuất đạt
trên 857,1 tỉ đồng, gấp gần 25 lần năm 1995, là mức cao trong toàn hệ
thống NHNo Việt Nam. Trong 3 năm 1997 đến 1999 dư nợ cho vay hộ sản
xuất tăng không đáng kể, tốc độ tăng trưởng thấp (năm 1998 là 15 %).
Năm 2000, dư nợ cho vay hộ sản xuất tăng đáng kể so với năm 1999
tốc độ tăng trưởng là 27 %. Tuy nhiên, dư nợ cho vay hộ sản xuất năm
2000 tăng không phải là do doanh số cho vay tăng mà do doanh số thu nợ
giảm đáng kể.
Số hộ còn dư nợ cuối năm 2000 , 19,4 vạn hộ tăng hơn so với năm
1999 (10.825 hộ), phản ánh xu hướng ngân hàng mở rộng cho vay hộ sản
xuất, đặc biệt là hộ nghèo nhằm thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo.
46
Bên cạnh đó, Ngân hàng còn có khuynh hướng cho vay trung - dài hạn với
số khách hàng còn dư nợ trung - dài hạn là 85.205 hộ, tăng 32,2 % so với
năm 99, chiếm tỷ trọng xấp xỉ 675 tổng số dư nợ. Dư nợ bình quân 1 hộ sản
xuất tăng dần qua các năm nhưng số tiền còn ở mức thấp.
47
Bảng số 9 : Dư nợ bình quân một hộ sản xuất :
Đơn vị : triệu đồng :
Chỉ tiêu Dư nợ BQ/ hộ
1995 3,69
1996 3,7
1997 4,6
1998 4,9
1999 5,1
2000 5,9
Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng HSX năm 95 đến 2000
Dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất đến năm 2000 mới đạt 5,9 triệu đồng.
Dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất trung bình trong 5 năm từ 1995 - 2000 mới
đạt được khoảng 4,7 triệu, tức là dưới 5 triệu đồng. Như vậy là dư nợ bình
quân 1 hộ sản xuất còn rất thấp. Tăng được dư nợ bình quân một hộ là một
cố gắng rất lớn của Ngân hàng, song muốn nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng đối với sự phát triển kinh tế Ngân hàng thì phải tăng hơn nữa dư nợ
bình quân một hộ sản xuất cũng như quy mô vay của hộ sản xuất.
Cơ cấu dư nợ cho vay hộ sản xuất cũng có sự thay đổi xét theo nhiều
khía cạnh đánh giá. Để thấy rõ điều này phải phântích thực trạng dư nợ cho
vay hộ sản xuất theo kỳ hạn cho vay, ngành nghề cho vay, thu nhập của hộ
vay và phương thức cho vay.
a. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ.
Bảng số 10 : Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo kỳ hạn
C
hỉ tiêu
Ngắn hạn (%) Trung - dài hạn
(%)
Tổng
số
1
995
60 40 10
0
1
996
63,2 26,8 10
0
1
997
60 40 10
0
1
998
55 45 10
0
1
999
54 46 10
0
48
2
000
53 47,6 10
0
Các khoản cho vay ngắn hạn dùng để tài trợ cho các chi phí theo thời
vụ để sản xuất mùa màng và chăn nuôi gia súc như mua hạt giống, phân
bón, thức ăn gia súc gia cầm. Dư nợ ngắn hạn tăng liên tục trong nhiều
năm. Tính trung bình cả giai đoạn 95 - 2000 đạt hơn 528 tỷ đồng với số hộ
dư nợ tính đến 31/ 12/ 99 là 102.269 hộ góp phần tăng trưởng kinh tế địa
phương giai đoạn này đạt trung bình 10 %. Tiền trả nợ vay ngắn hạn Ngân
hàng thường lấy từ tiền bán sản phẩm hàng hoá (doanh thu bán hàng) sau
kỳ thu hoạch nhưng giá cả hàng hoá nông nghiệp vẫn ở mức thấp và luôn
biến động, do đó làm tăng trưởng khả năng không trả được vốn và lãi vay
ngắn hạn của hộ sản xuất. Mức giảm dư nợ ngắn hạn trong năm 1999 là
dấu hiệu cho thấy còn những khó khưan trong hoạt động tín dụng ở khu
vực này. Mặc dù dư nợ ngắn hạn năm 2000 tăng so với năm 1999 nhưng
doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2000 lại sụt giảm nhiều so với năm 1000,
điều này càng chứng tỏ sự khó khăn trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng. Do đó, Ngân hàng phải tập trung hơn nữa để nâng cao chất lượng tín
dụng đối với hộ sản xuất nói chung và chất lượng cho vay ngắn hạn nói
riêng. Giải quyết mâu thuẫn giữa mục tiêu lợi nhuận và an toàn trong kinh
doanh là vấn đề rất phức tạp.
Ngược lại với tình hình cho vay ngắn hạn, dư nợ trung - dài hạn tăng
trưởng một cách vững chắc, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong dư nợ cho
vay hộ sản xuất : năm 1996 là 36,8 %, năm 1997 là 40 %, năm 1998 là 45
% và năm 1999 đạt được 46 %, năm 2000 đạt 47%. Đây là kết quả đáng
mừng vì doanh số thu nợ trung - dài hạn cũng liên tục tăng qua các năm, tỷ
lệ doanh số thu nợ trên doanh số cho vay trung - dài hạn cũng liên tục tăng.
Các khoản cho vay trung - dài hạn được dùng để mua các tài sản có tính lâu
dài như gia súc, máy móc và đầu tư chiều sâu. Một điều đáng lưu tâm là
hầu hết số tiền vay là của những hộ sản xuất nhỏ bó hẹp ở quy mô gia đình
nhỏ, chứng tỏ nhiều hộ đang vươn lên vượt ra khỏi mức sản xuất thấp. Tuy
nhiên, nếu tính số tiền vay trung - dài hạn lại rất thấp, trung bình 1 lần vay
chỉ có 4,6 triệu đồng và cũng tương tự với dư nợ trung - dài hạn bình quân
giai đoạn này chưa đến 5 triệu đồng (năm 2000).
Về lý thuyết, tiền trả nợ trung - dài hạn ngân hàng lấy từ lợi tức kinh
doanh ở người sản xuất. Điều này rõ ràng chỉ thực hiện được với những
49
nhu cầu vay hàng chục triệu đồng, mỗi lần trong khi số khách hàng như vậy
ở NHNo huyện Từ Liêm là không nhiều. Số tiền bình quân thấp như vậy
bảo đảm nguy cơ thất th oát vốn do không trả được nợ là nhỏ nhưng không
kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất.
b. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo chi nhánh trực
thuộc.
Tính đến năm 2000, NHNo huyện thị trên địa bàn tỉnh đều tăng dư
nợ cho vay hộ sản xuất qua từng năm nhưng có sự chênh lệch khá lớn giữa
các Ngân hàng, phản ánh đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của từng khu vực
cũng như chất lượng kinh doanh của các Ngân hàng cơ sở. Một số khu vực
tập trung nhiều làng nghề thủ công truyền thống như huyện Thường Tín,
CHương Mỹ, Hà Đông; hay sản xuất nông sản như rau quả xanh chung cấp
cho Hà Nội ở Hoài Đức. Số tiền mỗi lần vay của các hộ này khá cao, có hộ
đến hàng chục triệu đồng để mua nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Do
vậy, dư nợ cho vay hộ sản xuất ở các Ngân hàng này khá cao. bình quân dư
nợ / cán bộ trên 1,2 tỷ đồng cao hơn nhiều so với mức trung bình của cả chi
nhánh. Các Ngân hàng khác có dư nợ cho vay hộ sản xuất không lớn. Hai
năm 95, 96 có 9 Ngân hàng và 2 năm 97, 98 có 8 ngân hàng, năm 2000 có
6 Ngân hàng, có dư nợ cho vay hộ sản xuất thấp hơn mức trung bình cộng
của 14 Ngân hàng huyện thị, trong đó có một số Ngân hàng như Ngân hàng
thị xã Hà Đông , Mỹ Đức, Đan Phượng đạt thấp.
Với phương châm đề ra hiện tại là "An toàn - Chất lượng - Hiệu quả"
rõ ràng là các Ngân hàng huyện thị đã cho vay có phần chặt chẽ hơn, năm
2000 số lượt hộ được vay vốn Ngân hàng tăng đáng kể, chủ yếu là hộ
nghèo, do vậy hạn chế sức sản xuất của nhiều hộ cần nhưng không được
vay. Điều này dễ dẫn đến tình trạng vay mượn lẫn nhau, vay hộ, cho vay lại
vốn Ngân hàng với lãi suất cao kiếm chênh lệch (tín dụng ngầm), vì vậy chỉ
tiêu định tính "bảo đảm nguyên tắc cho vay" không được thực hiện tốt.
Điều đáng lo hơn là những khách hàng tiềm năng có thể chuyển sang vay ở
những tổ chức tín dụng khác như quỹ tín dụng nhân dân, mặc dù NHNo
vẫn có uy tín và là chỗ dựa chủ yếu của người nông dân trên địa bàn nông
thôn.
c. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thu nhập hộ vay.
Bảng số 11 : Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo thu nhập hộ vay.
50
C
hỉ tiêu
Hộ nghèo (%) Hộ khác (%) Tổng
số
1
995
2,5 97,5 10
0
1
996
9,9 90,1 10
0
1
997
12,0 88,0 10
0
1
998
14,6 83,6 10
0
1
999
18,25 81,8 10
0
2
000
21,30 78,7 10
0
Nhằm thực hiện chính sách "Xóa đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà
nước , NHNo Việt Nam phát triển , mở rộng cho hộ nghèo vay vốn với
những ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay, tài sản thế chấp... NHNo huyện
Từ Liêm trong 6 năm qua đã mở rộng số hộ nghèo được vay vốn trên địa
bàn tỉnh giúp nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo, vươn lên. Dư nợ hộ nghèo liên
tục tăng qua các năm. Từ chỗ năm 1995 dư nợ hộ nghèo là 10.542 triệu
đồng, chiếm tỷ trọng 2,5 % trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất , thì năm
2000 dư nợ hộ nghèo đã là 138.055 triệu đồng (gấp hơn 12 lần năm 1995),
chiếm tỷ trọng 21,3 % trong tổng dư nợ hộ sản xuất. Năm 2000, NHNo
huyện Từ Liêm đã cho 42,620 lượt hộ nghèo vay với số tiền 21 tỷ, đưa số
hộ còn dư nợ lên 106.866 hộ với số tiền là 138.055 tỉ đồng, nhiều hộ vay
sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thực hiện trả nợ Ngân hàng đúng hạn vốn
vay và lãi. Tín dụng Ngân hàng đã giúp 14.217 hộ phát triển sản xuất ổn
định đời sống, vượt qua ngưỡng đói nghèo, thực hiện xây dựng nông thôn
mới.
d. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo hình thức chuyển tải
vốn.
Theo quyết định 499A, NHNo thực hiện 2 hình thức chuyển tải vốn
là cho vay trực tiếp hộ sản xuất và cho vay thông qua tổ vay tốn (tổ, nhóm).
Theo quyết định 180- HĐQT, NHNo có thêm hình thức chuyển tải vốn thứ
3 là cho vay thông qua doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp Nhà nước. Do
51
QĐ 180 - HĐQT có hiệu lực từ 01/ 01/ 1999 và sau đó có QĐ 06 của
HĐQT trừ việc ban hành quy định cho vay đối với khách hàng do đặc điểm
kinh tế xã hội riêng của Hà Tây , NHNo huyện Từ Liêm mới chỉ thực hiện
2 hình thức chuyển tải vốn là cho vay trực tiếp và cho vay thông qua tổ vay
vốn.
Bảng 12 : Dư nợ vay đối với hộ sản xuất theo hình thức chuyển tải vốn.
C
hỉ tiêu
Cho vay trực tiếp Cho vay qua
“nhóm”
Tổng
số
1
995
84,67 15,33 10
0
1
996
80,52 19,48 10
0
1
997
78,35 21,7 10
0
1
998
72,2 27,8 10
0
1
999
69,6 30,4 10
0
2
000
57,2 32,8 10
0
Trên 80 % doanh số cho vay năm 1999, 2000 được thực hiện bằng
hình thức vay trực tiếp, cho vay thông qua các tổ tín chấp đạt kết quả khả
quan. Dư nợ cho vay qua nhóm ngày càng tăng, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ
trọng 30 % trong tổng dư nợ hộ sản xuất. Đến năm 2000 dư nợ cho vay qua
nhóm đã đạt được 299.757 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 32,8 % tổng dư nợ.
Đây là dấu hiệu tốt vì hình thức cho vay qua nhóm đang được đánh giá là
hình thức có hiệu quả cao thông qua kinh nghiệm của các nước đang phát
triển. Mặc dù vậy, số khách hàng vay vốn qua nhóm chỉ chiếm 23 % tổng
số hộ gia đình. Tính trung bình mỗi nhóm có khoảng 15 thành viên và món
vay trung bình chỉ khoảng xấp xỉ 2 triệu (bảng số 14). Trong khi đó món
vay trung bình vay trực tiếp xấp xỉ 6 triệu. Vì vậy, Ngân hàng cần tăng hơn
nữa hình thức cho vay qua nhóm và quy mô 1 món vay để giảm nhẹ công
việc cho cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với hộ sản xuất.
Bảng số 13 : Dư nợ cho vay qua "nhóm" tại NHNo huyện Từ Liêm.
Đơn vị : triệu đồng
52
Chỉ tiêu : 1998
1999
2000
Tổng số hộ : 515.114
537.875
644.741
Tổng số nhóm : 4.647
4.959
6.212
Tổng số thành viên :
Tỷ trọng trong tổng số hộ gia đình :
1998 1999 2000
80.873 88.249 106.866
15,7 % 16,4 % 23 %
Tổng số thành viên 1 nhóm : 17
18
19
Tổng dư nợ : 159.090
195.474
299.757
Dư nợ / 1 thành viên : 1,97
2,2
2,8
Ngân hàng đã hợp tác với rất nhiều các tổ chức xã hội khác như Hội
Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội làm vườn, Đoàn thanh
niên... để tổ chức cho vay qua tổ nhóm. Số nhóm được vay năm 2000 đã
lên tới gần 5.500 nhóm trong đó cho vay hộ nghèo 100 % thông qua nhóm.
Đây là một hướng đi mới đúng đắn thể hiện công tác xã hội hoá hoạt động
cho vay, nâng cao sức tương trợ lẫn nhau giữa các hộ nông dân, nhất là
giúp hộ nghèo có được vốn để sản xuất, thoát khỏi đói nghèo.
53
2.4. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất :
Để đánh giá tình hình dư nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất Ngân hàng
thường sử dụng chỉ tiêu : Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ hộ sản xuất.
Bảng 14 : Tỷ lệ dư nợ quá hạn/ Tổng dư nợ hộ sản xuất giai đoạn 95 - 2000
Đơn vị : triệu đồng
C
hỉ tiêu
Tổng dư nợ HSX Dư nợ quá hạn
HSX
NQH/
Tổng
1
995
413.892 4.508 1,1
1
996
517.346 6.554 1,2
7
1
997
572.899 6.801 1,1
9
1
998
572.505 6.530 1,1
4
1
999
643.131 8.039 1,2
5
2
000
857.100 10.200 1,1
0
Kết quả trên cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất của Ngân hàng ở
mức thấp. So với tỷ lệ nợ quá hạn chung (năm 2000 là 1,10%). Dư nợ quá
hạn hộ sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ quá hạn. Trong
2 năm 99 và 2000 dư nợ quá hạn hộ sản xuất chiếm tới 94 % tổng dư nợ
quá hạn. Đây là kết quả tất yếu vì với hàng ngàn hộ vay vốn và hàng vạn
lượt vay, đồng thời các hộ sản xuất vay vốn đều sản xuất , kinh doanh trong
lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, mức độ rủi ro tín dụng trong khu vực này sẽ
cao hơn nhiều những khu vực khác. Mặt khác, hộ sản xuất thường có dư nợ
chiếm tới trên 80 % tổng dư nợ cho nên tỷ trọng dư nợ quá hạn hộ sản xuất
trong tổng dư nợ luôn ở mức cao.
Kết quả nổi bật của Ngân hàng trong hoạt động cho vay hộ sản xuất
những năm qua là tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm rất thấp, nhỏ hơn rất nhiều
mức trung bình của NHNo Việt Nam (hơn 5% năm) và nhỏ hơn mục tiêu
phấn đấu của NHNo Việt Nam là tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3% năm. Xét
riêng khu vực đồng bằng sông Hồng gồm những tỉnh có điều kiện sản xuất
54
tương đối gần gũi với tỷ lệ nợ quá hạn tới 10 % (98, 99) thì có thể thấy chất
lượng tín dụng NHNo huyện Từ Liêm là cao. Tuy nhiên, nợ quá hạn hộ sản
xuất cũng như nợ quá hạn chung năm 2000 của Ngân hàng bắt đầu giảm
hơn so với 2 năm 98, 99 cả về số tuyệt đối và số tương đối, cùng với dư nợ
hộ sản xuất tăng không đáng kể, doanh số thu nợ tụt xuống, thì đó là dấu
hiệu để Ngân hàng quan tâm hơn nữa tới chất lượng tín dụng đối với hộ sản
xuất. Mặc dù vậy, nhìn vào khối lượng cho vay hộ sản xuất mà Ngân hàng
đang quản lý là mức cao trong hệ t hống NHNo thì đây là sự cố gắng lớn
của NHNo huyện Từ Liêm.
Để đánh giá đầy đủ hơn về dư nợ quá hạn hộ sản xuất phải phân loại
nợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi cách phân loại nợ quá hạn
giúp Ngân hàng tìm ra các biện pháp để hạn chế tới mức thấp nhất dư nợ
quá hạn cho vay hộ sản xuất.
a. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thời gian.
Cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian giúp Ngân hàng tính toán
được khả năng thất thoát vốn (nợ khó đòi) trên cơ sở đó lập quỹ dự phòng
rủi ro tín dụng đồng thời hỗ trợ công tác chỉ đạo điều hành trong Ngân
hàng.
Trong tổng số nợ quá hạn, thông thường nợ quá hạn > 360 ngày
chiếm tỷ trọng khá cao, năm 1997 là 50 %, năm 1998 là 35 %, năm 1999 là
25 %, năm 2000 là 15 %. Đây được coi là những khoản nợ không thu hồi
được, do đó làm ảnh hưởng tới vốn kinh doanh của Ngân hàng. Trên thực
tế số này còn cao hơn vì xác suất không đòi được nợ từ những khoản nợ
dưới 1 năm hoàn toàn có thể xảy ra. Mặc dù nợ quá hạn > 360 ngày năm
2000 giảm xuống chỉ còn chiếm 15 % nhưng đây vẫn là một con số mà
không một Ngân hàng nào mong muốn và cần phải tiếp tục giảm xuóng.
Theo quy định trích phòng xử lý rủi ro, tỷ lệ trích dự phòng nợ quá
hạn < 1 năm là 13 %, trên 1 năm là 100 %. Từ đó có thể tính được số nợ
khó đòi của Ngân hàng qua các năm. Qua kết quả tính toán thì khả năng
thất thoát vốn của Ngân hàng còn cao. Năm 1996 là 2.300 triệu, chiếm 35
% tổng nợ quá hạn, năm 1997 là 4.462 triệu chiếm 65,6 ^, năm 1998 là
3.389 triệu chiếm 51,9 % và năm 1999 là 3.420 triệu chiếm 42,5 %, năm
2000 là 3.638 triệu chiếm 36 %. Mặc dù nợ khó đòi năm 2000 tăng không
đáng kể so với năm 1999 về số tuyệt đối và chiếm tỷ trọng thấp hơn năm
55
1999, mà chủ yếu tập trung vào nợ quá hạn < 180 ngày, đó là một dấu hiệu
đáng mừng cho Ngân hàng nhưng Ngân hàng vẫn phải củng cố, tập trung
giảm đến tối thiểu khả năng thất thoát vốn và những khoản nợ quá hạn <
180 ngày khả năng không đòi được vẫn có thể xảy ra. Tỷ lệ nợ khó đòi cao
luôn là thách thức với Ngân hàng cần phải tháo gỡ.
b. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ
Bảng 15 :
Đơn vị : %
C
hỉ tiêu
Ngắn hạn Trung - dài hạn
1
997
1,65 0,5
83 27
1
998
1,46 0,75
71 29
1
999
1,39 0,73
68 32
2
000
1,32 0,7
66 30
Nợ quá hạn cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, năm 97 là 83 %
năm 98 là 71 %, năm 99 là 68 %, năm 2000 là 66 %. Đồng thời tỷ lệ nợ quá
hạn cho vay ngắn hạn lớn hơn rất nhiều so với tỷ lệ nợ quá hạn cho vay hộ
sản xuất trung bình là 1,5 %. Trong khi đó, nợ quá hạn cho vay trung - dài
hạn có tỷ lệ rất thấp, nhỏ hơn 1 % năm, đồng thời dư nợ trung - dài hạn
liên tục tăng qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1999 và
năm 2000 dư nợ trung - dài hạn chiếm tỷ trọng 51 % tổng dư nợ hộ sản
xuất. Như vậy, cho vay trung - dài hạn ngày càng có chất lượng cao hơn
cho vay ngắn hạn.
Nợ quá hạn chủ yếu nằm trong cho vay ngắn hạn (xấp xỉ 70%) trong
đó tập trung vào hộ sản xuất nông nghiệp hay chính xác hơn là ngành chăn
nuôi. Ngành này cần vốn đầu tư mua giống khá lớn (năm 2000 bình quân 1
hộ chăn nuôi vay ngắn hạn số tiền xấp xỉ 10 triệu đồng) và phải phòng dịch
56
cẩn thận. Do vậy nên có khó khăn trong kinh doanh sẽ khó trả đủ vốn vay
Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận thu được cao nên là ngành hấp dẫn
đầu tư và do vậy Ngân hàng chấp nhận rủi ro khi cho vay.
Hoạt động Ngân hàng luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro làm giảm sút
lợi nhuận cũng như sau an toàn của Ngân hàng , cho nên các Ngân hàng
luôn phải dự đoán được tình hình hoạt động của mình. Đối với nợ quá hạn,
Ngân hàng phải có những biện pháp xử lý kịp thời và ngăn chặn nợ quá hạn
mới phát sinh trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn một
cách đầy đủ và chính xác.
c. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo nguyên
nhân
Dựa vào bảng phân tích các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn giai
đoạn 1996 - 2000 (bảng 15) có thể rút ra một số nguyên nhân sau :
a. Về nguyên nhân khách quan :
Tổn thất do thiên tai bất khả kháng chiếm tỷ trọng cao, trung bình
gần 45 % tổng số nợ quá hạn. Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn
của môi trường xung quanh như thời tiết không thuận lợi, sâu bệnh ở cây
trồng, vật nuôi ảnh hưởng xấu đến thu nhập của hộ sản xuất và giảm khả
năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Năm 2000, thường xuyên xảy ra lũ lụt,
thời tiết xấu đã làm cho nợ quá hạn do thiên tai bất khả kháng gây ra chiếm
tới 48,4 % tổng dư nợ quá hạn.
Một nguyên nhân cũng chiếm tỷ trọng cao là do khách hàng kinh
doanh thua lỗ : năm 1998 là 44,9 % , năm 1999 là 43,8 %. Tuy nhiên nợ
quá hạn do nguyên nhân này gây ra chỉ còn chiếm 37,2 % mặc dù con số
này vẫn còn là quá cao. Điều này xuất phát từ năng lực sản xuất kinh doanh
của nhiều hộ còn kém, thiếu thông tin về thị trường nhất là vấn đề giá cả
hàng hoá. Tình trạng ép giá nông sản lúc thu hoạch xảy ra thường xuyên
làm giảm thu nhập người lao động. Nhiều hộ do không tính toán được nhu
cầu thị trường nên đầu tư cho sản xuất lớn, đến khi bán sản phẩm lại vượt
quá nhu cầu thị trường dẫn đến thu lỗ, không trả được nợ ngân hàng. Đây
là nguyên nhân khách quan, nhưng cũng có nhiều trường hợp do việc xác
định kỳ hạn nợ không hợp lý nên dù chưa ra sản phẩm mà khách hàng đã
đến hạn trả lãi, khách hàng phải dùng vốn lưu động hoặc vay nóng với lãi
suất cao để trả nợ cho Ngân hàng. Kết quả là gây khó khăn cho hoạt động
57
sản xuất và có thể dẫn đến thua lỗ. Nguyên nhân này thường xuyên chiếm tỷ
trọng xấp xỉ 50 % nợ quá hạn.
Một nguyên nhân khác cũng xuất hiện thường xuyên là khách hàng
dùng sai mục đích số tiền vay hay còn gọi là "rủi ro đạo đức". Do tâm lý
muốn giàu nhanh chóng, một số người vay đã dùng tiền Ngân hàng để kiếm
lợi bất hợp pháp như chơi đề, cờ bạc, hụi (họ) hay buôn bán... Do số lượng
khách hàng quá đông mà số lượng cán bộ tín dụng quá nhỏ dẫn đến việc
kiểm tra sau khi cho vay lơi lỏng, tạo điều kiện cho khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.pdf